MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN THỨ NHẤT : LÝ LUẬN CHUNG VỀ NSNN VIỆT NAM.
1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò ngân sách Nhà nước.
1.1. Khái niệm và đặc điểm chung của NSNN.
1.2. Vai trò ngân sách Nhà nước trong kinh tế thị trường.
2. Thu ngân sách Nhà nước.
2.1. Khái niệm và nội dung kinh tế của thu ngân sách Nhà nước.
2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước.
3. Chi ngân sách và vấn đề bội chi ngân sách Nhà nước.
3.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung kinh tế của chi NSNN.
3.2. Sử dụng ngân sách Nhà nước thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: cơ sở khoa học và điều kiện áp dụng.
3.3. Bội chi ngân sách và giải pháp xử lý.
PHẦN THỨ HAI : HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NSNN Ở VIỆT NAM.
1. Tình hình NSNN Việt nam giai đoạn 1991 - 2000.
2. Thực trạng nợ nước ngoài của Việt nam.
3. Sử dụng NSNN thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
3.1. Về khả năng động viên GDP vào NSNN thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
3.2. Thuế với vai trò kích thích tăng trưởng kinh tế.
3.3. Sử dụng NSNN trong đầu tư kinh tế và giải quyết việc làm.
4. Xử lý bội chi ngân sách Nhà nước.
4.1. Vay để bù đắp thâm hụt NSNN.
4.2. Phát hành tiền để bù đắp bội chi NSNN.
4.3. Bù đắp thâm hụt NSNN bàng biện pháp tăng thuế.
4.4. Cắt giảm chi tiêu nhằm giảm thâm hụt NSNN.
KẾT LUẬN.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sử dụng ngân sách Nhà nước thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết nền kinh tế vĩ mô ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiên.
Quyết định tăng lương , tăng mức trợ cấp chuyển giao từ NSNN của Chính phủ (tăng chi thường xuyên và trợ cấp) sẽ trực tiếp làm tăng thu nhập thực tế của người hưởng lương và trợ cấp từ NSNN. Các đối tượng này sẽ sử dụng thu nhập mới tăng thêm đó cho tiết kiệm và tiêu dùng, và phần sử dụng cho tiêu dùng sẽ làm tăng thu nhập của người bán hàng. Đến lượt họ , người bán hang cũng sẽ sử dụng một phần thu nhập mới tăng để tiêu dùng... Vòng quay của chu trình kích thích kinh tế cũng đã được khởi động và cứ thế phát huy tác dụng.
Đương nhiên, trong các trường hợp trên qua mỗi vòng, lượng thu nhập mới tăng bị rò rỉ một phần do tiết kiệm, một phần tiếp tục tham gia vào vòng quay của chu trình, tạo nên hiệu ứng kích cầu. Cuối cùng, hiệu ứng kích thích kinh tế tổng hợp lớn hơn rất nhiều so với hiệu quả trực tiếp ngay ở vòng thứ nhất. Tổng hợp cả 3 khoản tăng chi NSNN (chi đầu tư phương trình, chi thường xuyên, chi trợ cấp chuyển giao) sẽ xác định được tổng hiệu ứng kích thích kinh tế từ tăng chi NSNN nói chung, ta có thể tham khảo bảng tính minh hoạ dưới đây. Với mục đích đơn giản hoá tính toán và lập luận, bảng tính chỉ nghiên cứu hiệu ứng kích thích kinh tế do tăng chi NSNN nói chung mà không đề cập chi tiết các hiệu ứng bộ phận của từng khoản cấu thành tăng chi NSNN bởi bản chất tác động của chúng là như nhau (S là tiết kiệm, Y là thu nhập, C là tiêu dùng, ê chỉ mức tăng thêm).
Tổng hợp hiệu ứng kích thích kinh tế của tăng chi NSNN.
Trường hợp không có nhập khẩu
Trường hợp có nhập khẩu
êY(0) êS êC êY(1)
êY(0) êS êC mY êY(1)
Vòng 1
Vòng 2
Vòng 3
Vòng 4
...
100 20 80 80
80 16 64 64
64 13 51 51
51 10 41 41
... ... ... ...
100 20 80 20 60
60 12 48 12 36
36 7,2 28,8 7,2 21,6
21,6 4,3 17,3 4,3 13
... ... ... ... ...
Tổng cộng
500
250
Trong trường hợp nhập khẩu bằng 0, với khoản chi khởi động 100 tỷ, khuynh hướng tiêu dùng 0,8; khuynh hướng tiết kiệm 0,2; hệ số kích thích kinh tế của chi NSNN ( k = 1 / (1 - 0,8 + 0) ) bằng 5, ta thấy tổng hiệu ứng kích thích tăng trưởng kinh tế của khoản tăng chi NSNN ban đầu đã lên tới 500 tỷ.
Cũng trong điều kiện đó nhưng có nhập khẩu (20%) thì hệ số kích thích kinh tế của chi NSNN giảm xuống còn 2,5 ( k = 1 / (1 - 0,8 + 0,2) = 2,5 ) ; tổng hiệu ứng kích thích tăng trưởng kinh tế của khoản tăng 100 tỷ chi NSNN ban đầu chỉ làm tăng GDP 250 tỷ là tối đa.
Điều kiện áp dụng biện pháp kích cầu có hiệu quả.
Trong nền kinh tế thị trường, để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các giải pháp sử dụng công cụ tăng chi NSNN kích thích tăng trưởng kinh tế chúng ta cần có những điều kiện sau:
Một là, nền kinh tế đang ở dưới mức toàn dụng, năng lực sản xuất trong nước chưa sử dụng hết, thiếu việc làm và có thất nghiệp.
Hai là, các yếu tố lãi suất, tỷ giá là các yếu tố nội sinh, có tác động tới tăng trưởng kinh tế.
Ba là, Nhà nước làm chủ được hoạt động nhập khẩu, tránh được tình trạng kích cầu phản tác dụng (kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng hàng nước ngoài, không tăng nhu cầu đối với sản xuất trong nước). Điều kiện này có quan hệ chặt chẽ với điều kiện sản xuất trong nước phải đạt tới một trình độ năng suất lao động và hiệu quả nhất định, tạo ra được những sản phẩm có thể đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Trong trường hợp sức cạnh tranh ngay trên thị trường trong nước của hàng hoá nội kém thì kích cầu sẽ không mang lại hiệu quả mong đợi.
Bốn là, thị trường trong nước phải có quy mô tiềm năng đủ lớn, sức mua tiềm năng có khả năng thanh toán của đại đa số dân cư phải tương đối khá, thu nhập quốc dân vượt quá ngưỡng nghèo đói. Đối với các nước đang phát triển như Việt nam, cơ cấu kinh tế lạc hậu, tỷ trọng nông dân cao, mức thu nhập thực tế bình quân đầu người ở nông thôn thấp thì các biện pháp bảo đảm tăng thu nhập thực tế có khả năng thanh toán cho nông dân một cách bền vững cần được triển khai trước một bước so vơi giải pháp kích cầu. Đây là điều kiện khả thi không thể thiếu được bảo đảm hiệu quả của các giải pháp kích cầu ở Việt nam ta.
Năm là, bộ máy quản lý Nhà nước phải trong sạch, làm việc có chất lượng, tham nhũng bị kìm chế, sức ỳ của hệ thống hành chính thừa hành nhỏ, bảo đảm mỗi biện pháp đưa ra đều có khả năng triển khai kịp thời, đúng ý đồ, hạn chế thất thoát.
Năm điều kiện trên là những đòi hỏi của thực tiễn kinh tế đương đại, trong điều kiện kinh tế thế giới ngày càng có nhiều biến động, càng ngày toàn cầu hoá càng có nhiều sức ép to lớn không thể tránh khỏi đối với mọi nền kinh tế.
3.3. Bội chi ngân sách Nhà nước và giải pháp xử lý.
Bội chi NSNN là số chênh lệch giữa tổng chi lớn hơn tổng thu NSNN. Bội chi ngân sách có thể xảy ra do thay đổi chính sách thu chi của Nhà nước (bội chi cơ cấu), hoặc có thể do thay đổi các chu kỳ kinh tế (bội chi chu kỳ). Khi bội chi cơ cấu tăng lên có thể nói Chính phủ đang dùng chính sách tài chính để kích thích nền kinh tế.
Dù nguyên nhân nào, bội chi ngân sách vẫn là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh tế nếu cách xử lý nó không đúng đắn. Tuỳ theo từng điều kiện cụ thể có thể áp dụng các biện pháp để giải quyết bội chi NSNN sau:
- Phát hành tiền;
- Tăng thu (thuế);
- Vay trong và ngoài nước;
- Giảm chi.
Tăng thu, giảm chi là biện pháp cổ truyền dễ dàng nhất song không phải bao giờ cũng thực hiện được bởi hai khó khăn sau: Một là, trong bối cảnh mức tăng GDP chưa lớn nếu phần tập trung GDP vào NSNN quá lớn thì ảnh hưởng đến khả năng đầu tư và tiêu dùng ở khu vực tư nhân bị hạn chế - giảm động lực phát triển kinh tế; Hai là, khả năng giảm chi cũng có những giới hạn nhất định, nếu giảm chi vượt quá giới hạn thì cũng có ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội.
Hiện nay, để xử lý bội chi NSNN, ngoài biện pháp tăng thu, giảm chi hầu hết các cước đều sử dụng đến biện pháp vay trong và ngoài nước. Để có thể tiến hành tốt biện pháp vay trong dân càn phải nghiên cứu một cách đầy đủ vấn đề lãi suất tiền vay, thời hạn thanh toán. Để có thể thực hiện tốt việc vay nước ngoài, điều quan trọng là phải nghiên cứu đến hiệu quả sử dụng tiền vay, sự biến động lãi suất, lựa chọn hình thức vay, cũng như việc cải thiện môi trường kinh tế, chính trị của đất nước, tạo nên thế ổn định để thu hút vốn.
PHẦN THỨ HAI
HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG NSNN Ở VIỆT NAM
1. TÌNH HÌNH NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 1991 - 2000.
Giai đoạn 1991 - 2000 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong lịch sử phát triển NSNN Việt nam bằng những thành tựu quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế, xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Thứ nhất, thu NSNN đã có sự tăng trưởng nhanh làm cho tiềm lực tài chính ngân sách ngày càng vững mạnh, cơ cấu thu chi chuyển biến theo chiều hướng tích cực, tài chính NSNN ngày càng đi vào thế tự chủ. Thu NSNN đã tăng từ 13,1% GDP lên tới 23,3% GDP năm 1995 và đạt tới tốc độ tăng bình quân 50,8%/năm giai đoạn 1991 - 1993. Giai đoạn 1996 - 2000 mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế có giảm sút do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra, song thu ngân sách vẫn giữ được ở mức hợp lý. Thu trong nước tăng nhanh và cho đến nay đã chiếm khoảng 97% tổng thu NSNN, không những đảm bảo chi thường xuyên mà còn dành ra một tỷ lệ ngày càng tăng cho chi đầu tư phát triển và chi trả nợ. Thuế đã thực sự trở thành nguồn thu chủ yếu của NSNN; tổng số thu từ thuế và phí, lệ phí chiếm tới khoảng 90% tổng thu NSNN. Khu vực công nghiệp và dịch vụ có tỷ trọng GDP tập trung vào NSNN cao nhất và ngày càng tăng, tỷ lệ động viên GDP của khu vực công nghiệp vào ngân sách chiếm trên 30% và của khu vực dịch vụ chiếm khoảng 33% tổng thu NSNN. Cơ cấu thu theo ngành cơ bản phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Thứ hai, chi NSNN từng bước được cơ cấu lại theo hướng xoá bỏ bao cấp; thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; tăng cho đầu tư cho xã hội cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường, củng cố an ninh quốc phòng; chú trọng chi trả nợ theo đúng cam kết; nâng cao năng lực quản lý đảm bảo chi ngân sách ngày càng tiết kiệm và hiệu quả cao. Chi thường xuyên của ngân sách được cân đối từ tổng số thu thuế, phí và lệ phí. Tốc độ tăng chi đầu tư phát triển cao hơn tốc độ tăng chi thường xuyên. Năm 1998 chi đầu tư phát triển tăng 8,8% so với năm 1997, trong khi đó chi NSNN chỉ tăng 2,4%. Chi đầu tư cơ sở hạ tầng tăng nhanh, năm 1992 chiếm 48,7%; năm 1993 chiếm 44,6%; năm 1997 tăng lên tới 96,6% và năm 1998 tới 97%' bình quân gia đoạn 1996 - 2000 chiếm 91% trong tổng số chi XDCB của ngân sách. Chi giáo dục đào tạo tăng từ 10,4% tổng số chi NSNN năm 1996 lên 15% vào năm 2000. Chi cho khoa học công nghệ môi trường, y tế, bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng hơn. Riêng năm 1999 - 2000, NSNN đã bố trí hơn 3000 tỷ đồng để thực hiện các dự án của chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, nhờ đó vào năm 2000, tỷ lệ hộ đói nghèo giảm xuống còn 11%.
Thứ ba, điều hành NSNN từng bước chủ động và linh hoạt hơn, NSNN thực sự trở thành công cụ đắc lực phục vụ thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và để Nhà nước điều tiết vĩ mô lên kinh tế. Thực hiện chủ trương kích cầu đầu tư và tiêu dùng bằng việc điều chỉnh chính sách thuế, tăng chi đầu tư phát triển, tăng tạm ứng vốn XDCB, hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp kinh doanh hàng nông sản, cải cách tiền lương ... NSNN đã góp phần ổn định vào việc sản xuất kinh doanh và đời sống khi nền kinh tế có những biến động bất thường như ảnh hưởng khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực và khi thiên tai lũ lụt xảy ra.
Thứ tư, cân đối NSNN và ngân sách địa phương được giữ vững, bội chi ngân sách trong giới hạn cho phép; bội chi cho đầu tư phát triển, dự trữ của ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương đều tăng lên đáng kể, góp phần tích cực vào việc phục hồi tăng trưởng kinh tế. Bội chi NSNN giai đoạn 1991 - 2000 giữ ở mức dưới 5% GDP; đồng thời số thu từ thuế, phí và lệ phí dành cho chi đầu tư phát triển ngày càng tăng: năm 1991 đã tăng lên 1,54% GDP và năm 2000 là 1,8% GDP. Từ năm 1993 đã chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách luôn được chú trọng nhằm giữ được thế tự chủ của nền kinh tế và NSNN.
Bảng 1: Tình hình thu - chi và bội chi NSNN (%GDP)
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tốc độ tăng trưởng KT
6,0
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
8,2
5,8
4,8
6,7
Thu NSNN
13,1
19,0
23,6
23,2
23,3
23,1
21,6
20,5
18,3
18,0
Chi NS
15,5
21,4
28,8
27,9
27,5
26,2
26,8
23,6
23,2
22,9
Bội chi NS
2,4
2,4
5,2
4,7
4,2
3,1
4,2
3,1
4,9
4,9
Nguồn: Tạp chí Tài chính và Tạp chí Kinh tế dự báo.
Nhìn tổng quát tài chính ngân sách giai đoạn 1999 - 2000 đã có chuyển biến tích cực và khá toàn diện tiềm lực tài chính Nhà nước đã được củng cố, vị thế tài chính quốc gia trên trường quốc tế đã được cải thiện, kỷ cương pháp luật tài chính ngày càng được tăng cường. Tuy nhiên, hiện nay cũng còn nhiều vấn đề đang được đặt ra đối với nền tài chính quốc gia nói chung và NSNN nói riêng, cần được tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Thứ nhất, tiềm lực tài chính NSNN tuy đã được tăng lên đáng kể nhưng còn nhỏ bé và vẫn không theo kịp nhu cầu tăng chi để giải quyết những vấn đề bức xúc của nền kinh tế, nền tảng nguồn thu ngân sách chưa vững chắc, cơ cấu thu ngân sách đổi mới chưa toàn diện. Tỷ lệ GDP được động viên vào NSNN không phải là thấp so với tốc độ tăng trưởng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của nền kinh tế, song quy mô NSNN hiện nay cũng chỉ khoảng trên 95.000 tỷ đồng. Trong khi đó, nhu cầu tăng chi để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, xoá đói giảm nghèo đang đặt ra rất cấp bách, từ đó gây áp lực căng thẳng cho NSNN. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nước, năng suất, chất lượng của nhiều sản phẩm còn thấp; chi phí sản xuất kinh doanh cao; sức canh tranh quốc tế còn yếu; quan hệ cung cầu còn nhiều bất cập; giả cả của nhiều mặt hàng không ổn định gây bất lợi cho tăng trưởng và mở rộng nguồn thu của ngân sách. Số thu từ thuế xuất nhập khẩu và dầu thô còn chiếm tỷ trọng cao. Tỷ trọng thuế gián thu còn cao gây khó khăn trong việc giảm chi phí và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.
Thứ hai, phân bổ và sử dụng NSNN cũng còn nhiều bất cập, hiệu quả chi ngân sách đã được nâng lên nhưng chưa cao, vấn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng NSNN. Chi đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) còn phân tán; công tác quy hoạch chuẩn bị đầu tư lập dự án chưa được chú trọng nên chất lượng dự án không cao, việc thẩm định và quyết định đầu tư còn chậm dẫn đến tình trạng vốn chờ công trình, gây lãng phí trong đầu tư. Chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi ngân sách vừa thiếu, vừa lạc hậu so với thực tế gây khó khăn cho việc cấp kinh phí và kiểm tra, kiểm soát trong việc chi ngân sách Nhà nước. Tình trạng sử dụng kinh phí ngân sách không đúng mục đích vẫn xảy ra. Trong chi thường xuyên của NSNN, chi lương còn chiếm tỷ trọng lớn (chiếm tới 50% tổng chi thường xuyên) do tinh giảm biến chế ở khu vực hành chính sự nghiêp hiệu quả còn thấp; từ đó dẫn đến chi cho duy tu bảo dưỡng trang thiết bị nghiệp vụ chuyên môn chưa được quan tâm đúng mức.
Thứ ba, phân cấp ngân sách vẫn còn bất cập, thẩm quyền phê chuẩn và quyết định dự toán ngân sách vẫn còn chồng chéo, phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi giữa các cấp nhân sách tuy đã đảm bảo được vai trò chủ đạo cuả ngân sách Trung ương (TW) nhưng chưa thực sự tạo thế chủ động cho ngân sách địa phương. Trong 61 tỉnh thành thì hơn 50 tỉnh có tổng thu trên địa bàn không đủ đáp ứng nhu cầu chi, chỉ có 5 tỉnh thành phố tự cân đối và có điều tiết về TW, số còn lại TW phải hỗ trợ.
2. THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM.
Nợ Chính phủ bao gồm nợ vay từ nước ngoài và nợ vay trong nước. Đối với nước ta, nợ nước ngoài của Chính phủ bao gồm:
- Các khoản nợ cũ hình thành trước năm 1993 và mặc dù hầu hết đã được cơ cấu lại, tổng số dư nợ vẫn còn tới 3,7 tỷ USD. Đây là gánh nặng mà quá khứ đã để lại cho ngân sách ngày hôm nay.
- Các khoản nợ mới hình thành sau năm 1993, hầu hết được dùng cho đầu tư phát triển thông qua 2 kênh: cấp phát từ NSNN và cho vay lại trong nước.
Bảng 2 : Tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ tính đến 31/12/1999.
Tổng dư nợ quy USD
( triệu USD )
So với GDP
( % )
A.Tổng số nợ nước ngoài của Chính phủ
Trong đó:
+ Nợ cũ (trước 1993)
+ Nợ mới (sau 1993)
B. Tổng số nợ nước ngoài của các DN.
Tổng số nợ nước ngoài của quốc gia.
7.600
3.700
3.900
4.200
11.800
27,7
-
-
15,2
43,0
Nguồn: Tổng hợp
So với các nước trong khu vực, tổng số nợ Chính phủ ở nước ta theo giá trị tuyệt đối không phải là lớn, nhưng nếu tính theo tỷ lệ % trên GDP thì đã ở vào mức cao, đặc biệt nếu kể cả khoản vay của doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh. Điều đáng nói ở đây là tỷ lệ nợ nước ngoài trong tổng số nợ Chính phủ chiếm tới 93% và bằng 64,5% tổng số nợ nước ngoài của quốc gia. (Ở các nước trong khu vực như Thái Lan, nợ khu vực công chỉ chiếm 23,5% so với tổng số nợ quốc gia; ở Malaysia: 35,6%; Indonêsia: 40,8% và Hàn Quốc: 28%). Như vậy, trách nhiệm thanh toán nợ của NSNN sau này sẽ rất lớn, hơn nữa phải thực hiện bằng ngoại tệ, đây sẽ là khó khăn không nhỏ đối với nước ta trong thời gian tới.
Bắt đầu từ năm 2002, các khoản vay mới sau năm 1993 lần lượt hết thời kỳ ân hạn và đến hạn trả nợ gốc. Do đó mức trả nợ sẽ tăng nhanh qua các năm. Lượng ngoại tệ cần có để trả nợ có thể sẽ tăng gấp đôi hoặc hơn nữa nếu tính cả nhu cầu trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù lượng ngoại tệ cần thiết để trả nợ cho các dự án được Chính phủ bảo lãnh sẽ được cân đối chung trong cán cân thanh toán quốc tế, nhưng bất kỳ lúc nào gánh nặng thanh toán cũng có thể dồn vào NSNN. Trong những tình huống xấu nhất thậm chí có thể dẫn tới đổ vỡ ngân sách.
Mặc dù vậy, để phát triển nền kinh tế chúng ta không thể không tiếp tục huy động các nguồn vốn ngoai nước cũng như trong nước. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nhu cầu về đầu tư toàn xã hội thời kỳ 2000 - 2005 lên tới 58 tỷ USD, trong đó dự kiến sẽ huy động khoảng 35 tỷ USD từ trong nước (chiếm 60%), 23 tỷ USD từ nước ngoài (chiếm 40%) trong đó vay ODA khoảng 9 tỷ USD, đầu tư trực tiếp khoảng 9 tỷ USD và vay thương mại khoảng 5 tỷ USD.
3. SỬ DỤNG NSNN THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ .
3.1. Về khả năng động viên GDP vào NSNN thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Để đạt được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2005 là mức tăng GDP bình quân tối thiểu 7% / năm quy mô NSNN phải đủ lớn, đảm bảo cho Nhà nước thực hiện các chức năng của mình, trong đó có chức năng điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Thực tế những năm qua cho thấy, tỷ lệ động viên thuế và phí trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) ngày càng giảm, thể hiện: năm 1996 là 22,2%; năm 1997 là 21,5%; năm 1998: 19,5%; năm 1999: 19,3% và năm 2000: 18,5%. Mức động viên GDP vào NSNN giảm dần do một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
Thứ nhất, kinh tế tăng trưởng với chất lượng thấp, sức cạnh tranh của hàng hoá kém, giá thành sản phẩm cao. Những năm qua, tốc dộ tăng trưởng GDP có xu hướng chậm lại (năm 1996 GDP tăng 9,3%; năm 1997 tăng 8,1%; năm 1998 tăng 5,8%; năm 1999 chỉ tăng 4,7%), nhưng hàng hoá trong nước vẫn dư thừa, tình hình tiêu thụ sản phẩm khó khăn, dần đến tình trạng cung lớn hơn cầu hàng hoá (nhất là trong 2 năm 1998 và 1999). Thêm vào đó, tình trạng giảm phát kéo dài làm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, của người sản xuất giảm sút. Một số ngành sản xuất ra sản phẩm, tạo giá trị GDP tăng thêm nhưng sản phẩm không tiêu thụ được, nghĩa là có một phần GDP tạo ra nhưng không được điều tiết vào NSNN. Điều đó đã làm giảm thu của một số loại thuế nhất là thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp (6 tháng đầu năm 2000 tổng số thuế thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp giảm 14% so với cùng kỳ năm 1999), hạn chế khả năng động viên GDP ở khu vực doanh nghiệp vào ngân sách Nhà nước.
Thứ hai, thu NSNN chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế; tình trạng thất thu còn lớn, nhiều lĩnh vực còn tiềm năng thu nhưng chưa có cơ chế có hiệu lực để khai thác tăng thu. Ngoài các khoản thu không tăng theo tốc độ tăng trưởng kinh tế như môn bài, thuế nhà đất, thuế giao thông, thuế sử dụng đất nông nghiệp... thì một bộ phận đáng kể các khoản thu có mức tăng thấp xa so với tốc độ tăng GDP, nhất là thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh năm 1999 tăng 8,8% so với năm 1998 nhưng thu ngân sách trong khu vực này chỉ tăng 0,76% so với số thực hiện năm 1998. Giá trị sản xuất công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) năm 1999 tăng 19%, nhưng thu ngân sách lại giảm 8,6% so với số thực hiện năm 1998).
Bên cạnh đó, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, trốn thuế diễn ra dưới nhiều hình thức, hàng nhập lậu trốn thuế với giá cả thấp (thuốc lá, rượu, xe máy, xe đạp, đồ điện tử, đường, vải, quần áo may sẵn...) không chỉ làm thất thu NSNN mà còn gây ra khó khăn rất lớn đối với hàng sản xuất trong nước. Tình trạng trốn lậu thuế, thu để ngoài ngân sách xảy ra ở nhiều đơn vị với số lượng lớn, tình trạng nợ đọng tiền thuế trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều, có những khoản nợ đọng kéo dài qua nhiều năm.
Thứ ba, chưa có sự nhất quán về chính sách miễn giảm thuế trong hệ thống pháp luật; nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành mở rộng hơn diện ưu đãi và thời hạn ưu đãi so với các văn bản pháp luật về thuế; hệ thống chính sách thuế còn chứa nhiều yếu tố chính sách xã hội nên chưa bao quát hết diện và đối tượng thu.
Một số văn bản pháp luật như: Luật khuyến khích đấu tư nước ngoài (Điều 22 ) đã quy định về thời gian miễn giảm thuế TNDN quá với khung quy định của Luật thuế TNDN; Luật khoa học công nghệ ( Điều 42) đã mở rộng thêm diện miễn thuế so với quy định của Luật thuế TNDN... Một số ưu đãi thuế với đối tượng khó khăn, các đối tượng thuộc chính sách xã hội, các đối tượng tham gia thực hiện chính sách xã hội cũng làm giảm thu NSNN, như: miễn thuế của gia đình thương binh, liệt sĩ, người già cô đơn, người chưa đến tuổi thành niên; miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, nông dân ở miền núi hải đảo...
Thứ tư, thực hiện chủ trương khoan sức dân; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tích tụ vốn để có khả năng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện chủ trương này, Nhà nước đã bãi bỏ thuế sát sinh, thuế buôn chuyến; giảm thuế suất chuyển quyền sử dụng đất thấp hơn 5% so với trước đây; giảm 60% thuế suất thuế trước bạ; giảm thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và nâng mức khởi điểm chịu thuế đối với người nước ngoài có thu nhập cao; cho phép giảm thuế nhập khẩu của hơn 600 mặt hàng và vật tư nguyên liệu, máy móc thuộc loại trong nước chưa sản xuất được... Đồng thời, Nhà nước cũng đã thực hiện việc sắp xếp lại các khoản thu phí và lệ phí theo hướng xoá bỏ các khoản thu, mức thu bất hợp lý, thống nhất mức thu giữa người trong nước và người nước ngoài.
Thứ năm, tình trạng lãng phí, chưa tiết kiệm còn diễn ra khá phổ biến cả trong sản xuất lẫn trong tiêu dùng; cả trong các cơ quan Nhà nước lẫn trên toàn xã hội.
Những biểu hiện cụ thể, rõ nét nhất đó là tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát lớn vốn ĐTXDCB, nhiều công trình vừa thi công, vừa điều chỉnh dự toán, đưa vào giá thành những khoản chi không đúng chế độ; tình trạng chi quản lý hành chính Nhà nước vượt dự toán lớn diễn ra trong nhiều năm qua ( năm 1996 vượt 38,6%; năm 1997 vượt 39,7%; năm 1999 vượt 40,6%). Mặc dù Nhà nước đã có văn bản pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong việc mua sắm phương tiện, tiếp khách, hội họp, lễ kỷ niệm nhưng kết quả đạt được còn hết sức hạn chế, nhiều đơn vị, địa phương còn lãng phí rất lớn trong việc mua sắm phương tiện đắt tiền, xây dựng trụ sở làm việc quá tiêu chuẩn quy định.
Ngoài ra, sự ảnh hưởng của thiên tai làm cho sản xuất kinh doanh bị đình đốn, mùa vụ thất bát nên Nhà nước thực hiện nhiều chính sách miễn, giảm thuế đối với doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân như: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao...
Do thực hiện các cam kết cắt giảm thuế quan trong quá trình hội nhập với các nền kinh tế khu vực và thế giới, Việt Nam đã tham gia AFTA từ 1/1/1996 và thực hiện cam kết cắt giảm mặt hàng chịu thuế. Tính đến nay Nhà nước đã công bố 4.233 mặt hàng cắt giảm thuế, chiếm khoảng 67% tổng mặt hàng của biểu thuế, trong đó có tới 1/2 số mặt hàng thuế suất chỉ còn từ 0 - 5%, tiến tới tối đa hoá số dòng thuế có thuế suất 0-5% vào năm 2003 và tối đa hoá dòng thuế có thuế suất 0% vào năm 2006. Thực hiện hiệp định hàng dệt may với cộng đồng châu Âu đến nay cũng đã điều chỉnh giảm thuế suất của 248 mặt hàng. Do đó làm giảm đáng kể nguồn thu NSNN từ nhập khẩu, đồng thời hàng hoá trong nước gặp nhiều khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập.
3.2. Thuế với vai trò kích thích tăng trưởng kinh tế.
Thuế không những là nguồn thu chủ yếu trong thu ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng, hữu hiệu, được Nhà nước sử dụng để điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Nhiều năm qua, ở nước ta thuế “được giao” khá nhiều trọng trách: khuyến khích cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phấn kinh tế, bảo hộ sản xuất trong nước, thúc đẩy việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, ưu tiên phát triển công nghệ cao, công nghiệp chế biến sâu, công nghiệp thu hút nhiều lao động... Nhưng bao trùm lên tất cả là hai mục tiêu có vẻ như mâu thuẫn với nhau: tăng thu NSNN và kích thích phát triển sản xuất.
Qua nhiều lần cải cách, đến năm 2000, hệ thống thuế nước ta bao gồm 9 sắc thuế chủ yếu: thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế nhà, đất; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế tài nguyên; thuế GTGT; thuế thu nhập doanh nghiệp ; thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Hệ thống thuế này đem lại 74% (chưa tính xuất khẩu dầu thô) tổng thu NSNN mỗi năm. Trong 26% còn lại là thu từ dầu thô 14,6%; thu từ phí, lệ phí, xổ số kiến thiết... 7,9%; viện trợ 3,5%. Từ cơ cấu nguồn thu này có thể khẳng định, thuế là nguồn thu chủ yếu trong tổng thu NSNN, do đó nó có vị hàng đầu trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế so với các nguồn thu khác.
Thăng bằng giữa hai nhiệm vụ tăng thu NSNN và kích thích phát triển sản xuất đòi hỏi thuế phải hết sức linh hoạt trong từng giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Bởi lẽ đó, việc điều chỉnh các sắc thuế (tăng, giảm) là hoàn toàn bình thường trong điều kiện mỗi thị trường quốc gia chỉ là một nhân tố, ít nhiều đều chịu sự phụ thuộc lẫn nhau trong toàn bộ hệ thống thị trường khu vực và thế giới.
Nền kinh tế Việt Nam sau khi đạt tốc độ tăng trưởng rất cao trong giai đoạn 1991 - 1996 (trung bình 8%/năm) thì chững lại từ 1997. Nguyên do chủ yếu bắt đầu từ cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế ở Đông Nam Á, Đông Bắc Á (1997 - 1999). Năm 2000, kinh tế Việt Nam lấy lại được đà tăng trưởng thì đến năm 2001 bị ảnh hưởng bởi cuộc suy giảm lan truyền từ các nền kinh tế lớn. Sự kiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35247.doc