Đề án Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin

 Mục Lục Trang

Lời Mở Đầu

CHƯƠNG I Các Vấn Đề Chung Về Thương Mại Điện Tử

I Khái niệm về Thương Mại Điện Tử

1. Công nghệ thông tin

2. Khái niệm Thương Mại Điện Tử

3. Phạm vi của Thương Mại Điện Tử

3.1 Lĩnh vực công nghệ

3.2 Lĩnh vực marketing và tạo ra khách hàng mới

3.3 Lĩnh vực kinh tế

3.4 Sự liên kết điện tử

3.5 Giá trị gia tăng của thông tin

3.6 Phát triển thị trường

3.7 Cơ sở hạ tầng dịch vụ

3.8 Luật pháp, tính riêng tư và các chính sách công cộng

II Lợi ích của Thương Mại Điện Tử

1. Lợi ích từ phía người sản xuất

2. Lợi ích từ phía người tiêu dùng

3. Lợi ích từ phía xã hội

III Các điều kiện cần thiết cho sự phát triển Thương Mại Điện Tử

1. Điều kiện hạ tầng công nghệ thông tin

2. Cơ sở hạ tầng kinh tế

3. Hành lang pháp lý

4. Điều kiện nhân lực

IV Tình hình phát triển Thương Mại Điện Tử trên thế giới và trong khu vực.

1. Thương Mại Điện Tử trên thế giới

2. Thương Mại Điện Tử ở Mỹ

3. Thương Mại Điện Tử ở Trung Quốc

4. Thương Mại Điện Tử ở các nước ASEAN

CHƯƠNG II Thực Trạng Phát Triển CNTT Cho TMĐT ở Việt Nam

I Chiến lược chung phát triển Thương Mại Điện Tử

1. Phát triển cùng Internet.

2. Tổ chức linh hoạt

3 Sử dụng Thương Mại Điện Tử

4. Hoạt động kiểu mới trên thị trường

5. Các vấn đề về tổ chức

6. Vấn đề thực hiện

7. Vấn đề tiếp thị

II Thương Mại Điện Tử ở Việt Nam

1. Thực trạng phát triển CNTT ở Việt Nam và tác động của nó đến Thương Mại Điện Tử

2. Hạ tầng cơ sở CNTT ở Việt Nam

2.1 Công nghệ tính toán

2.2 Công nghệ truyền thông

III Những tồn tại hạn chế và nguyên nhân của CNTT tới hoạt động Thương Mại Điện Tử

CHƯƠNG III Nhiệm Vụ, Giải Pháp Phát Triển CNTT Trong Thương Mại Điện Tử

I Mục tiêu, chủ trương phát triển CNTT ở Việt Nam

II Nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNTT ở Việt Nam

1. ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả CNTT trong toàn xã hội để sớm tiếp cận Thương Mại Điện Tử

2. Tạo môi trường thuận lợi cho ứng dụng CNTT và phát triển CNTT phục vụ Thương Mại Điện Tử

3. Đẩy mạnh việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực cho ứng dụng và phát triển CNTT trợ giúp TMĐT

4. Đẩy mạnh việc xây dựng mạng thông tin quốc gia bao gồm hệ thống viễn thông và Internet Việt Nam

5. Tăng cường đổi mới công tác quản lý nhà nước với lĩnh vực CNTT

Kết Luận

Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo

 

 

 

 

 

 

 

doc83 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Sự sẵn sàng của Việt Nam trong việc thực hiện thương mại điện tử trên lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thông tin liên lạc còn có nhu cầu quản lý tri thức do thông tin tạo nên. Đây không phải là điều gì mới lạ, tuy nhiên số lượng thông tin tăng lên và sự chia sẻ thông tin làm cho việc quản lý tri thức ngày càng quan trọng hơn. Không có nó các công ty và nhân viên sẽ không thể tìm và tận dụng các cơ hội, hoặc có thể bị ngợp trong một núi thông tin mà họ không thể xử lý. Làm việc với các đối tác kinh doanh thông qua TMĐT đòi hỏi sự cân bằng giữa khả năng của bản thân doanh nghiệp và khả năng của các đối tác truyền thông. Đây là một trong những mục tiêu của EDI, ví dụ, hình thức của dữ liệu được truyền giữa các đối tác cũng như phương tiện truyền tin đều cần được tiêu chuẩn hóa. Nhưng các bên hợp tác có thể vẫn cần đổi mới các thủ tục của mình để xử lý các dữ liệu EDI họ nhận được. Nếu một doanh nghiệp không sẵn sàng, hoặc không thể đáp ứng các yêu cầu về năng lực thì có thể sử dụng một người trung gian. Điều này tỏ ra đặc biệt hữu ích trong các dự án ngắn hạn. Người trung gian có thể cung cấp một mối liên hệ tạm thời đối với các dữ liệu quan trọng, cung cấp một cơ sở chung cho các doanh nghệp trao đổi thông tin với nhau. Điều này cũng giải quyết được vấn đề kiểm soát quyền truy cập. Trong một môi trường thông tin linh hoạt, thành viên của cộng đồng thông tin có thể không những xem, mà còn sửa đổi được dữ liệu của người khác. Nhiều doanh nghiệp không muốn để người ngoài truy cập thông tin của mình, chưa nói gì đến cho họ thay đổi thông tin đó. Việc thiết lập quyền truy cập cho các đối tác, thiết lập một khâu kiểm soát trung gian và giám sát sự truy cập, cũng như bảo quản các ngân hàng dữ liệu có thể phù hợp với các doanh nghiệp muốn chia sẻ dữ liệu mà không phải duy trì một hệ thống an ninh phụ trợ đối với người ngoài. 6. Vấn đề thực hiện. Kế hoạch lập ra thì cần phải thực hiện. Đôi khi thực tiễn của hệ thống thông tin tiêu chuẩn là đủ để hình thành một khung hành động. Các doanh nghiệp cũng không nên coi nhẹ giá trị, kinh nghiệm của bộ phận thông tin của mình, nhưng cần phải thử nghiệm nó bằng Internet, đặc biệt là về tính năng động và cách tiếp cận hệ thống mở. Chưa tính đến có lợi hay không, các công việc thông thường được thực hiện trên Internet theo một cơ chế rất khác. Tiến hành các dự án thử nghiệm là một cách tốt cho bất cứ một hoạt động qui mô nào, bất kể là có bao nhiêu hàm Internet hay TMĐT hay không. Đối với TMĐT, các dự án thử nghiệm với một số khách hàng hoặc đối tác kinh doanh sẽ là đặc biệt hữu ích, những thử nghiệm ban đầu như vậy giúp tìm ra các vấn đề trong cả hoạt động và nhận thức trước khi ứng dụng với qui mô lớn, khó có cơ hội sửa chữa sai lầm. Tuy nhiên, cũng có những vấn đề mà dự án thử nghiệm không tìm ra được, và chỉ phát sinh khi dự án được thực hiện với quy mô lớn. Ví dụ, quản lý dữ liệu trở thành một vấn đề quan trọng khi triển khai dự án thử nghiệm trên thực tế. Việc lập kế hoạch mở rộng trang web và các dữ liệu liên quan, tự động hóa các thủ tục, tu bổ trang web là rất quan trọng để doanh nghiệp thành công. Và điều này thậm chí còn quan trọng hơn khi doanh nghiệp tăng cường tính tương tác với khách hàng. Đó là lý do rất nhiều công ty sử dụng những cơ sở dũ liệu quan hệ lớn và cách tiếp cận hướng đối tượng để tạo ra các trang web. Tự động hóa việc trình bày trang web cũng tạo điều kiện thay đổi các thông tin phù hợp với khách hàng. Khi đã thu thập đủ thông tin để định dạng khách hàng, doanh nghiệp có thể sử dụng định dạng đó để định hướng cách trình bày trang web, hoặc để định hướng các chương trình khuyến mại và sửa đổi sản phẩm. Việc định dạng khách hàng và sửa đổi các sản phẩm, dịch vụ hướng khách hàng trở nên ngày càng tinh vi hơn khi TMĐT phát triển. Phương pháp càng tinh vi càng đòi hỏi nhiều dữ liệu, và dữ liệu có thể thu thập được từ các giao dịch với khách hàng trên mạng : từ thói quen truy cập và mua bán trên trang web, thói quen thanh toán tới các yêu cầu hỗ trợ kĩ thuật, hỗ trợ khách hàng. Bởi vì các dữ liệu đều được số hóa nên chúng có thể được thu thập và phân tích. Nhiều doanh nghiệp sử dụng kho dữ liệu của mình để chứa các thông tin về khách hàng, và đang phát triển các kĩ thuật khai thác thông tin để tìm hiểu thói quen cũng như nhu cầu khách hàng. Những phương pháp này tạo điều kiện để phân nhóm thị trường, dẫn đến những thay đổi hướng khách hàng hợp lý hơn. Đa phần các công nghệ đang được phát triển cho TMĐT đều tương đối mới và kém hoàn chỉnh so với các điện tử khác. Như vậy còn cần rất nhiều thử nghiệm - không chỉ doanh nghiệp phải thử nghiệm các dự án TMĐT khác nhau, mà các nhà cung cấp phần mềm cũng đang phải thử nghiệm. Do đó các công cụ cần thiết để xây dựng hệ thống TMĐT có thể hoặc là không có sẵn, hoặc là không đủ tinh vi. Nhưng các doanh nghiệp thường tìm được đủ sản phẩm để bắt đầu trong khi chờ đợi các công nghệ phát triển hơn. Việc tự động hóa các thủ tục và dữ liệu thương mại là quan trọng khi doanh nghiệp dự tính hỗ trợ giao dịch và thanh toán điện tử như một bộ phận của mô hình thương mại. Dựa vào kiểu giao dịch định hỗ trợ, doanh nghiệp sẽ phải quyết định lượng thông tin, dịch vụ hoặc lượng thời gian nhỏ nhất để tính tiền. Thậm chí nếu dự định thực hiện giao dịch điện tử, doanh nghiệp cũng phải tính đến vấn đề nhiều khách hàng vẫn thích các tài khoản dài hạn hơn ví dụ dễ kiểm soát hơn. Doanh nghiệp có thể đề nghị cả hai hệ thống cho khách hàng, nhưng bất kể là hệ thống nào thì doanh nghiệp cũng phải kết hợp nó với hệ thống kế toán hiện hành. Nếu không thì doanh nghiệp sẽ phải thiết kế một hệ thống mới bao hàm tất cả. 7. Vấn đề tiếp thị. Hãy tranh thủ việc Internet đã trở thành một phương tiện tương tác thực sự, để đưa vào các trang web những dữ liệu động và hỗ trợ các giao dịch giữa người mua và người bán. Điều này đặt ra những vấn đề mới và cơ hội mới cho các nhà tiếp thị. Như đã biết hệ thống TMĐT trên Internet có thể thu thập thông tin về nhu cầu và các mẫu hành vi khách hàng, cho phép thiết lập các quan hệ riêng giữa khách hàng và người bán. Hiện nay các phòng tiếp thị có thể vươn tới những nhóm khách hàng mới, mhư các tiểu nhóm và các cộng đồng trực tuyến. Các nhà tiếp thị cũng phải giúp doanh nghiệp xây dựng kế hoạch thu thập dữ liệu khách hàng có tính đến bí mật khách hàng. Khi tiến đến thương mại doanh nghiệp - doanh nghiệp, điều này có thể không phải là vấn đề nhưng nhiều khách hàng trên Internet đều cảm thấy nên đưa càng ít thông tin về mình càng tốt. Việc tùy biến sản phẩm và khuyến mại Internet không cần luôn luôn trên cơ sở một - một, vì các tiểu nhóm thị trường trường tỏ ra cân bằng. Nhưng doanh nghiệp cũng cần tránh tạo ra những nhóm quá nhỏ. Phân nhóm càng chính xác thì doanh nghiệp càng dễ thu hút sự quan tâm của khách hàng. Nhưng nếu phân nhóm quá nhỏ thì lại không hỗ trợ được cho việc giảm chi phí phát triển các sản phẩm cụ thể, ngay cả khi Internet đã giảm đáng kể những chi phí này. Việc khuyến mại tùy biến các sản phẩm số hóa rất dễ trình bày trên cơ sở một - một hay tiểu nhóm, bởi vì chỉ có thông tin về sản phẩm chứ không phải bản thân sản phẩm. Để thực hiện chiến lược phân nhóm thị trường, doanh nghiệp cũng nên tìm cách tạo ra hay hướng vào các nhóm lợi ích. Những nhóm này là những diễn đàn để cung cấp thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm, cũng như thu thập dữ liệu thụ trường. Nếu có thể tạo ra những nhóm thỏa mãn cả nhu cầu cộng đồng và nhu cầu giao dịch, khách hàng và đối tác thì doanh nghiệp sẽ dành được sự trung thành của khách hàng và hiểu thêm về bản chất nhu cầu khách hàng. * * Một chiến lược TMĐT được xây dựng kỹ càng cần có sự đánh giá tiềm năng bán hàng trên mạng của từng sảm phẩm, có dự trù về nhu cầu đầu tư để xây dựng và phát triển kinh doanh đối với các sản phẩm đó, có kế hoạch để điều hành và đánh giá kết quả của công việc kinh doanh, có chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư. Chiến lược TMĐT cũng phải tạo thuận lợi để tìm được nguồn vốn. Một số yếu tố cốt lõi của chiến lược TMĐT gồm : - Đầu tiên là phần trình bày tóm tắt rõ ràng và có căn cứ của kế hoạch đề ra. Nếu phần tóm tắt này tạo được sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, sẽ có rất nhiều cơ hội dể thể hiện ý tưởng đối với đề án đưa ra. Cần nêu ra được điều gì sẽ làm cho công ty thành công, sau đó đưa ra các lợi thế của công ty so với các đối thủ cạnh tranh khác đã có mặt trên mạng Internet. - Các mục tiêu : Nêu rõ các mục tiêu dài hạn và xác định TMĐT sẽ giúp công ty như thế nào để đạt được các mục tiêu đề ra này. - Định hướng : Nêu rõ công ty muốn sử dụng mạng Internet như thế nào. - Thực trạng hiện tại : Chỉ ra được các sản phẩm có thể bán tốt trên Internet và đưa ra lý do. - Đặt ra các chỉ tiêu để đánh giá sự hoạt động trên mạng : các chỉ tiêu này cần bao gồm số lần truy cập vào trang web trong một tháng, số trang web được xem, số lượng người chỉ truy cập một lần, số lượng các liên lạc thực tế, số lượng giao dịch thực hiện, số lượng đơn đặt hàng. - Khuyếch trương : Mô tả ý định khuyếch trương website của công ty. - Phân tích thị trường : Mô tả các cơ hội trên thị trường TMĐT của công ty. - Mức độ cạnh tranh hiện tại : Trình bày các bằng chứng phân tích mức độ cạnh tranh trong hiện tại và khả năng cạnh tranh của công ty trong ngành công nghiệp của mình. Lập danh sách website của các đối thủ cạnh tranh và phân loại theo mức độ cạnh tranh, dự kiến thị phần của các đối thủ cạnh tranh. Xác định xu thế TMĐT trong ngành của mình. - Khách hàng mục tiêu : Trình bày tình trạng của khách hàng mục tiêu trên mạng của công ty về mặt số lượng và các yếu tố kinh tế xã hội. Nêu rõ tại sao công ty tin tưởng họ sẽ mua sản phẩm của mình qua mạng Internet. - Nghiên cứu một nhóm đối tượng tập trung : Trình bày kết quả nghiên cứu trên một nhóm nhỏ khách hàng có tiềm năng của thị trường mục tiêu. Kết quả nghiên cứu này cần có tác dụng giúp cho công ty nhận được phản hồi về quá trình bán sản phẩm có tiềm năng qua mội trường trên mạng. - Rủi ro kinh doanh đã được tính đến : Trình bày dự báo về tình hình của cả ngành và của riêng công ty trong vòng ba đến năm năm tới, cả kinh doanh qua mạng và kinh doanh không qua mạng. - Chiến lược tiếp thị : Chỉ ra phương pháp thu hút khách hàng trên mạng, các nhà nhập khẩu, các đại lý và các nhà bán buôn tham gia kinh doanh với công ty, và cách làm thế nào để duy trì được sự quan tâm của họ. - Nội dung : Xây dựng nội dung từng phần dự định đưa lên trang web. - Quảng cáo : Trình bày kế hoạch quảng cáo, chú ý đến các nhu cầu về nhãn hiệu và bao bì ở nước ngoài, các vấn đề về chuyển đổi ngôn ngữ, mối quan hệ khách hàng, các quảng cáo có tính nhạy cảm về văn hóa và các rào cản về ngữ nghĩa khác. - Quan hệ khách hàng : Đề ra kế hoạch cho chương trình cập nhật sản phẩm dịch vụ một cách thường xuyên và liên tục, trong đó có thể bao gồm các hình thức thực hiện như bản tin điện tử, viết bài cho các tạp chí kĩ thuật, thông cáo báo chí, tổ chức các cuộc gặp giữa khách hàng va chủ trì các nhóm hội thảo trên mạng. - Chiến lược bán hàng : Các phần chi tiết cần trình bày : + Định giá / Khả năng sinh lợi. Xây dựnh chiến lược định giá quốc tế để bán hàng, phân phối và mua hàng trên mạng.. + Xử lý đơn đặt hàng và thanh toán : Đơn đặt hàng được nhận vào như thế nào ? (bằng điện thoại, fax, thư từ, qua mạng). Quá trình thanh toán được thực hiện như thế nào ? (qua thư, qua mạng, giao dịch giữa các ngân hàng) + Phương pháp phân phối : Xác định phương thức và địa điểm giao hàng ở nước ngoài, phương thức xác nhận đơn đặt hàng và việc giao hàng đi. + Chiến thuật khuyếch trương bán hàng : Sản phẩm hoặc dịch vụ sẽ chỉ được khuyếch trương qua mạng hay kết hợp với các công cụ truyền thống (ví dụ như gửi thư trực tiếp, gửi thư điện tử, ấn phẩm, quảng cáo trên rađiô và TV). - Dịch vụ : Công ty có cung cấp dịch vụ khi được yêu cầu sau khi đã bán sản phẩm qua mạng hay không? - Quan hệ kinh doanh : Vạch ra một kế hoạch và xác định loại quan hệ cần xác lập (chẳng hạn như đại lý, người phân phối) để phát triển quan hệ kimh doanh quốc tế trong đó có các vấn đề như việc đào tạo đa văn hóa. - Khả năng tích hợp hệ thống : Hệ thống của công ty sẽ được tích hợp với hệ thống của ngân hàng, khách hàng, các nhà cung cấp và các nhà phân phối như thế nào ? - Kế hoạch sản xuất : Xác định khối lượng ban đầu và yêu cầu mở rộng sản xuất, các nguồn cung cấp nguyên liệu, nơi sản xuất. - Kế hoạch tài chính : Cần phải rất thực tiễn và thận trọng. - Ngân sách năm : Dự báo chi phí cho năm đàu tiên của kế hoạch. - Cân đối ngân sách : Chỉ ra tình hình tài sản và tiền mặt của công ty. - Nguồn vốn và sử dụng vốn : Chỉ ra nơi cấo vốn để bắt đầu và mở rộng hoạt động xuất khẩu. - Chỉ ra lợi nhuận và các khoản vay nợ sẽ được sử dụng như thế nào. Xây dựng chiến lược TMĐT đòi hỏi phải vạch ra kế hoạch cẩn thận và có sự toàn tâm toàn lực. TMĐT cần được coi là hoạt động mang tính dài hạn chứ không phải là một cơ hội để tranh thủ lợi nhuận ngắn hạn. Vạch ra chiến lược TMĐT sẽ khẳng định liệu sự có mặt trên Internet đã là mong muốn của công ty hay chưa và vào lúc nào làm điều đó sẽ giúp được công ty sử dụng hiệu quả của công cụ linh doanh đầy sức mạnh này. Một chiến lược TMĐT về cơ bản không khác với một kế hoạch kinh doanh và trước khi xây dựng nó công ty cần phải đảm bảo đã : - Hiểu được các đặc tính của thương trường (marketplace) trên mạng như tính cạnh tranh toàn cầu, các yêu cầu về luật pháp và kỹ thuật để bán hàng qua mạng và vai trò của thông tin trong TMĐT. - Có năng lực kỹ thuật về cung ứng để bán các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường trực tuyến toàn cầu. - Quá trình sản xuất và bán hàng đã sẵn sàng giúp cho công ty có thể xử lý sự tăng trưởng rất nhanh công việc kinh doanh. Công ty phải chắc chắn rằng quyết định tham gia vào TMĐT được toàn thể nhân viên ủng hộ, xác định rõ ràng các bước đi trong toàn bộ quá trình bán hàng bằng công cụ điện tử, lựa chọn đội ngũ nhân viên tham gia cụ thể, cung cấp hiểu biết về tiềm năng của TMĐT cho đội ngũ nhân viên này, đào tạo họ về một số lĩnh vực chuyên môn trước khi chiến lược TMĐT được vạch ra. Làm như vậy sẽ giúp cho công ty có được khái niệm rõ ràng hơn những công việc phải làm về TMĐT. II Thương Mại Điện Tử ở Việt Nam. 1. Thực trạng phát triển CNTT ở Việt Nam và tác động của nó đến TMĐT. Tin học được bắt đầu tiếp cận và hình thành ở nước ta vào giữa thập kỉ 60, đến nay đã hơn 35 năm . Có thể chia quá trình phát triển tin học ở nước ta ra làm 3 giai đoạn : - Từ 1965- 1982: giai đoạn khởi đầu của tin học cổ điển ở nước ta, sử dụng các máy tính lớn thế hệ 2 và 3 vào các ứng dụng xử lý thông tin tập trung phục vụ nghiên cứu khoa học, phân tích thống kê . - Từ 1982-1992 : giai đoạn tiếp cận với máy tính và các ngôn ngữ lập trình, các phần mềm công cụ và bước đầu phổ cập xử lý thông tin đơn giản trên các máy tính cá nhân trong xã hội . - Từ 1993 đến nay: bắt đầu xuất hiện thuật ngữ CNTT trên thế giới, đánh dấu bước chuyển về chất quan trọng trong công nghệ tổ chức và xử lý thông tin. Chính CNTT là nền tảng cho quá trình hội nhập, toàn cầu hoá. ở nước ta, CNTT phát triển chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Những tiến bộ công nghệ trong giai đoạn này phần nhiều chúng ta chưa bắt kịp . + 1993 : Khởi động phát triển Internet khu vực Châu á- Thái Bình Dương. + 1994 : Công nghệ GIS, các hệ thống CAD/CAM phát triển . + 1995 : Mô hình văn phòng không giấy tờ, công nghệ mạng thông minh. + 1999 : Công nghệ mạng di động . + 2000 và tiếp theo : Công nghệ ứng dụng lên mạng Internet / Intranet, công nghệ Internet thế hệ thứ 3. Trong thập niên 90 của thế kỷ XX cũng có những hoạt động giới thiệu về những tiến bộ công nghệ này ( chủ yếu trên báo PC word Việt Nam, điện tử và tin học, tin học và đời sống, chương trình “Sự lựa chọn cho tương lai “ của VTV3) nhưng trong thực tiễn chưa có ngững ứng đụng cụ thể nào được thực hiện ngang với trình độ khu vực. Nhiều tiến bộ công nghệ chỉ được sử dụng những phần đơn giản nhất. Ví dụ công nghệ Internet, ta chỉ sử dụng email là chính, máy tính dùng để chế bản văn bản là chính… Năm 1997, Việt Nam chính thức kết nối Internet. Sau 4 năm, lượng thuê bao gián tiếp đều tăng 100% mỗi năm, theo báo cáo của tổng cục bưu điện, tới tháng 6-2002, Việt Nam có khoảng 1 triệu người sử dụng Internet, và theo các hợp đồng đã kí thì có 2500 đại lý Internet. Theo số liệu thống kê của công ty điện toán và truyền số liệu (VDC), toàn quốc có 250000 thuê bao của 4 nhà cung cấp. Nhưng mức độ phổ cập Internet tính trên tổng dân số Việt Nam lại quá thấp, chỉ là 0,25%, trong khi đó khu vực được đánh giá là có mức phổ cập thấp nhất là Châu Phi cũng đạt 0,6%. Nhưng điều quan trọng là giá sử dụng Internet quá cao, chất lượng các dịnh vụ nghèo nàn, lạc hậu, ngày 23-8-2001, chính phủ Việt Nam đã ban hành nghị định số 55/2001-NĐ-CP về quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, thay thế cho nghị định số 21 CP ngày 5-3-1997. Ngày 2-5-2002, tổng cục bưu điện đã chính thức cấp phép cung cấp dịch vụ kết nốí Internet cho 2 nhà cung cấp mới là FPT và Vietel, chấm dứt sự tồn tại độc quyền của VDC trong vai trò IXP duy nhất suốt 5 năm qua. Hiện nay, 61 tỉnh thành phố trong cả nước có mạng Internet, tổng số thuê bao đạt 250 nghìn, tỉ lệ người sử dụng Internet chiếm 1,26% dân số với mức trung bình trên thế giới là 11%. Cả nước hiện có 21 báo, tạp chí, 2 nhà xuất bản điện tử với số lượng truy cập lên tới hàng chục triệu lượt mỗi ngày. TMĐT cũng đã được đề cập đến trong khoảng 3 năm trở lại đây trong một số bài báo, một số cuộc hội thảo chuyên đề với sự tham gia của một số công ty tin học quốc tế tầm cỡ nhu IBM, INTEL do phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam ( VCCI ) và bộ thương mại tổ chức, tuy nhiên chưa có biện pháp tuyên truyền rộng rãi cho nhiều người hiểu bản chất thực sự của TMĐT và nhất là vai trò của nó trong nền kinh tế hội nhập, toàn cầu hoá. Chính phủ Việt Nam chưa có một tuyên bố chính thức nào về TMĐT, nhưng trong thực tế, chính phủ đã có những bước đi chắc chắn và khoa học. Năm 1999, chính phủ đã dành 1 tỉ dồng cho việc thực hiện dự án quốc gia kĩ thuật TMĐT nhằm làm rõ các khía cạnh kĩ thuật của TMĐT trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. Ngày 24-11-2002, thủ tướng chính phủ đã kí hiệp định khung về e-ASEAN, khẳng định được tham gia phát triển không gian điện tử và TMĐT trong khuôn khổ các nước ASEAN. Trong đội ngũ cán bộ nhà nước đã nhận thức bước đầu về TMĐT, do nhà nước có trình quốc gia về CNTT từ năm 1996 và nhiều cơ quan đã xúc tiến chương trình CNTT tại cơ quan. Đối với khối doanh nghiệp, nhận thức về TMĐT cũng mới ở bước sơ khai. Theo số liệu công bố trong kĩ thuật TMĐT, hiện nay ở nước ta có khoảng hơn 6000 doanh nghiệp nhà nước và 38000 công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, số doanh nghiệp có ứng dụng CNTT, tham gia TMĐT chỉ chiếm tỉ lệ rất nhỏ. Tỷ lệ các doanh nghiệp ở nước ta có thể tham gia TMĐT rất thấp, có thể nói, đại đa số các doanh nghiệp chưa sẵn sàng trên thương trường điện tử. Đối với người tiêu dùng, có thể nói chưa có nhận thức về TMĐT.Tuy vậy, trong xã hội, nhiều tổ chức cá nhân đã tham gia một cách tự giác hoặc tự phát một số thể thức TMĐT. Theo số liệu tổng hợp từ 3 công ty: VASC và VDC ( thuộc nghành bưu điện ) và FPT: có 1241 doanh nghiệp trong cả nước, đủ mọi thành phần, đã thuê nhà đặt trang web của mình lên server của các ISP này nhằm mục đích giới thiệu thông tin tiếp thị lên Internet. Nhìn chung lưu lượng khách truy cập các thông tin này theo thống kê là không đáng kể vì số trang web của mỗi doanh nghiệp ít, khô cứng ( hầu như không cập nhật ) và hiệu quả mang lại không cao, đa số doanh nghiệp ( trên 90% ) không đánh giá cao về hiệu quả do tiếp thị từ xa trên Internet, hoặc do thương mại điện tử mang lại. Vì vậy, họ đầu tư vào xây dựng website hay trang web giới thiệu thông tin về mình chỉ như một sự thăm dò. Rất ít các doanh nghiệp tạo ra được hiệu quả kinh tế từ khi tham gia Internet. Cụ thể là chỉ có khoảng 35 website của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và du lịch ( trong đó phầu lớn là liên doanh hay có quan hệ trực tiếp với thị trường quốc tế ) là hoạt động có hiệu quả và mang tính chuyên nghiệp . Các hình thức đơn giản hơn , như quảng cáo trên các phương tiện điện tử ( đài phát thanh , truyền hình , trên mạng Internet , trên tổng đài 1080 của bưu điện trong cả nước ) được tiến hành khá phổ biến. Tổng đài 1080 đã đóng vai trò như một trung tâm hướng dẫn TMĐT ; qua tổng đài này, khách hàng có thể hỏi giá cả hàng hoá, nơi mua hàng, đặt mua hàng , đặt yêu cầu dịch vụ ( như gọi taxi, gọi thợ sửa chữa máy móc ). Tổng đài 1080 vừa thực hiện nhiệm vụ dẫn dắt khách hàng đi vào thương mại điện tử, vừa trực tiếp tham gia hoạt động TMĐT , đó là bán dịch vụ qua mạng điện thoại công cộng và thu tiền qua cước phí điện thoại . Thực tế cho thấy , thương mại nước ta hình thành một cách tự phát với quy trình khép kín gồm : Thông tin về nhà hàng và hàng hoá qua phương tiện điện tử ( điện thoại, tổng đài 1080, truyền hình …) , giao dịch giữa nhười mua và nhười bán (chủ yếu qua điện thoại ), giao nhận và thanh toán ( do nhân viên vận chuyển tới nơi khách hàng yêu cầu ) Tuy vậy đó mới chỉ là những hoạt động mang tính đơn lẻ , còn “ Nhìn chung, cả ba khối chủ thể (doanh nghiệp, người tiêu dùng , chính phủ). ở Vịêt Nam, nhận thức về thương mại điện tử rất thấp, nhất là khối chủ thể người tiêu dùng. Khối chủ thể dẫn đầu trong TMĐT là doanh nghiệp, nhận thức không đồng đều nhưng có tiềm năng để sớm tham gia vào TMĐT “. TMĐT có phát triển hay không, đi kèm theo nó chính là sự lớn mạnh của mạng Internet. Do vậy Internet cần phải được sử dụng rộng rãi, phát triển mạnh để tạo tiền đề cho sự xuất hiện của TMĐT. Chính thức kết nối vào mạng Internet toàn cầu từ ngày 19/11/1997, Việt Nam vẫn được xem là một trong những nước đạt mức tăng trưởng Internet tương đối khả quan. Đặc biệt, trong năm 2000 tốc độ tăng trưởng thuê bao Internet đã đạt tới mức 260 % so với năm 1999. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia trong ngành CNTT, một điều đáng mừng là giữa các nhà cung cấp dịch vụ Internet cũng đã bước đầu xuất hiện sự cạnh tranh một cách thật sự bằng cách đưa ra nhiều dịch vụ mới, khuyến khích người dân sử dụng Internet. Theo số liệu công bố tính cho tới cuối tháng 7-2001, trên cả nước đã có khoảng 150000 thuê bao Internet, trong đó VDC chiếm khoảng 60%, còn lại là các nhà cung cấp dịch vụ khác. Sau hơn 4 năm bắt đầu cung cấp dịch vụ Internet, Việt Nam đã có tổng cộng 1 nhà cung cấp kết nối Internet (IAP), 6 nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). Số liệu thống kê cho thấy, có tới khoảng 30% số người truy cập Internet ở Việt Nam là do công việc chuyên môn và truy cập do sở thích chỉ chiếm có 19%. Cơ cấu khách hàng chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn. Phần lớn, khách hàng sử dụng Internet chủ yếu là để nhận email. Trung bình mỗi tháng một thuê bao Internet trả chi phí khoảng 200000 đồng cho việc sử dụng Internet. Tốc độ phát triển Internet của Việt Nam tuy đã có những bước cải thiện nhưng số người sử dụng cũng chỉ mới đạt 1,16% dân số. Con số này còn quá thấp so với mức trung bình của các nước trong khu vực ASEAN là 1,27%. Lý giải về tốc độ phát triển Internet của Việt Nam chậm hơn so với mặt bằng trong khu vực có 3 lý do chính: Trước hết là do Internet còn khá mới mẻ đối với đại đa số người Việt Nam và các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh đó, một lý do không kém phần quan trọng là thu nhập của đa số người dân Việt Nam còn thấp. Cũng theo một số liệu thống kê khác, số người sử dụng Internet dưới 25 tuổi là 30%, từ 26-35 tuổi là 51%, từ 36-45 là 11% và cuối cùng độ tuổi trên 45 là 8%. Như vậy là độ tuổi sử dụng Internet nhiều nhất từ 26-35 là độ tuổi bắt đầu có việc làm và thu nhập ổn định. Bên cạnh đó, do còn mới mẻ nên hiệu quả sử dụng Internet còn qúa thấp và những người sử dụng không nhận thức được tầm quan trọng về lâu dài của việc sử dụng Internet. Lý do cuối cùng là sự hạn chế về tiếng Anh và trình độ vi tính. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là lý do phụ, lý do này chắc chắn sẽ được khắc phục khi người sử dụng nhận thức được tầm quan trọng và hiệu quả thu nhận được khi truy cập Internet. Có mặt 5 năm trên thị trường Việt Nam , Internet với nhà cung cấp dịch vụ kết nối đầu tiên là VDC đã chứng tỏ sức thu hút với số lượng người sử dụng truy cập ngày càng tăng cao , theo số liệu của trung tâm quản lí Internet (VNPT) số thuê bao quy đổi đến cuối tháng 10 - 2003 đã tới con số 634359. Hiện Việt Nam đã có 4 nhà cung cấp dịch vụ kết nối (IXP) và 17 nhà cung cấp dịch vụ ứng dụng (ISP) Internet Với tốc độ truyền dữ liệu cao , thông tin nhanh chóng ,Internet đem lại sự gần gũi cả về không gian và thời gian giữa con người với con người .TMĐT là một ứng dụng cực kì hữu ích của Internet và nó đang được triển khai ở nước ta góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh doanh quảng bá, mua bán, ký kết hợp đồng một cách giản tiện ,nhanh chóng ít chi phí , được các doanh nhân sản xuất , kinh doanh hàng hoá hết sức hoan nghênh . Chính phủ đã ban hành cả một pháp lệnh về TMĐT nhằm phát triển mạnh lĩnh vực ứng dụng này của Internet . Giờ đây các loại hình Internet thuê bao , trả trước ,di động và vnn đã trở nên quá quen thuộc với người sử dụng dịch vụ Internet .Từ đầu năm 2003 đến nay , công nghệ truy cập Internet tốc độ cao ISDN và ADSL đã được hầu hết các nhà cung cấp triển khai .Côn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33779.doc