Xây dựng, phát triển mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 - 2020 được thực hiện theo những định hướng cơ bản sau đây:
a. Mở rộng hợp lý quy mô đào tạo đại học, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa và hiện đại hóa; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước; góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài; thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo, thực hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn công tác đào tạo với nghiên cứu khoa học và đời sống xã hội;
b. Kết hợp hài hòa giữa việc khai thác mặt tích cực của cơ chế thị trường với việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước; nhà nước tăng cường đầu tư ngân sách, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục đại học; tạo quỹ đất xây dựng trường; thực hiện công bằng xã hội; ban hành chính sách hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ người học thuộc các đối tượng ưu tiên, khuyến khích học tập, đồng thời đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục nhằm huy động mọi nguồn lực xã hội tham gia phát triển giáo dục đại học;
62 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2937 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó sự quản lý tốt về quy mô của các cơ quan nhà nước và sự hướng nghiệp tại cấp phổ thông trung học chưa được tốt dẫn đến những sai xót trong việc chọn trường của học sinh
Cơ cấu giữa sinh viên vừa làm vừa học và sinh viên chính quy chưa phù hợp. Hoạt động của các lớp mở ngoài trường chưa được quản lý chặt chẽ. Hệ đào tạo vừa làm vừa học ở đại học là nơi giúp cho người người đã đi làm có điều kiện trang bị thêm kiến thức để phục vụ cho công việc tuy nhiên việc hiểu sai rằng đây là nơi để lấy bằng cấp phục vụ cho quá trình thăng tiến trong công việc; chất lượng đầu vào và đào tạo bị buông lỏng dẫn đến quy mô sinh viên vừa học vừa làm tăng nhanh đặc biệt tại các thành phố lớn
Xã hội hóa giáo dục đại học
Số lượng các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập còn ít. Tâm lý xã hội đối với các trường ngoài công lập vẫn còn có sự phân biệt, sự thiếu về giáo viên khiến các trường này phải mời giáo viên các trường công lập thỉnh giảng cũng khiến cho chất lượng đào tạo của các trường này không đảm bảo; cơ chế, chính sách đối với việc thành lập các trường tư của nhà nước chưa thu hút được các doanh nghiệp mạnh, tư nhân giàu có tham gia vào việc xây dựng các trường này.
Phần lớn các trường thành lập mới là trường công lập và được nâng cấp từ cơ sở đào tạo có sẵn. Việc tăng quy mô, đạt các tiêu chuẩn tối thiểu để được nâng cấp đang được các trường thực hiện để tạo điều kiện nâng cấp trường mình từ đó tăng lợi nhuận từ học phí của học viên là vấn đề đáng được quan tâm vì nó làm cho chất lượng đào tạo đại học của nước ta giảm xuống
Các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo
Trình độ giảng viên còn hạn chế, điều này bắt nguồn từ việc quá tải trong giảng dạy dẫn đến thiếu thời gian cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ; lương và các chính sách quan tâm đến đời sống đội ngũ giảng viên chưa được thỏa đáng. Lương hiện tại của họ thường chỉ bằng 1 phần tư số tiền cần để trang trải cho cuộc sống dẫn đến họ phải làm thêm các công việc tay trái cũng là 1 nhân tố làm ảnh hưởng đến nhiệt huyết của họ trong giảng dạy. Hơn nữa với đồng lương như vậy không đem lại cho họ phẩm giá mà họ xứng đáng có được trong 1 đất nước giàu truyền thống lịch sử văn hoá có nền giáo dục với sự kính trọng cao.
Đội ngũ cán bộ trẻ được đào tạo chưa tốt dẫn đến chưa đủ trình độ thay thế đội ngũ đương nhiệm đã luống tuổi. Bên cạnh đó, trình độ tin học và ngoại ngữ của cả giảng viên và sinh viên còn hạn chế cũng gây khó khăn cho việc áp dụng công nghệ vào trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu
Cơ sở vật chất nghèo nàn, hệ thống thư viện trường nhỏ bé, mức chi đào tạo của NSNN/sinh viên đại học hệ chính quy chỉ khoảng 4,5 triệu/năm. Vấn đề về ngân sách lại 1 lần nữa gây khó khăn cho chúng ta trong việc phát triển hệ thống giáo dục đại học
Cơ chế quản lý tài chính còn nhiều bất cập. Cơ chế chính sách của nhà nước còn nhiều bất cập cùng với trình độ của đội ngũ quản lý giáo dục còn nhiều hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao là những nguyên nhân chính khiến việc quản lý tài chính của ngành giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng kém hiệu quả và lãng phí
Chất lượng và hiệu quả đào tạo
Quy trình đào tạo đại học còn cứng nhắc, thiếu linh hoạt, khép kín. Hệ đại học ở nước ta về cơ bản vẫn chỉ là sự nối tiếp của hệ trung học phổ thông chứ chưa có sự đột phá trong giảng dạy và học tập; việc học chay, thầy đọc trò chép vẫn phổ biến, nhiều tài liệu phục vụ cho học tập đã cũ, không còn phù hợp vẫn được đưa vào giảng dạy. Chính vì thế việc ứng dụng học tập vào thực tế của sinh viên gặp nhiều khó khăn, đây cũng là 1 trong lý do chính khiến các trường đại học cùa nước ta chưa được quốc tế đánh giá cao
Số sinh viên có việc làm phù hợp với ngành nghề đào tạo chưa cao do cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa hợp lý,…
Đánh giá tình hình thực hiện và công tác quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng 5 năm (2001 – 2005)
Việc đánh giá kết quả thực hiện công tác quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2001 – 2005 còn chung chung, chưa có số liệu cụ thể, chưa có các chuẩn để đánh giá vì thế các đánh giá mang nặng tính chủ quan của người lập quy hoạch, chưa chỉ ra nguyên nhân của những yếu kém của công tác quy hoạch, sự phân cấp trách nhiệm của các bên đối với những yếu kém này cũng chưa được đề án nêu ra.
Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020
Nội dung quy hoạch
Tổng số sinh viên đại học và cao đẳng
Đề án đã đưa ra những con số dự báo quan trọng cho giai đoạn tới để từ đó đặt mục tiêu rất cụ thể tuy nhiên với mục tiêu tăng quy mô đào tạo lên gấp 4 lần năm 2005 vào năm 2020 là 1 mục tiêu không khả thi. Với thực trạng nền giáo dục đại học nước ta vừa thiếu vừa yếu như hiện nay việc tăng quy mô quá nhiều như trên chỉ làm giảm ngày 1 trầm trọng hơn chất lượng lực lượng lao động. Hơn nữa việc đào tạo ở trình độ đại học không phải là con đường duy nhất để đào tạo đội ngũ nhân công phục vụ cho phát triển kinh tế; kinh tế nước ta cần nhiều những công nhân trình độ cao hơn là những chuyên gia, kỹ sư. Việc để cho đội ngũ nhân lực được đào tạo ở trình độ đại học làm thay công việc của đội ngũ nhân lực đào tạo ở trình độ trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề là 1 sự lãng phí
Mở rộng hội nhập và tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế là 1 xu thế tất yếu của quá trình toàn cầu hóa; tuy nhiên việc quốc tế hóa các chương trình đào tạo đại học là 1 việc cần được xem xét kỹ lưỡng. Các chương trình đào tạo ở bậc đại học của mỗi quốc gia được thiết kế theo những định hướng đào tạo phù hợp với yêu cầu nhân lực và mặt bằng trí tuệ của xã hội nước họ vì thế việc sao chép các chương trình đào tạo có sẵn của các nước khác là 1 việc cần phải xem xét lại
Với 1 nước có mật độ dân số vào diện đông nhất thế giới như nước ta việc mở rộng tiếp nhận sự chuyển giao những công nghệ của các ngành công nghệ sử dụng nhiều lao động là rất cần thiết để giải quyết vấn đề thất nghiệp của nước ta, tuy nhiên với với những ngành công nghệ sử dụng nhiều vốn thì việc tiếp nhận cần có chọn lọc vì những ngành công nghệ này thường là công nghệ cao với chi phí đầu tư lớn, thiên về dài hạn nên với nguồn ngân sách nhỏ bé của chúng ta chưa thể đáp ứng đầy đủ được
Yêu cầu phát triển nhanh những ngành công nghiệp hiện đại sử dụng công nghệ tiên tiến để đi tắt đón đầu, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa là 1 yêu cầu quan trọng để đổi mới đất nước tuy nhiên để thực hiện được điều này thì cần lưu ý rằng nếu không có sự tự nghiên cứu và phát triển công nghệ của bản thân thì sự “đi tắt đón đầu” đó chỉ là 1 hình thức làm thuê và phụ thuộc rất nhiều và công nghệ nước ngoài
Ngành nghề đào tạo
Đề án đã có sự bao quát toàn bộ các ngành nghề của nền kinh tế tuy nhiên việc xác định các ngành nghề ưu tiên ở đây còn chung chung, chưa cho người thi hành thấy được thực chất ngành nghề nào thực sự là ngành nghề được ưu tiên
Bản quy hoạch cơ cấu ngành nghề cũng chưa được hợp lý: tỷ trọng sinh viên/ tổng sinh viên/ tổng sinh viên ngành nông – lâm – ngư nghiệp từ 7-9% tương đương với khoảng 80.000 sinh viên (2010) và 160.000 sinh viên (2020) là quá nhiều vì nước ta có sự hạn chế về các nguồn lực tự nhiên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp; nhóm ngành dịch vụ nhằm nâng cao mức thụ hưởng của dân cư như ngành du lịch, giải trí, … (trong nhóm các ngành/ lĩnh vực khác) thì lại có tỷ lệ khiêm tốn
Cơ cấu trình độ đào tạo đại học
Việc điều chỉnh giảm tỷ trọng sinh viên đại học trong tổng số sinh viên đại học và cao đẳng xuống mức 56% vào năm 2020 là hợp lý vì ở các cấp đào tạo thấp hơn sẽ có thời gian đào tạo ngắn hơn và vẫn đáp ứng được yêu cầu của công việc không cần trình độ cao vì thế cần khuyến khích để đào tạo cao đẳng phát triển nhiều hơn
Tuy nhiên việc từng bước phát triển hệ trung cấp chuyên nghiệp thành hệ cao đẳng 2 năm là không cần thiết vì mục đích của đào tạo trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo cao đẳng là khác nhau vì thế chỉ nên nâng cao trình độ trung cấp chuyên nghiệp chứ không nên chuyển thành trình độ cao đẳng
Định hướng điều chỉnh cơ cấu đào tạo giữa các trình độ ĐH/CĐ/TCCN/DN cũng chưa được hợp lý. Với 1 nước thuần nông đang trong quá trình chuyển thành nước công nghiệp như nước ta thì việc giải quyết việc làm cho lực lượng lao động dôi dư rất lớn là rất quan trọng. Và cách giải quyết hiệu quả nhất là tạo điều kiện cho họ học nghề tại các trường nghề vì thế tỷ lệ đào tạo ở trình độ dạy nghề cần được chú trọng với 1 con số lớn hơn nữa
Mạng lưới trường của các vùng lãnh thổ
Phần này đề án đã không đưa ra được sự đánh giá riêng cho từng vùng kinh tế của nước ta, những nhận định còn rất chung chung và giống hệt nhau giữa 6 vùng kinh tế. Điều này là bất hợp lý vì mỗi vùng kinh tế có những điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác nhau vì thế các ngành nghề thế mạnh và ưu tiên cũng phải khác nhau tùy theo điều kiện của mỗi vùng
Mạng lưới trường của các vùng kinh tế trọng điểm
3 vùng kinh tế trọng điểm được đề án nêu ra là 3 đầu tàu kinh tế của cả nước vì thế việc đầu tư cho giáo dục của 3 vùng này là tất yếu. Đề án cũng đã khẳng định phải “ phát triển các trường đại học, cao đẳng theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực nhằm khai thác tối đa các cơ sở đào tạo hiện có”. Mặc dù vậy chúng ta cũng cần xem xét lại 1 số nội dung đã được đề cập đến tại phần này:
Việc đặt mục tiêu đến năm 2020 có xấp xỉ 60% dân số từ 18 đến 24 tuổi của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía bắc và 50% dân số từ 18 đến 24 tuổi của các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía nam là không hợp lý. Mặc dù chúng ta hướng tới xây dựng lực lượng lao động có chất lượng cao nhưng chất lượng đào tạo ở bậc phổ thông của chúng ta chưa cao, nên để tạo việc làm thì sẽ có 1 bộ phận không nhỏ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông chỉ có thể đủ trình độ học trung cấp chuyên nghiệp và học nghề. Điều này vẫn đúng với định hướng tạo điều kiện học tập ở bậc đại học cho tất cả mọi người tuy nhiên không được phép buông lỏng quản lý chất lượng đầu vào và tương lai gần là cả đầu ra.
Điều kiện, giải pháp và bước đi thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020
Điều kiện để thực hiện quy hoạch
Đề án đã chỉ ra những điều kiện cần thiết về đất đai, đội ngũ giảng viên cũng như nguồn vốn cần thiết để thực hiện quy hoạch nhưng cần có sự cụ thể hơn về việc cần bao nhiêu giảng viên, ở trình độ nào và cơ cấu nguồn vốn được sử dụng như thế nào
Giải pháp
Nhóm các giải pháp về đầu tư, huy động vốn
Việc sử dụng ngân sách theo hướng tập trung hỗ trợ cho vùng khó khăn là 1 chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta tuy nhiên cần có sự xem xét kỹ lưỡng hơn vì ngân sách hỗ trợ vùng khó khăn sẽ giúp chúng ta đạt được sự công bằng xã hội nhưng lại không đạt được hiệu quả và sử dụng nguồn vốn từ đó có thể gây nên sự lãng phí
Ngân sách còn được ưu tiên sử dụng để đào tạo các ngành nghề khoa học cơ bản, ngành nghề mới, công nghệ cao. Đây đều là những ngành nghề mà các trường đại học của chúng ta còn yếu và chưa được chú trọng tuy nhiên để có thể phát triển những ngành nghề này cần 1 sự phát triển có hệ thống theo chiều dọc. Vì vậy nên cần đầu tư vào cả chuỗi ngành nghề đó theo 1 tỷ lệ hợp lý chứ không nên chỉ tập trung vào 1 số khâu trong hệ thống.
Đề án còn nêu ra 2 nhóm ngành nghề khác cũng được ưu tiên vốn để phát triển đó là các ngành/nghề liên quan đến văn hóa dân tộc và ngành/nghề có chi phí đào tạo cao nhưng nhu cầu xã hội thấp tuy nhiên cần có sự định nghĩa hay thống kê cụ thể những ngành/nghề này là gì vì nó gây nên sự khó hiểu đối với các cấp thi hành
Việc xây dựng khuôn khổ pháp lý và quy định cụ thể nhằm thu hút sự tham gia và tăng nhanh vai trò của cộng đồng các doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế là 1 chủ trương đúng đắn nhưng cũng cần xây dựng thêm các chính sách để các doanh nghiệp có đóng góp cho sự phát triển của hệ thống giáo dục đại học này thu được những lợi ích xứng đáng với những gì họ đã bỏ ra
Việc xây dựng chính sách học phí đáp ứng nhu cầu đào tạo đảm bảo chất lượng và phù hợp với khả năng của người học là điều rất được mọi người mong đợi tuy nhiên sử dụng học phí như 1 công cụ điều tiết quy mô, vùng miền và cơ cấu ngành nghề đào tạo thì lại là 1 chính sách sai lầm vì nó không đảm bảo sự công bằng xã hội, dẫn đến sự phân biệt đối xử với người học. Hơn thế nữa với tình hình kinh tế - xã hội nước ta hiện nay không dễ để xác định thu nhập của các nhóm đối tượng cũng như phòng ngừa các hiện tượng tiêu cực nảy sinh khi thực hiện chính sách này
Nhóm các giải pháp về phát triển đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý đại học
Việc gửi cán bộ giảng dạy đại học đi đào tạo và thực tập nâng cao trình độ bằng ngân sách nhà nước và ưu tiên đào tạo cán bộ khoa học là rất cần thiết vì đội ngũ giảng viên của chúng ta vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về chất lượng. Nhưng nếu việc này được tiến hành thông qua chương trình xử lý nợ nước ngoài thì cần phải có sự xem xét lại. Các trường đại học lớn trên thế giới là những trường đại học được nhà nước trao cho quyền tự chủ rất lớn, không chỉ về giảng dạy và nghiên cứu mà cả trong việc tuyển chọn học viên. Vì thế nếu dựa vào uy tín quốc gia để gửi các giảng viên của nước ta vào học tại đó và giảng viên đó lại không theo được chương trình thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín đất nước.
Nhóm các giải pháp tăng cường cơ sở vật chất
Đổi mới nội dung chương trình và hiện đại hóa chương trình và phương pháp giáo dục đại học là việc làm mà chúng ta đã được khuyến cáo bởi các chuyên gia hàng đầu về giáo dục cả ở trong nước và quốc tế tuy nhiên việc biên soạn chương trình và viết giáo trình theo nội dung các chương trình tiên tiến thì cũng giống như việc quốc tế hóa các chương trình đào tạo, sự sao chép này cần được cân nhắc lại để tránh việc pha trộn quá nhiều thứ trong hệ thống giáo dục nước ta chứ không phải 1 chương trình hay giáo trình thật sự phù hợp với nền kinh tế xã hội của nước ta
Mạng thông tin toàn cầu đã được rất nhiều trường đại học trên thế giới sử dụng như 1 công cụ hữu hiệu để tiếp thu kiến thức, tinh hoa của thế giới nhưng các trường đại học ở nước ta vẫn chưa sử dụng hiệu quả cũng như chưa có sự kết nối với các trường đại học trên thế giới. Nguyên nhân chính cần phải nêu ra ở đây là sự hạn chế trong việc biết và sử dụng ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh)
Nhóm các giải pháp về quản lý
Chủ trương thực hiện đa ngành hóa, đa lĩnh vực hóa đối với các trường đại học và cao đẳng còn đào tạo đơn ngành là 1 chủ trương chưa đúng. Mặc dù bộ máy quản lý sẽ không phải chịu thêm nhiều gánh nặng nhưng việc đào tạo này sẽ dẫn đến sự dàn trải, đào tạo và nghiên cứu sẽ không có chiều sâu
Chính phủ cũng có nhiều chính sách ưu tiên để tư nhân có điều kiện mở trường tư như ưu tiên cho thuê đất, vay vốn ưu đãi, hỗ trợ đào tạo đội ngũ giảng viên… nhưng chính sách khuyến khích giáo viên các trường công lập chuyển sang tư thục thì không nên. Trong thời buổi kinh tế thị trường, mỗi giảng viên là tài sản quý của các trường đại học vì thế nên sự cạnh tranh giành lấy các giảng viên giỏi diễn ra thường xuyên giữa các trường với nhau. Chúng ta chỉ nên tạo cơ chế để sự cạnh tranh này được bình đẳng và đúng luật chứ không nên có sự khuyến khích theo phía này hay phía khác
Chương III: Đề xuất hoàn thiện đề án Quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020
Căn cứ hoàn thiện đề án
Quyết định 121/2007/QĐ-TTg Phê duyệt quy hoạch mạng lưới các trường đại học và cao đẳng giai đoạn 2006 – 2020
Thực trạng mạng lưới và quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng
Mạng lưới các trường đại học và cao đẳng hiện nay
Để giải quyết vấn đề về mối quan hệ và quy mô dạy nghề/trung cấp chuyên nghiệp/cao đẳng/đại học thì các cơ sở đào tạo trình độ thấp cần có sự hợp tác với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp trong việc tiếp nhận các học viên của mình sau khi ra trường với các cam kết về chất lượng đầu ra; qua đó các cơ sở có thể công bố rõ thông tin để học sinh biết và yên tâm theo học đạt chất lượng tốt và giảm lo lắng khi đầu ra đã được đảm bảo 1 phần. Các trường đại học và các doanh nghiệp cũng cần có sự hợp tác thống nhất tiêu chuẩn đánh giá chất lượng đào tạo để qua đó giúp các trường đại học xác định được những tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần trong khi trường mình còn thiếu để tăng cường trang bị thêm cho sinh viên còn các doanh nghiệp có thể dựa vào những tiêu chuẩn đánh giá đó để xác định trình độ sinh viên được đào tạo tại các trường dễ dàng và hiệu quả hơn
Để giảm bớt sự phân tán gây nên thiếu thống nhất quốc gia trong chỉ đạo và điều hành cần có có sự phân cấp rõ ràng hơn. Tôi xin đề xuất sự phân cấp cụ thể như sau:
Đảng chỉ lãnh đạo những việc thuộc thẩm quyền của mình, về công tác tư tưởng, tổ chức vận động thực hiện các chủ trương…
Bộ Giáo dục là đơn vị chủ quản
Các bộ, ngành liên quan giúp đỡ thực hiện các nhiệm vụ được giao trong quyền hạn, trách nhiệm được giao.
Chức năng quản lý nhà nước chỉ mang tính chất kiểm tra thanh tra, giám sát việc thực hiện đường lối chính sách, xây dựng nội dung chuyên môn, chương trình đào tạo (phần cứng)
Hội đồng trường là cơ quan quản trị cao nhất của trường đại học, cấu trúc của hội đồng trường nên có sự góp mặt của 2 thành phần là trong nhà trường và ngoài trường (đại diện cho cộng đồng, xã hội, các tổ chức phi chính phủ…)
Hiệu trưởng phải là người xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển, Hội đồng trường có trách nhiệm xem xét phê duyệt
Cần xây dựng thêm các viện, trung tâm nghiên cứu ngay trong các trường đại học, các viện nghiên cứu hiện có tùy theo các điều kiện cụ thể mà có thể sáp nhập hoặc liên kết chặt chẽ hơn trong nghiên cứu. Nguồn ngân sách cần có sự phân bổ theo hướng giảm ngân sách hỗ trợ đào tạo, tăng ngân sách cho hoạt động nghiên cứu. Ngân sách cho nghiên cứu được phân bổ lúc đầu theo số công trình nghiên cứu khoa học đăng ký sau đó tùy thuộc vào chất lượng và hiệu quả của các công trình nghiên cứu năm trước để phân bổ ngân sách nghiên cứu năm sau cho các trường
Phát triển theo vùng, miền và địa điểm đặt trường
1 số vùng đông dân nhưng tỷ lệ nhập học đại học thấp, nguyên nhân của vấn đề này bắt nguồn từ rất nhiều phía nhưng từ góc độ của mình Bộ giáo dục cần có chính sách và sự hỗ trợ nhiều hơn để tăng chất lượng giáo dục ở các cấp phổ thông. Ngoài ra ở các vùng khó khăn, kinh phí chi cho học tập của con em còn rất hạn chế nên cũng cần có chính sách hỗ trợ kinh phí học tập nhiều hơn để những học sinh tốt nghiệp có chất lượng tốt có điều kiện để thi vào các trường đại học có chất lượng tốt
Quy mô đào tạo
Quy mô đào tạo của cả hệ thống còn nhỏ bé. Để giải quyết vấn đề này trong thời gian 15 năm là 1 việc làm rất khó khăn, dễ rơi vào tình trạng nóng vội, tăng quy mô mà vô tình làm giảm chất lượng do thiếu giảng viên dẫn đến tình trạng các trường phải thuê giáo viên của nhau để đào tạo sinh viên của trường mình. Vì thế tùy vào các điều kiện của của từng vùng mà phát triển thêm các trường mới sẽ giúp quy mô đào tạo của chúng ta tăng dần lên mà không ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của các cơ sở hiện có
Vấn đề quy mô giữa các trường không đồng đều cũng cần có sự can thiệp của nhà nước theo 2 hướng:
Điều tiết quy mô dựa trên chỉ tiêu phân bổ cho mỗi trường dựa theo năng lực có thể đáp ứng
Xây dựng chương trình hướng nghiệp có hệ thống tại tất cả các trường phổ thông trong cả nước để giúp cho các em có sự hiểu biết cần thiết đối với tất cả các ngành học từ đó có sự lựa chọn ngành nghề và trường phù hợp với mình hơn
Cơ cấu giữa sinh viên vừa làm vừa học và sinh viên chính quy chưa phù hợp. Trên thực tế hệ vừa học vừa làm là nguồn thu chính của các trường đại học vì thế nên nhiều trường rất muốn tăng quy mô. Tuy nhiên đây cũng là nơi đẻ ra tiêu cực trong đào tạo đại học vì thế cần có sự can thiệp theo hướng xóa bỏ cấp bằng đại học vừa làm vừa học thay vào đó là chứng chỉ theo các chuyên ngành đào tạo
Xã hội hóa giáo dục đại học
Để tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng ngoài công lập cần xây dựng thêm các chính sách khuyến khích mở các cơ sở giáo dục đại học trong các tập đoàn, các doanh nghiệp lớn
Với các cơ sở đào tạo đang có mục tiêu phấn đấu để được nâng cấp lên thành trường đại học (với trường cao đẳng) hay trường cao đẳng(với trường trung cấp chuyên nghiệp)… thì cần có sự quản lý chặt tiêu chí về đảm bảo chất lượng đào tạo nếu được nâng cấp, tránh tình trạng khi trường được nâng cấp thì 1 loạt giảng viên của trường phải đi nâng cấp trình độ
Các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo
Một trong những nguyên nhân chính khiến giảng viên các trường phải đi dạy thêm ở ngoài hay làm các công việc khác là vì mức lương mà trường đại học trả cho họ không đủ để phục vụ cho đời sống của họ ở mức trung bình của xã hội. Các chính sách và kinh phí cung cấp hạn chế cũng gây khó khăn cho giảng viên rất nhiều khi đi vào nghiên cứu khoa học vì thế ngay cả với những giảng viên nhiệt huyết nhất thì họ cũng không điều kiện về kinh tế và thời gian để cập nhật kiến thức, nâng cao khả năng cũng như có sự động viên, hỗ trợ thích đáng cho sinh viên trong quá trình nghiên cứu. Chính vì quy trình này mà những sinh viên được đào tạo ra dù có chất lượng tốt nhất để phục vụ giảng dạy thì cũng còn rất khó khăn trong việc theo kịp trình độ giảng dạy và nghiên cứu của lớp trước chứ chưa nói đến trình độ của các nước có nền giáo dục phát triển. Cơ sở vật chất phục vụ cho quá trình tin học hóa có chất lượng kém và thiếu thốn cũng khiến cho giảng viên và sinh viên chưa có điều kiện phát triển trình độ tin học của bản thân
Thư viện là nơi để phát huy tinh thần tự học của giảng viên và sinh viên. Vậy mà với đa số các trường đại học của nước ta quy mô của thư viện còn rất nhỏ bé với 1 vài phòng đọc trật chội, không đủ điều kiện ánh sáng, bàn ghế…; số lượng đầu sách ít ỏi cũ kỹ, ít được cập nhật, nội dung chưa được chọn lọc kỹ lưỡng; đội ngũ phục vụ thiếu nhiệt tình đã ảnh hưởng lớn đến việc tự học này. Ở các thư viện công cộng cũng rơi vào tình trạng tương tự. Chính vì thế yêu cầu nâng cao chất lượng thư viện là 1 yêu cầu đáng được quan tâm. Chúng ta có thể có thể dựa vào sự đánh giá về chất lượng và các ý kiến góp ý của giảng viên cũng như sinh viên để sửa đổi, nâng cấp những mặt chưa được của thư viện.
Với mức chi đào tạo của NSNN/sinh viên đại học hệ chính quy chỉ khoảng 4,5 triệu/năm (chưa kể học phí và các sự đóng góp khác) đã gây khó khăn cho việc tăng chất lượng. Ngân sách nhà nước chi cho đào tạo đại học không phải là ít so với quy mô ngân sách của nước ta; vì thế việc tăng học phí để tăng chất lượng đào tạo đại học là cần thiết. Với các trường đại học ngoài công lập,khi muốn tăng học phí đều cần phải được sự cho phép của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng sự cam kết về tăng chất lượng. Với các trường đại học công lập khi đề xuất tăng học phí để tăng chất lượng thì phải chấp nhận giảm hoặc mất khoản hỗ trợ đào tạo của nhà nước. 1 số trường công lập không tăng học phí vì thế sẽ được cung cấp cấp kinh phí nhiều tuy nhiên cũng cần phải có những cam kết tăng chất lượng.
Để quản lý tài chính hiệu quả hơn thì việc công khai minh bạch các khoàn thu và chi của các cơ quan nhà nước và những trường đại học là cần thiết. Từ đó mới có thể đánh giá mức độ quản lý, tìm ra các khoản chi sai, chi bất hợp lý để có sự điều chỉnh tăng hiệu quả của chúng
Chất lượng và hiệu quả đào tạo
Quy trình đào tạo của các trường đại học vẫn còn chịu sự quản lý của các cơ quan nhà nước. Chính vì thế các trường đại học muốn đổi mới quy trình giảng dạy của trường mình để tăng chất lượng đào tạo đã gặp rất nhiều khó khăn. Họ phải xin cấp phép qua rất nhiều cửa, nhiều khâu, nhiều hội đồng đánh giá trong khi ở các trường đại học lớn trên thế giới việc này chỉ cần sự đánh giá ở cấp trường. Sự thận trọng khi thí điểm xây dựng những cái mới là cần thiết nhưng nếu quá thận trọng thì sẽ bỏ lỡ cơ hội, chậm chạp trong đổi mới và ra các quyết định.
Đến các tiêu chí cơ bản của 1 trường đại học lớn mà các trường đại học của nước ta còn chưa có trường nào của nước ta đạt được đầy đủ thì việc được xếp hạng trong danh sách các trường đại học có uy tín trong khu vực và trên thế giới sẽ mãi mãi chỉ là sự mong chờ hi vọng
Chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đảng và nhà nước đã xác định chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo để phục vụ tích cực và thường xuyên cho nền kinh tế - xã hội, cụ thể là:
Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội thể hiện ở 4 điểm sau:
Mục tiêu về giáo dục – đào tạo là mục tiêu ưu tiên quốc gia
Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện mục tiêu ở tầm quyền lực quốc gia
Chính sách đầu tư thuộc hàng ưu tiên ngân sách mỗi năm một tăng
Hệ thống chính sách đối với người dạy, người học tập ngày càng thể hiện sự tôn vinh của xã hội; khuyến khích, phát huy các giá trị đức tài của mọi công dân thông qua giáo dục – đào tạo
Giáo dục và đào tạo phải đi trước sự phát triển kinh tế - xã hội
Đầu tư cho giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng trong giáo dục
Giáo dục và đào tạo phải gắn chặt với yêu cầu phát triển của đất nước và phù hợp với tiến bộ của thời đại
Các mục tiêu giáo dục của Việt Nam
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111356.doc