MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ 2
1. Lịch sử hình thành và phát triển của KTNB 2
2. Bản chất và ý nghĩa của KTNB 3
3. Vai trò, chức năng của KTNB hiện đại 5
4. Sơ lược về một quy trình kiểm toán 8
5. Những yêu cầu đối với KTNB 9
PHẦN II: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KTNB VIỆT NAM 13
1. Vai trò của KTNB ở Việt Nam hiện nay 13
2. Tình hình của hoạt động KTNB ở Việt Nam: 14
3. Những yêu cầu đối với KTNB Việt Nam: 16
KẾT LUẬN 19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4828 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sự phát triển của kiểm toán nội bộ Việt Nam và những yêu cầu đối với kiểm toán nội bộ chuyên nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhu cầu đó, người chủ cần có sự trợ giúp của một hoặc một số người trực tiếp kiểm tra và báo cáo theo các câu hỏi trên. Đó là lí do dẫn đến sự ra đời của KTNB. Theo các tài liệu tham khảo được về KTNB và các thông tin thu thập được trên các website có thể nhận thấy mầm mống của hoạt động KTNB đã xuất hiện rất sớm. Từ thời kỳ Pharaoh, những hoạt động kiểm soát nội bộ, kiểm toán đầu tiên đã được hình thành ở Bộ phận tài chính trung tâm. Tuy nhiên trong thế kỷ 19, hoạt động KTNB chủ yếu là phát hiện những gian lận.
Khi các doanh nghiệp mở rộng phạm vi và lĩnh vực hoạt động, cùng sự ra đời của những chuẩn mực đạo đức trong quản lý, sự phát triển thêm trong Đạo luật năm 1977 của Mỹ về Những hành vi hối lộ bên ngoài, với các quy định về áp dụng Đạo luật đó của UB Chứng khoán và Giao dịch,và Đạo luật Tổng thanh tra, tạo ra sức ép quản lý đối với người điều hành thì KTNB càng trở nên quan trọng, Lúc này, vai trò của KTNB được mở rộng hơn trong cả kế toán, kiểm soát kế toán, các lĩnh vực tài chính và phi tài chính, phục vụ cho Hội đồng giám đốc và Ủy ban Kiểm toán.
KTNB hoạt động có hệ thống hơn khi Viện Kiểm toán nội bộ ( viết tắt là IIA- Insitute of Internal Auditors) được thành lập năm 1941với 25 hội viên. Đầu năm 1970, IIA bắt đầu việc đào tạo và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên nội bộ. Và đến năm 1978, IIA ban hành chuẩn mực thực hành cho KTNB đánh dấu bước phát triển quan trọng trong KTNB. Một minh chứng khẳng định vị trí vững vàng và sự lớn mạnh của nghề KTNB là hiện nay, IIA có trên 150000 hội viên tại 165 quốc gia, trong đó có khoảng 65000 hội viên có chứng chỉ KTVNB.
Không thể không nhắc đến các vụ gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001 và đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002 ( Luật này quy định các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ công ty) đã thúc đẩy KTNB càng phát triển nhanh, các KTVNB cũng có những kĩ năng nghề nghiệp cần thiết để giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả.
2. Bản chất và ý nghĩa của KTNB
Qua mỗi thời kỳ phát triển lại có thêm nhiều quan điểm về hoạt động KTNB, nhưng ở đây xin đưa ra hai định nghĩa tiêu biểu như sau:Định nghĩa thứ nhất, theo Viện Kiểm toán Nội bộ ( IIA ): “Kiểm toán nội bộ là hoạt động đánh giá và tư vấn độc lập trong nội bộ tổ chức, được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó. Giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá và cải tiến một cách hệ thống và chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro”.( web: kiemtoan.com.vn)
Thứ hai, trong Các chuẩn mực Hành nghề KTNB ban hành năm 1978, “ KTNB là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó, với tư cách là một sự trợ giúp đối với tổ chức đó”. ( Kiểm toán nội bộ hiện đại – đánh giá các hoạt động và hệ thống kiểm soát- NXB Tài chính 2000).
Theo tôi, cách diễn đạt đầu tiên bao hàm đầy đủ hơn cả về phạm vi, tính độc lập, nội dung, vai trò, và phương thức hoạt động của KTNB.
+ Về phạm vi, được chỉ ra rõ ràng ở cả hai khái niệm, công việc KTNB do tổ chức và nhân viên trong tổ chức tiến hành.
+ Về Tính độc lập của KTNB thể hiện trong cụm từ “ độc lập” nói lên rằng công việc KTNB không bị những ràng buộc có thể làm hạn chế đáng kể phạm vi và hiệu quả của việc thẩm tra, hoặc làm chậm trễ việc báo cáo những phát hiện và kết luận trong việc đánh giá các hoạt động của Ban Giám đốc và nhân viên.
+ Nội dung : đánh giá và tư vấn cho nhà quản lý. Điều này sẽ phản ánh đúng và đầy đủ hơn định nghĩa thứ hai đưa ra : là một chức năng thẩm định, chỉ thẩm định thôi thì chưa phản ánh rằng sau khi đã đánh giá, KTNB sẽ đưa ra những kiến nghị cho người điều hành, và những kiến nghị đó mới thực sự phản ánh chất lượng của hoạt động KTNB.
+ Định nghĩa thứ hai cũng không thể hiện được vai trò cải tiến và làm tăng giá trị cho hoạt động của tổ chức, không chỉ ra cách thức cụ thể để KTNB thực hiện vai trò ấy là: đánh giá và cải tiến một cách hệ thống, chuẩn tắc tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro mà chỉ thể hiện rất chung chung vai trò đó là: một sự trợ giúp.
Từ hai định nghĩa đã đưa ra, có thể thừa nhận rằng KTNB là một hoạt động kiểm soát có tổ chức mà chức năng là đo lường và đánh giá hiệu quả của những kiểm soát khác, kết quả là nêu ra căn cứ cải tiến và các kiến nghị cải tiến cho những người có trách nhiệm. KTNB là một dạng đặc biệt của nghề kiểm toán (bên cạnh kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước), mà “khách hàng” duy nhất là chính công ty mình đang làm việc.
3. Vai trò, chức năng của KTNB hiện đại
Theo quan điểm trước đây, KTNB chịu trách nhiệm kiểm toán báo cáo tài chính và tập trung vào công tác kiểm tra kế toán, thông tin tài chính của công ty. Tuy nhiên vai trò của KTNB hiện đại được mở rộng, bao gồm công tác kiểm toán tính hiệu quả và tính tuân thủ của mọi hoạt động cũng như tư vấn hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong doanh nghiệp.
Vai trò trong kiểm soát nội bộ:
Hướng đi chủ yếu của KTNB là cải thiện hoạt động của hệ thống Kiểm soát nội bộ. CICA ( Viện kế toán viên công chứng Canada ) định nghĩa về hệ thống KSNB theo quan điểm của kiểm toán quản lý như sau: “ Kiểm soát nội bộ bao gồm kế hoạch của tổ chức và tất cả các hệ thống phối hợp do nhà quản lý của doanh nghiệp xây dựng để nhằm trợ giúp đạt được các mục tiêu quản lý cho tới việc thực hành, tính tuân thủ và hiệu quả của hoạt động kinh doanh, bao gồm cả đảm bảo an toàn cho tài sản, tính trung thực của những ghi chép kế toán, tính đúng kỳ và sự trung thực của thông tin tài chính…” Như vậy, KSNB được nhận diện chung như một quy trình, hiệu quả hoạt động của BGĐ, nhà quản lý, và nhân viên khác của một tổ chức, các thiết kế để đưa ra những bảo đảm hợp lý cho các mục tiêu đạt được trong các loại KSNB sau:
- Tính hiệu quả, hiệu năng của các hoạt động
- Tính trung thực của các BCTC
- Tính tuân thủ luật pháp và quy định
Ban quản lý chịu trách nhiệm về KSNB. Nhà quản lý thiết lập nên những quy tắc và quy trình nhằm giúp tổ chức đạt được các mục tiêu cụ thể trong hệ thống mục tiêu chung. KTVNB tiến hành Kiểm toán để đánh giá xem những quy tắc, quy trình được thiết kế và thực hiện có hiệu quả hay không và đưa ra những kiến nghị để cải thiện chúng.
Vai trò trong quản lý rủi ro:
Những tiêu chuẩn KTNB chuyên nghiệp quy định chức năng điều hành và đánh giá hiệu quả quy trình quản lý rủi ro của tổ chức. Quản lý rủi ro mô tả cách thức một tổ chức thiết lập các mục tiêu, sau đó nhận dạng, phân tích, và đối phó lại với những rủi ro có ảnh hưởng tiềm tàng đối với khả năng đạt được mục tiêu của quản lý: Những rủi ro thuộc về các chiến dịch, hoạt động, báo cáo tài chính và hệ thống luật hoặc quy định. Nhà quản lý thực hiện các hoạt động đánh giá rủi ro như một phần trong tiến trình bình thường của hoạt động kinh doanh trong mỗi loại đó. Các ví dụ bao gồm: kế hoạch chiến lược, kế hoạch marketing, kế hoạch đầu tư, ngân quỹ, hoạt động vay nợ..... Luật Sanbanes-Oxley cũng yêu cầu mở rộng quy trình đánh giá rủi ro của BCTC. Hướng dẫn pháp luật thống nhất thường đặt ra những đánh giá toàn diện về chiều hướng và khả năng mâu thuẫn tiềm tàng trong các mặt của một công ty. Các KTVNB có thể đánh giá mỗi hoạt động hoặc tập trung vào các quá trình mà nhà quản lý sử dụng để tường thuật và giám sát các rủi ro nhận biết được. Chẳng hạn các KTVNB có thể đưa ra lời khuyên cho nhà quản lý về việc báo cáo những phương pháp hoạt động tiên tiến cho Hội đồng.
Trong các công ty lớn hơn, những giải pháp mang tính chiến lược lớn được thi hành để đạt các mục tiêu và tạo ra những thay đổi. Là một thành viên của Ban quản trị cấp cao, Trưởng ban kiểm toán (CAE) có thể tham gia vào những vị trí mới trong các giải pháp ấy. Điều đó đặt Trưởng Ban kiểm toán vào vị trí phải báo cáo những mặt tổ chức rủi ro chủ yếu cho UBKT hoặc đảm bảo rằng những thông tin của nhà quản trị là có hiệu quả cho mục tiêu đó.
Vai trò trong sự quản lý của tổng công ty
Hoạt động KTNB gắn liền với sự quản lý của liên hiệp công ty một cách gần gũi và trọn vẹn chủ yếu thông qua việc tham gia vào các cuộc họp và thảo luận của BGĐ. Sự quản lý của tổng công ty là sự kết hợp của các quy trình và cơ cấu tổ chức được thi hành bởi BGĐ để thông tin, hướng dẫn, quản lý và giám sát các nguồn lực, các chiến lược, các chính sách nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. KTVNB thường được xem là một trong bốn trụ cột trong sự quản lý của tổng công ty, các trụ cột khác là BGĐ và các KTV bên ngoài.
Phạm vi trọng tâm chủ yếu của KTNB khi nó gắn với sự quản lý của liên hiệp công ty là giúp UBKT của BGĐ thể hiện những trách nhiệm của nó một cách hiệu quả. Điều này bao gồm việc báo cáo những vấn đề kiểm soát nội bộ then chốt, thông tin một cách kín đáo cho UB về năng lực của những nhà quản lý chính, đề xuất những vấn đề và chủ đề cho các cuộc họp bàn của UBKT, kết hợp cẩn thận với KTV bên ngoài và nhà quản lý để đảm bảo rằng UB nhận được những thông tin hiệu quả.
Chức năng của hoạt động KTNB
Vậy cụ thể là KTNB xem xét,đánh giá những gì ? Trích dẫn trong các Chuẩn mực hành nghề KTNB (SPPIA) số 300, phạm vi công việc là “xem xét tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất lượng thực thi trách nhiệm được giao”. Như vậy mục đích của KTNB là xác định sự tồn tại và có hiệu lực của hệ thống KSNB đồng thời xác định việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức, từ đó hỗ trợ Ban Giám đốc đạt được mục tiêu kinh tế, hiệu quả và hiệu năng trong sản xuất- kinh doanh.. Hoạt động đánh giá hệ thống KSNB sẽ dựa theo các mục tiêu của hệ thống này mà tiến hành. Các mục tiêu đó là : tính trung thực và đầy đủ của các thông tin tài chính, tính trung thực của những ghi chép kế toán; tính tuân thủ, tính kinh tế và hiệu quả của hoạt động kinh doanh; bảo vệ tài sản... vì thế KTNB hiện đại thực hiện hai chức năng chính như sau:
+ Chức năng kiểm tra, xác minh các thông tin tài chính: là xác định rằng các sổ sách, BCTC có chính xác, đáng tin cậy, kịp thời, hoàn chỉnh và hữu ích không ; việc kiểm soát sổ sách ghi chép và báo cáo có đầy đủ và có hiệu lực không.
+ Chức năng kiểm tra hiệu quả, hiệu năng của các hoạt động: chức năng này hướng vào thẩm tra tính tuân thủ các chính sách, kế hoạch, thủ tục, pháp luật, quy định ;đánh giá tính tiết kiệm ( thể hiện bằng kết quả đạt được với nguồn lực sử dụng ít nhất ), tính hiệu quả ( sử dụng nguồn lực một cách tối ưu), tính hiệu năng ( có đạt được mục tiêu, mục đích đặt ra không ) của các chương trình, hoạt động.
Trong đó chức năng thứ hai là chủ yếu. Việc đánh giá phải dựa vào đặc điểm riêng của từng hoạt động. Kiểm toán không kết thúc với báo cáo các phát hiện kiểm toán mà mở rộng đưa ra các kiến nghị cho các cá nhân, tổ chức yêu cầu kiểm toán.
4. Sơ lược về một quy trình kiểm toán
Dựa trên đánh giá rủi ro của tổ chức, các KTVNB, nhà quản lý, các ban giám sát quyết định tập trung các nỗ lực KTNB vào đâu. Hoạt động KTNB thường được tiến hành như một hoặc nhiều kế hoạch. Một quy trình KTNB điển hình gồm các bước sau:
- Thiết lập và thông tin kế hoạch và những mục tiêu KT tới nhà quản lý thích hợp
- Trình bày những hiểu biết về phần kinh doanh dưới sự giám sát. Bao gồm các mục tiêu, những khuôn khổ, và các loại nghiệp vụ then chốt. Nó đòi hỏi phải rà soát lại tài liệu và phỏng vấn. Có thể tạo ra các biểu đồ tiến độ hay các bảng tường thuật nếu cần thiết.
- Nhận biết các thủ tục kiểm soát để đảm bảo mỗi nghiệp vụ then chốt được kiểm soát và giám sát đúng đắn
- Triển khai và thực hiện việc chọn mẫu rủi ro và phương pháp nghiên cứu để xác định các kiểm soát quan trọng nhất có đang được thi hành như mong đợi hay không.
- Báo cáo các vấn đề được nhận biết và thảo luận, dàn xếp với ban quản lý để xác định nguyên nhân, tiếp tục tìm hiểu gián tiếp trong những phạm vi thích hợp. Các ban KTNB duy trì những cơ sở dữ liệu tiếp theo cho mục tiêu này.
Độ dài của kế hoạch phụ thuộc vào sự phức tạp của hoạt động được kiểm toán và nguồn lực sẵn có của KTNB. Nhiều bước trong số các bước trên bị lặp lại và có thể tất cả không xuất hiện theo một tiến trình đã được chỉ ra. Thêm vào quá trình đánh giá hoạt động kinh doanh, có những chuyên gia ( được gọi là các Kiểm Toán công nghệ thông tin ) rà soát các kiểm soát công nghệ thông tin.
5. Những yêu cầu đối với KTNB
Trong giới hạn phạm vi đề tài, ở đây tôi chỉ đưa ra một số ý kiến về các công việc mà KTVNB thực hiện và tiêu chuẩn chung dành cho một KTVNB. Do được tiếp cận với tất cả các lĩnh vực hoạt động của tổ chức để thực hiện chức năng kiểm tra, phân tích, đánh giá và tư vấn, vô hình trung, KTVNB có được vị thế mà nhân viên ở những bộ phận khác trong tổ chức không có được. Vì thế, khi hoạt động KTNB ngày càng hoàn thiện và phát triển thì phòng KTNB chính là một môi trường thực hành lý tưởng để đào tạo các giám đốc công ty trong tương lai. Thực tế chứng minh, nhiều tập đoàn đa quốc gia trên thế giới đã sử dụng phòng KTNB như là nơi ươm mầm và rèn luyện các tài năng lãnh đạo của mình.
KTVNB là một nghề đòi hỏi kỹ năng và đạo đức rất cao. Vì thế chỉ khi người làm KTNB có đủ tính chuyên nghiệp và chứng nhận đào tạo bài bản, có thâm niên thực tế thì năng lực và danh hiệu mới được công nhận.
KTVNB thực hiện các công việc như sau:
- Nhà tư vấn kiểm soát và kiểm toán cho giám đốc điều hành và các giám đốc chức năng trong công ty.
- Giám sát tiến trình vận hành hệ thống kiểm soát nội bộ và nhận dạng mọi cơ hội cải tiến hệ thống này. Đánh giá nguồn lực công ty để sử dụng phù hợp tránh lãng phí, thất thoát. Làm việc với kiểm toán độc lập của công ty về những vấn đề liên quan. Đề xuất chính sách bảo vệ tài sản và quản lý rủi ro.
- Kiểm toán tuân thủ pháp luật, nội quy và chính sách điều hành. Góp phần đảm bảo hoạt động công ty tuân thủ quy định pháp luật, phù hợp với đạo đức kinh doanh. Đảm bảo các chức năng của công ty được thực hiện nghiêm chỉnh, vận hành hợp lý.
- Thực hiện một phần chức năng kiểm soát tài chính. Kiểm tra chất lượng thông tin, báo cáo kế toán. Rà soát tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính. ( nguồn: web kiemtoan)
Tiêu chuẩn dành cho một KTVNB:
Sau khi tìm hiểu một số tài liệu KTNB, tôi tóm tắt những tiêu chuẩn đó như sau:
Yêu cầu về kỹ năng nghiệp vụ:
Để đáp ứng được yêu cầu, mỗi KTNB chuyên nghiệp phải như một từ điển sống với vốn kiến thức chuyên sâu về tài chính kế toán, kiến thức pháp luật và kiến thức quản trị vì họ phải xử lý hàng loạt tình huống nghiệp vụ đòi hỏi thông thạo chuyên môn và kinh nghiệm, sự am hiểu về các quá trình hạch toán và kiểm soát tài chính. Sẽ rất hữu ích khi có trình độ thông thạo về những lĩnh vực nghiệp vụ cụ thể như các kỹ năng về máy tính, quy trình sản xuất, chuyên môn kỹ sư....., am hiểu chi tiết nhưng có tầm nhìn tổng quan, khả năng nhìn thấy “cái bất thường trong cái tưởng như bình thường”. Trong đó, kiến thức về khoa học quản trị kinh doanh và pháp luật là vô cùng cần thiết.
Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
Nguyên tắc và tác phong đối với một kiểm toán viên nội bộ:- Quan hệ với đối tượng kiểm toán: Lưu ý tới chất lượng chuyên môn, bảo mật trong mối quan hệ với đối tượng kiểm toán, duy trì tính độc lập của phòng kiểm toán nội bộ; thận trọng, khôn khéo khi quan hệ với mọi cấp nhân viên của toàn công ty.
- Tác phong nghề nghiệp: Luôn tỏ ra là người đĩnh đạc, thận trọng và kín đáo.
- Tính độc lập: Thể hiện được các chuẩn mực, nguyên tắc nghề nghiệp trên sơ sở đặc thù của phòng kiểm toán nội bộ trước đối tượng kiểm toán.
- Tuyệt đối bảo mật những thông tin mà kiểm toán viên thu thập được. Nắm vững và cam kết tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên nội bộ (theo điều lệ đạo đức nghề nghiệp do llA ban hành).
Tôi đặc biệt ủng hộ quan điểm cho rằng KTVNB cần phải có các phẩm chất: chính trực, công tâm; tận tụy vì lợi ích của công ty; thái độ khiêm nhường đúng mực; có sự tự tin nghề nghiệp; sự thông cảm; kiên định với vai trò của mình, ham tìm hiểu và sẵn sàng phê bình, chính trực, độc lập và phải cố gắng cho khả năng nhận định hợp lý....( trích dẫn KTNBHĐ- NXB Tài chính).
Các phẩm chất nghề nghiệp:
Để nhận thức được rằng KTNB là một hoạt động hoàn toàn chuyên nghiệp tóm tắt một số chuẩn mực do Viện kiểm soát nội bộ ban hành:
- 100 Tính độc lập - kiểm toán viên nội bộ phải độc lập với những hoạt động mà họ kiểm toán.
- 200 Tinh thông nghề nghiệp - kiểm toán viên nội bộ phải được đào tạo thành thạo và được bồi dưỡng nghề nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ.
Đặc biệt là:
240 Tuân thủ chuẩn mực đạo đức
250 Kiến thức kỹ năng và kỉ luật
260 Quan hệ nhân sự và trao đổi thông tin
270 Học tập không ngừng
280 Thận trọng nghề nghiệp đúng mực.
- 300 Phạm vi công việc - Phạm vi kiểm toán nội bộ phải bao gồm các việc xem xét và đánh giá tính đầy đủ và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức và chất lượng thành tích thực hiện nhiệm vụ được giao.
- 400 Quá trình công việc kiểm toán phải bao gồm vạch kế hoạch kiểm toán xem xét và đánh giá thông tin, thông báo những kết quả và điều tra nghiên cứu kỹ.
- 500 Quản lý bộ phận kiểm toán nội bộ - người phụ trách kiểm toán nội bộ, quản lý đúng đắn bộ phận kiểm toán nội bộ
(Nguồn: Kiểm toán nội bộ hiện đại - Nhà xuất bản tài chính)
PHẦN II: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KTNB VIỆT NAM
Nếu như kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được 17 năm thì cho đến nay, khái niệm KTNB vẫn còn xa lạ với nhiều nhà quản lý. Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị cho thấy sự cần thiết của kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp. Quyết định 832/TC/QĐ/TCKT ngày 28-10-1997 của Bộ KTNB tại các DNNN ở Việt Nam) không định nghĩa nhưng có quy định chức năng của KTNB là kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động.
1. Vai trò của KTNB ở Việt Nam hiện nay
Quy chế KTNB áp dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước, ban hành theo Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT, ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), điều 5: Phạm vi thực hiện của KTNB :
“ 1.Kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và của các đơn vị thành viên
2. Kiểm toán tuân thủ
3. Kiểm toán hoạt động ”
Một số công ty chọn có một “kiểm toán nội bộ” chịu trách nhiệm đảm bảo hệ thống kiểm soát nội bộ được tuân thủ. KTNB không được là thành viên của phòng kế toán vì các biện pháp kiểm soát nội bộ cũng áp dụng cho cả phòng kế toán.
Cụ thể, KTNB thường có trách nhiệm kiểm tra:
Việc tuân thủ các quy trình và chính sách, vốn là một phần của hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty;
Việc tuân thủ các chính sách và quy trình kế toán cũng như việc đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị; và xác định các rủi ro, các vấn đề và nguồn gốc của việc kém hiệu quả và xây dựng kế hoạch giảm thiểu những điều này.
KTNB báo cáo trực tiếp lên Tổng Giám đốc hoặc Hội đồng Quản trị. Do đó, với một kiểm toán nội bộ làm việc hiệu quả, hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty sẽ liên tục được kiểm tra và hoàn thiện.
Theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có trên 11 cổ đông phải có Ban Kiểm soát. Mặc dù vai trò và quyền hạn của Ban Kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp không rõ ràng ở một mức nào đó, nhưng có khả năng Ban Kiểm soát đóng vai trò của KTNB như miêu tả trên.
2. Tình hình của hoạt động KTNB ở Việt Nam:
Khung pháp lý cho KTNB Việt Nam
Hiện nay khung pháp lý cao nhất cho hoạt động KTNB là Luật Doanh nghiệp (cũ và mới). Khái niệm đầu tiên liên quan đến KTNB quy định trong luật là ban kiểm soát do cổ đông bầu ra. Tuy nhiên, vai trò, chức năng, trách nhiệm của ban kiểm soát còn quá mơ hồ, làm công việc của thanh tra mang tính chất đột xuất, theo yêu cầu hơn là thường xuyên.
Các doanh nghiệp nhà nước có thêm một quy định, hướng dẫn về vấn đề KTNB (Quyết định 832/TC/QQĐ/CĐKT năm 1997). Theo đó, phòng KTNB vẫn báo cáo lên tổng giám đốc như một bộ phận thuộc sự điều hành của tổng giám đốc. Điều này làm giảm tính độc lập của phòng KTNB, vì toàn bộ hệ thống quản lý trong doanh nghiệp (do BGĐ quy định) đều là đối tượng đánh giá của KTNB. Trong khi đó, theo thông lệ phổ biến trên thế giới, phòng KTNB chịu trách nhiệm báo cáo trực tiếp lên cho ban kiểm soát hoặc hội đồng quản trị, tức là cấp cao hơn BGĐ
Vị trí và hoạt động của KTNB Việt Nam
Ở Việt Nam, trong những năm qua, Ban kiểm soát ở các doanh nghiệp nhà nước và một số ngân hàng đã hoạt động nhưng chưa mang lại hiệu quả do vai trò, chức năng, trách nhiệm chưa rõ ràng và còn thiếu công cụ để thực hiện công tác giám sát.
Ở các loại hình công ty khác, hoạt động KTNB ít nhiều đã hình thành khi các công ty thực hiện hệ thống quản lý chất lượng hay môi trường (ISO). Các công ty có được chứng chỉ ISO bắt buộc phải thực hiện đánh giá nội bộ (thực chất là KTNB) ít nhất mỗi năm một lần về mức độ tuân thủ các tiêu chuẩn ISO. Việc đánh giá này thường do một ban hay một bộ phận - thường gọi là ban ISO hay ban bảo đảm chất lượng - thực hiện và báo cáo lên tổng giám đốc. Tuy nhiên, do đánh giá nội bộ chỉ giới hạn ở việc tuân thủ các tiêu chuẩn của ISO (chủ yếu về mặt thủ tục, văn bản), nên hầu như không giúp cải tiến nhiều về hệ thống kiểm soát ở công ty. Trong thực tế, nhiều doanh nghiệp thực hiện ISO đã nhận ra điều này và đã thiết lập bộ phận đánh giá nội bộ ở cấp độ cao hơn, đầy đủ hơn và thực chất hơn.
Việc xây dựng KTNB trong doanh nghiệp chắc chắn sẽ phát triển trong thời gian tới cùng với sức phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự đòi hỏi của các nhà đầu tư về một hệ thống quản trị chuyên nghiệp sẽ buộc các doanh nghiệp phải chú ý xây dựng hệ thống KTNB sao cho thật hiệu quả.
Xu hướng thiết lập hệ thống KTNB cũng sẽ phát triển trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này đang ngày càng có đóng góp cao về doanh thu, lợi nhuận đối với công ty mẹ ở nước ngoài. Và rất nhiều công ty mẹ đó đang niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ hay ở các thị trường chứng khoán lớn khác trên thế giới. Do đó, dần dần, các công ty nước ngoài ở Việt Nam cũng buộc phải tuân thủ những quy định như Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ, tức là phải thực hiện KTNB. Các công ty này sẽ ngày càng nhận được nhiều chương trình KTNB do công ty mẹ thực hiện hoặc sẽ phải xây dựng bộ phận kiểm toán độc lập của riêng mình.
Cùng chung một thực trạng với thị trường KT nói chung ở Việt Nam - thiếu nhân lực KT
Sự tăng trưởng buộc các doanh nghiệp cần có những kiểm toán viên nội bộ để giảm thiểu các rủi ro. Kiểm toán viên nội bộ có khả năng ngăn chặn, phát hiện và chỉnh sửa các vấn đề tiêu cực phát sinh cao nhất trong nội bộ doanh nghiệp, đóng vai trò như một người bảo vệ giá trị của doanh nghiệp. Song hiện tại cung vẫn còn quá mỏng so với cầu.
Hiện nay, chương trình đào tạo kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp chưa nhiều, chỉ do Viện Tin học doanh nghiệp (thuộc VCCI) với sự trợ giúp kỹ thuật của ACCA (Hiệp hội Kế toán viên Công chứng Vương quốc Anh) đảm nhận. Đối tượng tham gia học chủ yếu là những người đã và đang hoặc sẽ đảm đương trọng trách tại phòng kiểm toán nội bộ. Trong bối cảnh đó, kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp trở thành "con cưng" vừa quý vừa hiếm.
3. Những yêu cầu đối với KTNB Việt Nam:
Theo Điều 12, Quyết định 832/TC/QĐ/TCKT thì: “Kiểm toán viên nội bộ tại các doanh nghiệp nhà nước phải có các tiêu chuẩn: phẩm chất trung thực… đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế toán, hoặc quản trị kinh doanh; đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế toán từ 5 năm trở lên, trong đó có ít nhất là 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao nhiệm vụ kiểm toán viên. Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, KTNB theo nội dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ.”
KTVNB ở Việt Nam cũng phải đáp ứng được các yêu cầu chung đối với KTVNB và theo quy định riêng như trên của Bộ tài chính. Quá trình rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp của một KTVNB không thể tách rời những tinh hoa của các ngành khoa học quản lý dành cho một doanh nghiệp, cơ bản ứng dụng những nét truyền thống cũng như hiện đại để hiểu biết về hoạt động kinh doanh của công ty và không ngừng cập nhật kiến thức nghề nghiệp. Theo tôi, để phát triển nghề KTNB tại Việt Nam, việc tiếp cận được những kiến thức nghề nghiệp cốt lõi, cập nhật, chắt lọc từ những chương trình đào tạo kiểm toán quốc tế là rất quan trọng. Những kiến thức này cùng với những trải nghiệm nghề nghiệp bản thân sẽ là hành trang cần thiết cho sự thành công.Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố về trình độ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, một yếu tố cực kỳ quan trọng để có thể trở thành một KTVNB chuyên nghiệp, đó là phải có đạo đức nghề nghiệp và lòng yêu nghề, để bền lòng, vững bước trước mọi khó khăn, cám dỗ mà có lúc người KTVNB khi phải đối diện với những hành vi gian lận và phạm pháp.
Tóm lại để trở thành một kiểm toán viên nội bộ chuyên nghiệp phải có những tố chất mà một “Kiểm toán viên nội bộ” cần phải có (vì kiểm toán cũng là một nghệ thuật). Đồng thời, phải học những kiến thức nền tảng, cốt lõi mà một kiểm toán viên nội bộ cần phải trang bị (vì kiểm toán là một khoa học). Trên cơ sở kiến thức nền tảng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22420.doc