MỤC LỤC
MỤC LỤC 2
Lời mở đầu 3
I. Các khái niệm 5
1. Khái niệm công nghệ 5
2. Khái niệm chuyển giao công nghệ 10
II Nguồn gốc và thị trường chuyển giao công nghệ 11
1. Nguồn gốc chuyển giao công nghệ. 11
2. Thị trường chuyển giao công nghệ 11
3. Tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ. 12
III . Thực trạng của chuyển giao công nghệ ở Việt Nam 15
1. Thực trạng nền kinh tế ở nước ta. 15
1.1 Sự thay đổi môi trường kinh doanh 15
1.2 Sứ mạng hay lợi nhuận 16
2. Vai trò của công nghệ đối với sự phát triển kinh tế 18
2.1 Tác động của công nghệ đối với nền kinh tế quốc gia 18
2.2 Tác động của công nghệ vào lợi ích và sự tăng trưởng của công ty 20
3. Chuyển giao công nghệ ở Việt Nam. 20
IV. Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ 25
1. Quy tắc chuyển giao công nghệ: 25
2. Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và Chuyển giao công nghệ 29
2.1 Các dòng chuyển giao công nghệ quốc tế chủ yếu. 29
2.2 Nội dung chuyển giao công nghệ. 31
1.3 Các kênh chuyển giao công nghệ. 32
2. Kinh nghiệm chuyển giao công nghệ ở Trung Quốc 38
V. Một số phương pháp chuyển giao công nghệ hiệu quả. 44
1. Phương pháp chuyển giao bằng dòng thông tin công nghệ. 45
2. Phương pháp chuyển giao công nghệ dựa vào sự di chuyển con người. 46
Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 50
49 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1821 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
200 hợp đồng chuyển giao công nghệ từ khu vực này là quá thấp.
Thứ hai, các doanh nghiệp tư nhân quy mô còn nhỏ bé, thiếu năng lực về tài chính để thanh toán các hợp đồng chuyển giao công nghệ, trong khi đó doanh nghiệp nhà nước thường muốn nhập khẩu thiết bị từ nước ngoài hơn vì còn có những lợi ích khác.
Thứ ba, mối liên kết và hợp tác trong sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài còn yếu. Kết quả điều tra vừa qua cho thấy 56% doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ qua con đường nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài; chỉ có 23% thông qua liên kết với các doanh nghiệp FDI mà thôi.
Nhiều ý kiến cho rằng một trong những lý do chính khiến các doanh nghiệp chưa nhanh chóng đổi mới công nghệ không chỉ là vấn đề thiếu vốn, thiếu thông tin về thị trường mà do nền kinh tế của VN chưa bước vào hội nhập toàn diện, đồng thời vẫn chưa thật sự chú trọng đến bản quyền sở hữu trí tuệ.
Động lực hàng đầu và mạnh nhất để buộc các doanh nghiệp VN đổi mới công nghệ là áp lực cạnh tranh do kết quả của việc mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua. Kết quả điều tra của chúng tôi cho thấy tới 90% các doanh nghiệp được hỏi đánh giá áp lực cạnh tranh là động lực lớn nhất để doanh nghiệp quyết định đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất và hạ giá thành sản phẩm để có thể tồn tại và mở rộng thị trường trong nước, quốc tế. Điều đó có nghĩa là một khi doanh nghiệp còn được bảo hộ, được hưởng vị thế độc quyền và chưa phải đối mặt với cạnh tranh thì họ sẽ còn chần chừ trong đầu tư đổi mới công nghệ. Thiếu vốn, thiếu thông tin về công nghệ và những hạn chế trong pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ chỉ là những cản trở tiếp theo.
Chính phủ cần phải có những chính sách tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp.
- Thực tế, Chính phủ vừa qua cũng đã ban hành khá nhiều chính sách nhằm thúc đẩy đổi mới công nghệ của doanh nghiệp như: các chính sách về hỗ trợ tài chính cho đầu tư đổi mới công nghệ; chính sách thúc đẩy hoạt động nghiên cứu triển khai; chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng đối với hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ... Tuy nhiên, kết quả điều tra vừa qua cho thấy tác động của những chính sách nói trên tới đầu tư đổi mới công nghệ của doanh nghiệp là không đáng kể.
Những nguyên nhân dẫn đến thực tế này là doanh nghiệp thiếu thông tin về các chính sách, ưu đãi của Nhà nước; thủ tục xét duyệt để được hưởng các ưu đãi còn phức tạp, rườm rà, chậm đi vào thực tế; các chính sách hiện hành chưa thật sự hấp dẫn doanh nghiệp, hiệu lực thi hành của văn bản chính sách ưu đãi chưa cao.
Theo tôi, Chính phủ cần đẩy nhanh quá trình cải cách kinh tế vĩ mô, hội nhập kinh tế quốc tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo hướng tạo môi trường pháp lý kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh để tạo áp lực đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nước; tiếp tục cải thiện chính sách thu hút đầu tư FDI vào VN, thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI, coi đây vừa là nguồn cung quan trọng cho đổi mới công nghệ, vừa là yếu tố tạo áp lực buộc doanh nghiệp trong nước phải quan tâm tới đổi mới công nghệ; có chính sách tăng cường liên kết ngang giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước.
Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ tài chính cho đổi mới công nghệ hiện hành của Nhà nước phải chuyển từ tài trợ trực tiếp theo cơ chế xin - cho sang cơ chế hỗ trợ gián tiếp, chủ yếu nên tập trung tạo điều kiện kỹ thuật hạ tầng, tạo khung pháp lý để hình thành thêm nhiều kênh cung ứng nguồn tài chính cho đổi mới công nghệ (chẳng hạn như quĩ đầu tư mạo hiểm). Phát triển thị trường khoa học và công nghệ theo hướng khuyến khích quá trình thương mại hóa sản phẩm công nghệ, chuyển giao công nghệ, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển mạnh hệ thống các tổ chức dịch vụ công nghệ, thông tin môi giới công nghệ, các trung tâm giao dịch và thực hiện các dịch vụ chuyển giao công nghệ.
Chỉ 3% doanh thu chi cho đổi mới công nghệ
Kết quả khảo sát 100 doanh nghiệp tại TP HCM và Hà Nội do UNDP tiến hành cho thấy, mức độ đầu tư cho đổi mới công nghệ của các đơn vị chỉ đạt khoảng 3% doanh thu mỗi năm.
Trung bình mỗi doanh nghiệp chỉ đầu tư khoảng 5 tỷ đồng/năm cho đổi mới công nghệ, chủ yếu là mua thiết bị, cải tiến máy móc phần cứng. Hầu hết các doanh nghiệp đang sử dụng dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị đồng bộ thuộc thế hệ từ những năm 1980. Tới 69% doanh nghiệp phụ thuộc vào nguyên vật liệu, 53% phụ thuộc vào thiết bị công nghệ nhập khẩu của nước ngoài nhưng chỉ có 19% doanh nghiệp lệ thuộc vào bí quyết công nghệ. Theo UNDP (Chương trình phát triển của Liên hợp quốc), điều này cho thấy, tốc độ triển khai công nghệ mới trong các doanh nghiệp khá chậm.
Cuộc khảo sát chỉ ra rằng áp lực cạnh tranh chưa tác động đáng kể đến đầu tư đổi mới công nghệ. Hầu hết doanh nghiệp đổi mới công nghệ một cách thụ động, mang tính tình huống, không có kế hoạch dài hạn. Phương thức được sử dụng nhiều nhất là nhập khẩu công nghệ nước ngoài. Tỷ lệ cán bộ kỹ thuật trong doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 7%.
Riêng với ngành dệt may, sự yếu kém về thông tin khiến các doanh nghiệp bị lệ thuộc cả về đơn hàng, nguồn nguyên liệu lẫn công nghệ. Doanh nghiệp muốn đổi mới công nghệ chỉ biết tìm thông tin trên mạng. Họ không có địa chỉ nào (ví dụ như một Trung tâm tư vấn thông tin) để cung cấp thông tin thị trường, khách hàng, công nghệ, và để thẩm định công nghệ.
Các chuyên gia khuyến cáo Nhà nước cần tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu phát triển, và sớm cho ra đời Quỹ đầu tư mạo hiểm của Chính phủ để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ.
Quan trọng hơn, theo các chuyên gia, Nhà nước cần tiếp tục thực hiện cải cách kinh tế, hoàn thiện môi trường pháp lý, bao gồm ban hành Luật Doanh nghiệp chung, đẩy nhanh quá trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để tạo một môi trường cạnh tranh bình đẳng.
Đẩy mạnh biện pháp tài chính để bình ổn giá
Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng sáng nay cho biết, trong nửa cuối năm, ngành sẽ sử dụng linh hoạt biện pháp tài chính để khuyến khích đầu tư, đổi mới công nghệ, hạ giá thành sản phẩm nhằm bình ổn giá cả hàng hoá, đặc biệt trong bối cảnh giá xăng dầu đắt đỏ như hiện nay.
Ông Hùng cho rằng, việc điều hành giá cả sẽ phải quan tâm tới cả 2 mặt: vừa thúc đẩy sản xuất vừa bảo vệ người tiêu dùng, cũng như lợi ích của Nhà nước. Tuỳ điều kiện mà sử dụng biện pháp tăng hoặc giảm thuế, lãi suất, cho vay vốn... Đối với những mặt hàng Nhà nước còn định giá thì thực hiện điều chỉnh mức hoặc giá định hướng phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế như điện, xăng dầu. Việc sử dụng linh hoạt, có hiệu quả chính sách tài chính - tiền tệ nhưng không quá lạm dụng biện pháp này để gây ảnh hưởng đến cam kết quốc tế.
Trao đổi với báo giới về việc nhiều hàng hoá dịch vụ chuẩn bị tăng giá sau khi xăng dầu được điều chỉnh, ông Hùng cho rằng, đây không phải là giải pháp duy nhất. Các doanh nghiệp có thể cố gắng tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất để ổn định giá, đặc biệt là với các chi phí liên quan đến xăng dầu. "Nếu doanh nghiệp tiết kiệm thêm được 10% chi phí sử dụng mặt hàng này thì giá thành sản phẩm sẽ không bị ảnh hưởng nhiều", ông Hùng nói.
Tăng cường năng lực điều hành, quản lý thị trường, chống đầu cơ, độc quyền hoặc liên kết với nhau về giá là biện pháp quan trọng tiếp theo để bình ổn giá mà ngành tài chính đề ra trong những tháng cuối năm. Chẳng hạn, đối với những mặt hàng như điện, dịch vụ, hàng không, bưu chính viễn thông Nhà nước thực hiện kiểm soát thông qua hình thức định giá chuẩn. Bên cạnh đó, những mặt hàng có ảnh hưởng lớn đến quốc kế dân sinh như thuốc chữa bệnh, lương thực... Nhà nước sẽ thực hiện biện pháp định giá giới hạn như khung giá bán lẻ đối với một số loại thuốc chữa bệnh thiết yếu, giá sàn định hướng với thóc. Hàng hoá thiết yếu như xăng dầu, sắt thép, phân bón sẽ được bình ổn thông qua điều hành cung - cầu trên thị trường.
Theo Phó thủ tướng Vũ Khoan, trong hoàn cảnh Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều thị trường thế giới như xăng dầu, sắt thép, phân bón, dược phẩm... thì để giữ một giá cả ổn định là rất khó khăn. Vì vậy, Phó Thủ tướng cho rằng, cần phải có cách hiểu về bình ổn giá thống nhất để xã hội quen dần với hoàn cảnh sống trong môi trường hội nhập quốc tế. "Xử lý giá xăng dầu vừa rồi đã làm theo hướng đó, nghĩa là tiến dần đến thị trường của nhiều mặt hàng, dù rằng là không tràn lan", ông nói.
"Để làm tốt công tác bình ổn giá trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu với quốc tế thì cần phải làm tốt hơn vấn đề dự báo tình hình biến động của thị trường thế giới. Tiếp đến là các biện pháp điều hành ổn định vĩ mô, thu chi ngân sách, tiền hàng, cân đối ngoại tệ, chứ không chỉ giá cả từng mặt hàng. Vĩ mô thì dứt khoát phải giữ cho được, vừa rồi chúng ta đã thành công mặc dù giá cả có tăng. Bên cạnh đó, những vấn đề về thuế, phí,... sẽ cần phải linh hoạt", Phó thủ tướng nhấn mạnh.
IV. Những yêu cầu về chuyển giao công nghệ
Quy tắc chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ nhằm mục đích tăng cường phát triển sản phẩm trong công nghiệp, hỗ trợ các nỗ lực nghiên cứu trong khu vực hàn lâm và thương mại hóa các công nghệ được phát triển trong các viện nghiên cứu của Chính phủ.
Một quy tắc quan trọng bao trùm trong chuyển giao công nghệ là chuyển giao công nghệ không giống nhau đối với những người khác nhau. Đối với các thành viên thuộc Hiệp hội các nhà quản lý công nghệ của trường đại học thì chuyển giao công nghệ là sự chuyển giao chính thức các sáng chế và các khám phá mới thu được từ hoạt động nghiên cứu khoa học được tiến hành ở các trường đại học cho khu vực thương mại. Đối với các phòng thí nghiệm quốc gia thì nó là một quá trình mà các kiến thức, phương tiện hay năng lực, được phát triển nhờ nguồn tài trợ cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Chính phủ, được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu công cộng và tư nhân. Trong công nghiệp thì đó là một cơ chế cho phép các công ty giải quyết các nhu cầu công nghệ của mình bằng cách mua li-xăng công nghệ và kiến thức của các công ty khác. Chuyển giao công nghệ rõ ràng không hạn chế về bản chất và chứa đựng tất cả các thuộc tính này. Về cơ bản, nó bao hàm chuyển giao việc sử dụng sở hữu trí tuệ từ một tổ chức này sang một tổ chức khác, thông thường bằng tiền thanh toán trả cho việc sử dụng hay phí lixăng. Nhưng chính việc thanh toán phí chuyển giao trong mọi giao dịch sẽ gây ra những vấn đề liên quan đến tình trạng lãi hay thua lỗ của một tổ chức.
Dưới đây là một số quy tắc cần chú ý để có thể tăng cường lợi nhuận và giảm thiểu thua thiệt trong các thoả thuận chuyển giao công nghệ. Những quy tắc này hoàn toàn không phải là tất cả để đánh giá một giao dịch chuyển giao công nghệ. Chúng chỉ nhấn mạnh một số vấn đề phức tạp cần phải cân nhắc nhằm dáp ứng được các mục tiêu chiến lược của các tổ chức:
(1) Không được đánh giá sai giá trị của công nghệ: Thông thường, những người tham gia vào một thỏa thuận chuyển giao công nghệ sẽ định giá thấp chi phí để phát triển sản phẩm từ giai đoạn mẫu trình diễn sang sản xuất thương mại đầy đủ. Những người mua thường sẽ trở nên quá say mê với công nghệ mà đánh giá thấp những chi phí thực hiện như công cụ, vật tư, bao gói, gia công và bảo đảm chất lượng/kiểm tra. Một trong những nguyên nhân lớn nhất của chuyển giao công nghệ thất bại là chi phí quá cao trong giai đoạn chuẩn bị các chi phí sản xuất. Người mua công nghệ cần mời các chuyên gia sản xuất có kinh nghiệm đánh giá toàn bộ những chi phí này trong giai đoạn đánh giá. Những người sử dụng nên cộng thêm một khoản 15% phí đột xuất vào các chi phí sản xuất ước tính cuối cùng để bù đắp những chi phí phát sinh ngoài dự kiến.
(2) Hiểu rõ thị trường mục tiêu: Có một số người tham gia vào giao dịch chuyển giao công nghệ sẽ mua công nghệ nhưng chưa hiểu kỹ thị trường thương mại tiềm năng đối với công nghệ đó. Các chuyên gia khuyên rằng những người mua công nghệ cần sớm xác định nhu cầu thị trường trong giao dịch chuyển giao công nghệ và chắc chắc rằng sản phẩm cuối cùng có ưu thế thương mại rõ ràng so với công nghệ cạnh tranh tiềm năng của nó. Họ cũng khuyên những người mua công nghệ sớm tham khảo những người sử dụng sản phẩm và xem thị trường nói chung sẽ cần những gì đối với công nghệ mới này. Thời gian cũng là một vấn đề mà người mua cần lưu ý bởi thị trường có thể thay đổi trong giai đoạn đưa công nghệ vào sản xuất sản phẩm thương mại.
(3) Sử dụng những người giỏi: Những người thực hiện đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ cần phải giỏi về công nghệ đó, cùng với hiểu biết kinh doanh và một chút kiến thức luật pháp. Nếu không có những yếu tố này, nhóm kinh doanh của bạn sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn thành các mục tiêu đề ra. Tất cả các kiến thức của họ sẽ được vận dụng trong các cuộc thương lượng đó.
(4) Tìm kiếm giải pháp 2 bên đều thắng: Chuyển giao công nghệ là việc đưa công nghệ ra thị trường. Do vậy, một giải pháp 2 bên cùng thắng thường được các bên theo đuổi bởi bên cung cấp và bên mua có các năng lực bổ sung cho nhau nhằm mục đích sao cho một công nghệ tốt được sản xuất có hiệu quả và được thương mại có kết quả trong một thị trường cần và muốn có công nghệ đó. Thông thường, các công ty với năng lực giống nhau trong khi tìm hiểu các yêu cầu của nhau có thể thấy thích hợp, nhưng trên thực tế không bên nào có thể đặt lên bàn một thứ gì mà các bên còn thiếu.
(5) Có nhiều lĩnh vực hợp tác: “Sáng kiến Công nghệ nanô Quốc gia” của Mỹ là một thí dụ rất rõ làm sao nghiên cứu được Chính phủ tài trợ có thể dẫn đến sự phát triển các ngành công nghiệp mới và cung cấp hỗ trợ nghiên cứu cơ bản tiếp theo để tăng cường các nỗ lực phát triển của công ty. Nhiều công nghệ nanô đang được hỗ trợ bằng chi phí R&D của Chính phủ và được phát triển trong các phòng thí nghiệm liên bang, trong khi đối tác chuyển giao công nghệ trong công nghiệp có thể giúp thương mại hóa chúng.
(6) Kiểm tra thị trường: Cách tốt nhất để đánh giá công nghệ là hỏi những người tham gia thị trường về giá trị mà những lợi ích của công nghệ có thể mang lại cho họ. Nếu nó có giá trị thì bạn có thể cố gắng tìm cơ hội bán chúng. Phần lớn các tổ chức công nghiệp không bao giờ suy nghĩ kỹ lưỡng trong việc tiến hành nghiên cứu thị trường về sản phẩm mới được phát triển trong công ty. Nhưng điều này cũng thường xảy ra khi học mua công nghệ từ một tổ chức khác ngoài công ty. Người mua có thể sai lầm khi tin rằng việc nghiên cứu thị trường đã được phía cung cấp công nghệ thực hiện hay làm qua loa. Trong cả 2 trường hợp trên, nghiên cứu thị trường đều không có giá trị đối với bất kỳ sản phẩm mới nào và trong mỗi hợp đồng chuyển giao công nghê, nó cần phải được tiến hành trước khi ký kết các văn bản cuối cùng hay ít nhất cũng là một phần căn bản của hợp đồng. Các bên chuyển giao công nghệ không nên nản lòng vì, từ trước đến nay, chỉ có khoảng 1% đến 5% công nghệ được cấp patăng và được thương mại hoá.
(7) Nguồn lực (vật tư và các nguồn cung ứng khác). Quy trình phân bố nguồn lực công nghệ trong một tổ chức công nghệ là một sự sắp đặt phức tạp gồm các ưu tiên, các thao tác vận hành hàng ngày và các thao tác vận hành then chốt. Trong quá trình chuyển giao công nghệ, khi hợp đồng cuối cùng được ký kết và công nghệ được chuyển giao, các nguồn lực cần phải có để hỗ trợ cho nó trong một thời hạn nhất định có thể đảm bảo cho triển khai thành công. Nếu các vận hành tiếp theo loại bỏ các nguồn lực khỏi công nghệ chuyển giao, thì có thể nảy sinh những khác biệt giữa chiến lược theo kế hoạch của tổ chức và chiến lược triển khai thực tế. Các nguồn lực cần phải được tích cực giám sát, tìm hiểu và kiểm tra hàng ngày, nếu cần.
(8) Không coi nhẹ các khía cạnh luật pháp: Công nghệ có thể được chuyển giao, nhưng nếu bạn không được sở hữu các quyền, bạn có thể gặp rủi ro ở chỗ thực tế bạn có thể sử dụng công nghệ đó vào kinh doanh gì? Để bảo vệ các quyền của mình, bạn phải chắc chắn mình nhận được mọi khía cạnh của công nghệ bạn cần. Có một số trường hợp gây tranh cãi về sáng chế thực tế của công nghệ và một số phần của công nghệ do người khác phát triển.
(9) Hiểu rõ hệ thống pháp lý: Hiện có nhiều quy định pháp lý về chuyển giao công nghệ đã được ban hành sẽ ảnh hưởng đến các trường hợp khác nhau. Những quy định cơ bản này cần hiểu kỹ và thực hiện có thể giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc về sau.
(10) Sử dụng tất cả các nguồn thông tin: Chuyển giao công nghệ đang phát triển mạnh mẽ nên có nhiều cơ quan dịch vụ được thành lập để hỗ trợ công việc này. Các thông tin cần cho những người mua công nghệ tiềm năng cũng có thể tìm kiến trên mạng.
2. Kinh nghiệm quốc tế về tiếp nhận và Chuyển giao công nghệ
2.1 Các dòng chuyển giao công nghệ quốc tế chủ yếu.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển: Một đặc điểm chung cơ bản trong việc chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển là cơ sở hạ tầng kỹ thuật phát triển ở đỉnh cao, họ luôn đặt ra những yêu cầu mới, hiện đại nhất so với sự phát triển KH&CN hiện tại. Hình thức chuyển giao công nghệ giữa các nước phát triển chủ yếu là mua bán thiết bị công nghệ, các sản phẩm KH&CN, các bí quyết, bằng phát minh, sáng chế.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển: Đây là dòng chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiêp phát triển sang các nước đang phát triển (còn gọi là quan hệ Bắc-Nam). Các nước đang phát triển tiếp nhận công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển chủ yếu: công nghệ, kiến thức, kỹ năng, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý... Do chi phí nhập khẩu công nghệ và kỹ thuật khá cao, ngoại tệ ở các nước đang phát triển lại thiếu, nếu mở rộng nhập công nghệ thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển lại có tình trạng chung là hạ tầng cơ sở kỹ thuật lạc hậu, đội ngũ cán bộ KH&CN và kỹ thuật viên vừa thiếu, vừa kém về trình độ, cơ sở nghiên cứu và phát triển công nghệ với trang thiết bị lạc hậu, không đồng bộ, nên cản trở khả năng tiếp nhận công nghệ nhập. Mặt khác, mức độ tổng hợp giữa công nghệ nhập với điều kiện cụ thể ở các nước đang phát triển có những khoảng cách lớn. Người ta ước tính rằng, đến 90% các công nghệ được tạo ra ở các nước công nghiệp phát triển để giải quyết những yêu cầu riêng của các nước này, phần còn lại và những công nghệ đã tương đối lạc hậu mới chuyển giao sang các nước đang phát triển. Tình trạng chung ở các nước đang phát triển là sản xuất nông nghiệp vẫn đang chiếm vị trí chủ đạo, công cụ lao động lạc hậu, bên cạnh đó còn phải đối mặt với những vấn đề khó khăn trong việc chuyển giao công nghệ như:
Công nghệ sẵn có để lựa chọn rất hạn chế vì bản chất độc quyền của các bên cung cấp công nghệ,
Thị trường giao dịch công nghệ chưa thực sự hoàn hảo, có nơi mới hình thành ở mức độ sơ khai,
Vị thế yếu để mặc cả giá chuyển giao công nghệ,
Các điều kiện và thời gian chuyển giao công nghệ bị hạn chế,
Năng lực tiếp nhận công nghệ thấp,
Năng lực hấp thụ, nghiên cứu và phát triển công nghệ còn yếu kém,
Sự phụ thuộc ngày càng cao vào các nước cung cấp công nghệ do tốc độ đổi mới công nghệ quá nhanh, vòng đời công nghệ ngày càng ngắn,
Các nước đang phát triển thiếu những điều kiện vật chất, kỹ thuật cần thiết để ứng dụng và triển khai công nghệ hiện đại,
Phần lớn các công nghệ hiện đại của các nước công nghiệp phát triển không thích hợp lắm với những điều kiện cụ thể của các nước đang phát triển,
Phần lớn các nước chậm phát triển, thiết chế xã hội kém năng động, thị trường KH&CN nhỏ hẹp, không thể tạo ra được những động lực lớn cho việc tiếp nhận, làm chủ và đổi mới công nghệ nhập.
Tóm lại, từ việc phân tích trên cho thấy, không phải bao giờ sự chuyển giao công nghệ từ các nước công nghiệp phát triển sang các nước đang phát triển cũng hoàn toàn thích hợp để có thể giải quyết ngay các mâu thuẫn gay gắt trong đời sống thấp kém của các nước đang phát triển.
Chuyển giao công nghệ giữa các nước đang phát triển: Đây là xu thế mới gọi là quan hệ “Nam-Nam”. Loại hình chuyển giao công nghệ này gắn liền với sự hình thành các khối kinh tế khu vực như ASEAN ở châu á, Cộng đồng Đông Phi ở châu Phi, các nước trong Hiệp ước Andean ở châu Mỹ La Tinh… Dòng chuyển giao công nghệ Nam-Nam bắt đầu khởi nguồn từ sự thành công của các nước mới công nghiệp hóa như các nước và lãnh thổ châu á-NICs (Hàn Quốc, Singapo, Đài Loan, Hồng Công). Các nước và vùng lãnh thổ này đang là lực lượng đầu tư đáng kể vào các nước kém phát triển ở châu á. Mục tiêu đầu tư vốn, công nghệ của các nước NICs chủ yếu nhằm khai thác nguyên liệu thô, tận dụng nhân công rẻ, thu hồi vốn nhanh.
2.2 Nội dung chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ phần cứng sản xuất, bao gồm vật liệu, máy móc, thiết bị,
Chuyển giao tài liệu sản xuất, bao gồm paten, các bí quyết thiết kế, quản lý, các tài liệu kỹ thuật, các tiêu chuẩn sản xuất, các quy trình vận hành.
Chuyển giao tài liệu tổ chức, gồm tài liệu dùng cho quản lý như các quy chế vận hành xí nghiệp, quản lý chất lượng sản phẩm, quản lý nhân sự, kiểm soát tài chính,
Chuyển giao các kỹ năng sản xuất, kinh nghiệm, kỹ năng được tích lũy và sử dụng trong quy trình sản xuất.
Các kênh chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ qua thương mại hàng hóa: Công nghệ có thể được chuyển giao xuyên qua các đường biên giới quốc tế với rất nhiều kênh, trong đó kênh thương mại hàng hoá được coi là một trong những kênh rất quan trọng. Thông qua khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, ẩn chứa trong đó tiềm năng các loại hình chuyển giao công nghệ. Chỉ tính riêng việc nhập khẩu cho ngành công nghiệp một số công nghệ thiết bị mới đã có thể cải thiện một cách trực tiếp hiệu quả sản xuất khi được đưa vào dây chuyền sản xuất. Như vậy, bản thân thương mại quốc tế cũng là một hình thức trung tâm của việc chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài: Kênh chuyển giao công nghệ qua đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thông qua các Tập đoàn đa quốc gia (MNEs). Về nguyên lý, các MNEs sẽ chuyển giao cho các công ty con của nó ở những nước có nhu cầu tiếp nhận công nghệ, những tri thức công nghệ mới và hữu ích cho những doanh nghiệp bản địa. Nguyên nhân là do các công ty con có động cơ muốn trở thành một công ty đa quốc gia nắm giữ quyền sở hữu một số tài sản tri thức để khai thác nhiều lợi nhuận ở các doanh nghiệp nhập công nghệ. Có nhiều quan điểm cho rằng một dạng tiếp nhận công nghệ toàn diện nhất là FDI. Vì FDI không những mang lại công nghệ mà còn kỹ năng quản lý, các liên kết thị trường và vốn. Vì vậy, FDI là một kênh chính quan trọng, thông qua đó các doanh nghiệp có cơ hội vươn lên, không những có khả năng cạnh tranh về công nghệ trên thị trường nội địa mà còn vươn ra khu vực và thế giới.
Chuyển giao công nghệ thông qua bằng sáng chế: Kênh quan trọng thứ ba là cấp giấy phép sáng chế công nghệ, việc này vừa có thể được thực hiện trong các doanh nghiệp, giữa các liên doanh hoặc giữa các doanh nghiệp không có mối liên hệ. Bằng sáng chế (Paten) thể hiện một cách điển hình việc mua bản quyền sản xuất hoặc phân phối, thông tin kỹ thuật cơ bản và bí quyết. Có sự khác biệt quan trọng giữa chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp và cấp bằng sáng chế. ở trường hợp đầu tiên, MNEs giữ lại việc kiểm soát độc quyền sở hữu trí tuệ và bí quyết, trong khi ở trường hợp thứ hai việc tiếp cận những tài sản này phải dành cho người được cấp bằng sáng chế. Vì vậy, bằng sáng chế, các bí mật thương mại, bản quyền và thương hiệu có thể là những tiện ích của việc chuyển giao tri thức. Do hợp đồng cấp bằng sáng chế đạt được thông qua đàm phán giữa người bán và người mua nên việc chuyển giao mang tính tự nguyện. Tuy nhiên, các Chính phủ có thể ban hành những mệnh lệnh bắt buộc trao quyền sử dụng cho các doanh nghiệp bản địa, trong trường hợp này chuyển giao công nghệ mang tính cưỡng ép. Rõ ràng rằng các bằng sáng chế nếu bị cưỡng ép thì không thể thành công trong việc thu được những bí quyết đích thực.
Chuyển giao công nghệ dưới hình thức liên doanh: Cấp bằng sáng chế và FDI có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với việc thành lập các liên doanh. Đó là các thỏa thuận hợp tác giữa hai hoặc nhiều hơn hai doanh nghiệp, với mỗi doanh nghiệp cung cấp một số lợi thế làm giảm chi phí của việc hoạt động chung. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp quốc tế có thể cung cấp những thông tin sản xuất tiên tiến hơn về mặt công nghệ thông qua việc cấp bằng sáng chế, trong khi các đối tác địa phương cung cấp các mạng lưới phân phối, thông tin về thị trường lao động, các kỹ năng quản lý đặc biệt hoặc một số những lợi thế mang tính địa phương khác. Một số sự dàn xếp đạt được thông qua chia sẻ bất cứ lợi nhuận hay rủi ro nào của liên doanh.
Chuyển giao công nghệ qua con đường hợp đồng sản xuất/ chế tạo: Do lợi thế nguyên vật liệu tại chổ, giá nhân công thấp, phương tiện giao thông thuận lợi và do lợi nhuận giữa các bên, Bên A(là bên có vốn và công nghệ) ký hợp đồng kinh tế với Bên B để gia công, chế tạo từng nguyên công, từng chi tiết, hoặc lắp ráp từng cụm thiết bị….Bên B dần dần tích lũy được các công nghệ mà Bên A hợp tác sản xuất. Đây là loại hình chuyển giao công nghệ cũ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Sử dụng công cụ chuyển giao công nghệ trong nền kinh tế.docx