NỘI DUNG
Lời mở đầu:
Trình bày lí do em lựa chọn đề tài này.Đồng thời nêu tên đề tài em đã chọn.
Nội dung:
Chương I : Tình huống:Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang nước này
I. Những quy định của luật Hải quan Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam
1.Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu
2.Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
3.Sự giám sát chặt chẽ chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ
4.Các quy định khác của hải quan Hoa Kỳ
4.1>Những quy định về các sản phẩm dệt
4.2>Quy định về thương hiệu nhãn hiệu và bản quyền
4.3> Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim,vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim,đan
II. Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này
Chương II : Phân tích tình huống
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu
1. Vai trò của xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
2. Các hình thức về xuất khẩu
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian qua dưới sức ép của luật hải quan nước này
1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may
1.1>Đặc điểm của ngành dệt may
1.2>Vai trò của ngành dệt may
2. Phân tích các tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
2.1>Hạn ngạch nhập khẩu
2.2>Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
2.3>Sự giám sát chặt chẽ chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ
2.4>Các quy định khác của hải quan Hoa Kỳ
2.4.1>Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
2.4.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
2.4.3>Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim,vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim,đan
3.Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian qua
3.1>Giới thiệu sơ bộ về thị trường Hoa Kỳ
3.2>Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ thời gian qua
3.2.1>Cơ cấu và tỉ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ
3.2.2>Thuận lợi
3.2.3>Khó khăn và thách thức đặt ra với hàng dệt may Việt Nam
3.2.3.1>Về nguyên vật liệu
3.2.3.2>Về vốn
3.2.3.3>Trình độ nhân lực
3.2.3.4>Môi trường cạnh tranh quốc tế
3.2.3.5>Hệ thống pháp luật
3.2.3.6>Về kỹ thuật và công nghệ
Chương III : Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu mặt hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ
I. Về phía nhà nước
1. Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước
2. Điều chỉnh chính sách thuế
3. Thành lập các tổ chức tư vấn về các lĩnh vực có liên quan đến xuất khẩu hàng dệt may
4. Chính sách hỗ trợ về vốn
5. Chính sách pháp luật
6. Một số chính sách khác
II. Về phía doanh nghiệp
1. Xây dựng thương hiệu mạnh
2. Marketing
3. Tìm kiếm và phát triển thị trường
4. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ
5. Thực hiện liên doanh với nước ngoài
6. Chính sách giá hợp lý
7. Giảm tính chất gia công trong sản xuất hàng dệt may
8.Một số chính sách khác
Kết Luận
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1794 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của luật Hải quan Hoa Kỳ đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
r - tiêu chuẩn thương mại “xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nói trên.
Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng bước cải tiến công nghệ hiện có và dần thay thế bằng những công nghệ tốt và công nghệ sạch.
Trong ngành dệt nhuộm, 12 doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn với khoản đầu tư 2 tỷ đồng đã tiết kiệm 12 tỷ đồng/năm thông qua việc giảm tiêu thụ tài nguyên và nhiên liệu hàng năm như điện 7.750 Mwh; dầu FO 7.327 tấn; nước 971.000m3, hoá chất và chất trợ 380 tấn và thuốc nhuộm giảm 45 tấn; lượng nước thải giảm 971.000m3.
Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá nhỏ so với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm lượng chất thải và chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng 20 – 50%, tiết kiệm nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm các chất độc hại tạo thành chất thải nguy hiểm 50 – 100%…
Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000-8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt-nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700-800 mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
Nếu như tình hình ô nhiễm môi trường, trước hết là “nhiễm nước thải không được kiểm soát, thì các doanh nghiệp dệt-nhuộm phải đương đầu với nhiều vấn đề nghiêm trọng, phải tốn rất nhiều kinh phí cho việc xử lý môi trường, mới đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định về môi trường, cũng như để phát triển sản xuất, xuất khẩu bền vững, đáp ứng các yêu cầu của tiêu chuẩn thân thiện về môi trường.
Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng.
Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao chất lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành dệt may nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm-hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3; các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước - xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng).
Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn tất của các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối thủ công -“truyền thống”. Do đó, năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề đến môi trường, gây rất tốn kém về tiền của khi phải xử lý nước thải.
Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như: Mỹ,đã đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất – chất phụ trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại...
Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt đầu đặc biệt quan tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sau hàng loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém. Đối với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi nhẹ, các doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu đặt ra.
2.3. Áp đặt thuế chống bán phá giá
Trong những ngày gần đây, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang đau đầu trước quyết định mới của phía Mỹ về việc sẽ theo dõi lượng hàng dệt may nhập khẩu từ VN và tiến hành điều tra nếu thấy có dấu hiệu bán phá giá.
Động thái này nhằm dỡ bỏ đề nghị ngừng đưa ra dự luật về Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với VN ra xem xét của hai Thượng Nghị sỹ Mỹ Elizabeth Dole và Lindsey Graham.Theo bình luận của Hiệp hội Dệt may thì “quy định này còn tệ hơn là áp dụng hạn ngạch”.
Nhưng theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết: Số liệu 6 tháng do phía Hoa Kỳ ghi nhận cho thấy, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không có đột biến về số lượng và giá bán. Đây là cơ sở để khẳng định: hàng dệt may không bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 3.488 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ, trong đó, theo số liệu của hải quan Mỹ, hàng dệt may Việt Nam nhập vào nước này đạt trị giá 1.973 triệu USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ. Đơn giá bình quân của sản phẩm (giá 1m2 quy đổi khi nhập khẩu vào Mỹ) của 6 tháng qua cũng chỉ đạt 3 USD/m2, cao gấp 2 lần so với mức 1,5 USD/m2 từ Trung Quốc và mức 1,8 USD/m2 từ các thị trường còn lại trên thế giới nhập khẩu vào Mỹ. Điều này phản ánh rằng, doanh nghiệp Việt Nam không giảm giá để bán phá giá.
Vừa qua, Bộ Công thương Việt Nam đã có quyết định không cho tạm nhập tái xuất hàng để hạn chế tiêu cực về chuyển tải bất hợp pháp. Điều này chứng tỏ với phía Mỹ rằng, Việt Nam quản lý chặt và đúng đắn, để họ có thể yên tâm. Bộ Công thương cũng cho biết sẽ cùng với VITAS tăng cường tiếp cận mạnh hơn nữa với các giới chức Mỹ, với Bộ Thương mại Mỹ, nhất là trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ dự kiến vào tháng 10 đây để tiếp tục vận động họ bỏ cơ chế giám sát, hoặc giảm số lượng nhóm giám sát… đối với hàng dệt may Việt Nam.
2.4. Các quy định khác của hải quan Mỹ
2.4.1. Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này:
- Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác".
- Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi đến FTC.
- Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất.
Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản phẩm,dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về.Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là những hiện tượng thường thấy,khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ.
2.4.2. Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến hàng mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký tại Hải quan theo quy định.
Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của một công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự đồng ý của người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính hay chi nhánh của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy nhiên nhãn hiệu này, phải được đăng ký với Hải quan.
"Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một nhãn hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công quỹ liên bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ quan từ thiện, hoặc bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan nào cần sử dụng. Tuy nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng nhất định đi theo người vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để bán.
Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có bản quyền và vi phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ bị huỷ.Tuy nhiên các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thích đáng cho cơ quan hải quan là hàng không phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ (US Custom Service) bảo vệ quyền phải tới văn phòng bản quyền (US copyright Offfice) và đăng ký với hải quan theo các quy định hiện hành.
Hiện nay,khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì những vấn đề liên quan đến thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền mới được các doanh nghiệp quan tâm đến một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên,sự chú ý này chỉ thường diễn ra ở các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu rộng.Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam những hiểu biết về thương hiệu,về bản quyền vẫn còn là một khái niệm khó hiểu và vẫn còn rất xa vời.Chính những nhận thức sai lệch,chủ quan đó mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn thường xuyên phải gánh chịu những thiệt thòi không đáng có.
Rất nhiều các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ dưới một cái tên rất Việt Nam.Nhưng khi các sản phẩm ấy được bày bán trên thị trường lại dưới một cái tên khác hoàn toàn.Như vậy trong trường hợp này phía Việt Nam sẽ đương nhiên phải chấp nhận cái danh là nhà gia công,chứ không còn là người sản xuất và cung ứng chính thức của mặt hàng này.
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn lấy lại thương hiệu đó thì trước hết phải được sự chấp nhận của phía doanh nghiệp Mỹ.Đương nhiên,sau đó phải kèm sẽ theo là một khoản tiền không nhỏ.Những cái mất không đáng mất ấy đôi khi cũng khiến nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhiều phen khốn đốn.
2.4.3. Quy chế nhập khẩu đối với vải dệt kim, vải đan,quần áo và phụ kiện dệt kim ,đan
* Bao gồm: các loại vải dệt kim, đan, vải dệt có các sợi đàn hồi, sợi cao su, v.v...và các loại vải đan móc. Việc nhập khẩu phải:
· Phù hợp quy chế hạn ngạch và visa nhập khẩu theo Hiệp định Đa sợi (Multi –Fibber Arangements) do Bộ Thương mại (DOC) quản lý.
· Xuất trình tờ khai hải quan về nước xuất xứ.
· Phù hợp các quy định về lập hoá đơn nhập khẩu.
· Phù hợp với quy định về nhãn mác theo Luật về phân biệt các sản phẩm sợi dệt (TFPIA) và Luật về nhãn hiệu sản phẩm len (WPLA).
· Phù hợp các tiêu chuẩn chống cháy của Uỷ ban An toàn tiêu dùng (CPSC) theo đạo luật về vải dễ cháy (FFA).
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hoá.
Số văn bản
Loại biện pháp sử dụng
Các cơ quan nhà nước điều hành
15 USC 1191-1204
Luật về hàng dệt may dễ cháy
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
15 USC 68-68J
WPLA- Luật về nhãn sản phẩm len
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
15 USC 70-77
TFPIA- Luật về hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
16 CFR
1610,1611,1615, 1616,1630-1632
Tiêu chuẩn hàng dệt may dễ cháy
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
16 CFR 423
Hướng dẫn giặt là hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 11.12, 16 CFR 300 et seq
Quy chế về nhãn mác hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 11.12b, 16 CFR 303 et seq
Quy chế về nhãn mác hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 12.130 et seq
Quy chế về thủ tục nhập khẩu hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
7 USC 1854
luật đàm phán về Hiệp định dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
* Bao gồm quần aó dệt kim, đan các loại cho người lớn và trẻ em, kể cả áo khoác, jacket, comple, quần, sơmi, váy, đồ thể thao, đồ bơi, tất, áo len, găng tay dệt kim, đan các loại, đồ lót, T-shitrt, v.v...Việc nhập khẩu phải:
· Phù hợp quy chế hạn ngạch và visa nhập khẩu theo Hiệp định Đa sợi (Multi – Fibber Arangements) do Bộ Thương mại (DOC) quản lý.
· Xuất trình cho Hải quan về tờ khai về nước xuất xứ.
· Phù hợp các quy định về lập hoá đơn nhập khẩu.
· Phù hợp với quy định về nhãn mark theo Luật về phân biệt các sản phẩm sợi dệt (TFPIA) và Quy tắc về nhãn hiệu (Care Labeling Rule).
· Phù hợp các tiêu chuẩn chống cháy của Uỷ ban An toàn tiêu dùng (CPSC) theo đạo luật về vải dễ cháy (FFA).
· Phù hợp với yêu cầu về giấy phép xuất khẩu (nếu nhập hàng may đo từ Hong Kong).
· Phù hợp với thủ tục nhập khẩu hàng đặc biệt (Special Access) hoặc Nhập khẩu có điều kiện (Regime Entry) đối với hàng may, tẩy, nhuộm hoặc hồ ép ở nước ngoài bằng các phụ kiện làm hoặc cắt ở tại Hoa Kỳ.
· Nhập khẩu hàng dệt may nói chung thuộc hàng nhạy cảm. Các chuyến hàng không phù hợp với các quy định ở trên sẽ bị tịch thu và phạt. Cần tuân theo quy định về xác định nước xuất xứ.
Những văn bản pháp luật điều tiết chế độ nhập khẩu hàng hoá
Số văn bản
Loại biện pháp sử dụng
Các cơ quan nhà nước điều hành
15 USC 1191-1204
Luật về hàng dệt may dễ cháy
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
15 USC 68-68J
WPLA- Luật về nhãn sản phẩm len
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
15 USC 70-77
TFPIA- Luật về hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
16 CFR
1610,1611,1615, 1616,1630-1632
Tiêu chuẩn hàng dệt may dễ cháy
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
16 CFR 423
Hướng dẫn giặt là hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 11.12, 16 CFR 300 et seq
Quy chế về nhãn mác hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 11.12b, 16 CFR 303 et seq
Quy chế về nhãn mác hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
19 CFR 12.130 et seq
Quy chế về thủ tục nhập khẩu hàng dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
7 USC 1854
luật đàm phán về Hiệp định dệt may
DOC, CPSC, FTC, USCS, US Treasury
3. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua
3.1. Giới thiệu sơ bộ về thị trường Mỹ
Hiện nay và trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế và có sức cạnh tranh lớn nhất thế giới. Đồng thời nước này cũng được coi là nước cung cấp vốn kỹ thuật, công nghệ và là thị trường quan trọng nhất để phát triển kinh tế của cả thế giới.
Năm 2002, Mỹ đầu tư ra nước ngoài gần 120 tỷ USD, xuất khẩu 1018, 6 tỷ USD và nhập khẩu từ thế giới 1507, 9 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Mỹ là máy móc thiết bị, ôtô, linh kiện, vật liệu công nghiệp, hàng tiêu dùng, nông sản. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu thô và các sản phẩm dầu tinh chế, máy móc, ôtô, hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp, thực phẩm và đồ uống.
Việt Nam và Mỹ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Tháng 2/1994, Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Song song với quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Mỹ cũng không ngừng phát triển. Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ có hiệu lực (12/2001), kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ được phát triển nhảy vọt.
Năm 2003, Việt Nam được trở thành bạn hàng lớn thứ 40 của Mỹ (tính theo kim ngạch 2 chiều). Nếu tính riêng xuất khẩu vào Mỹ thì Việt Nam đứng thứ 35. Các mặt hàng chính của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ năm 2003 gồm : dệt may (56, 2%), thuỷ hải sản (16, 3%), giày dép (7, 2%)…
Mỹ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mỹ là 1 trong 3 nước thành lập ra “Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ” (NAFTA). Mỹ cũng ký hiệp định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi thương mại đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Mỹ có quan hệ buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các bạn hàng chính của Mỹ là : Canada, Mêhicô, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Italia, Hà Lan, Singapore, Brazil, Việt Nam…
Mỹ là một thị trường với sức mua lớn và có nhiều tiềm năng. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải có những biện pháp cụ thể để tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ trong thời gian tới.
3.2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua
3.2.1. Cơ cấu và tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ
Mỹ luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Nếu gộp các loại hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ thì kim ngạch loại hàng này đạt 60 tỷ USD chiếm 4, 5% kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ. Mỗi năm dân Mỹ tiêu thụ khoảng 90 tỷ USD hàng may mặc các loại. Trong đó, gần 50% được đáp ứng từ các mặt hàng mang tính phổ thông đến các mặt hàng cao cấp.
Nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam ở các năm trước chưa cao. Năm 1995, giá trị hàng dệt may sang Mỹ chỉ đạt 16, 867 triệu USD chiếm tỷ trọng 8, 47%. Các năm tiếp theo : năm 1996 là 19, 74 triệu USD (6, 4%), năm 1997 đạt 20 triệu USD (5, 3%), năm 1998 đạt 26, 34 triệu USD (5, 07%), năm 1999 là 34, 5 triệu USD (5, 74%). Giá trị xuất khẩu tăng qua các năm nhưng tỷ trọng lại giảm và còn thấp. Mức xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ mới chỉ chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam (1999).
Theo Bộ thương mại và công nghiệp, đến nay hầu hết các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam đều chủ động ký kết, thực hiện đơn đặt hàng và khai thác tốt nguồn hạn ngạch. Ngay tháng 1/2006 hàng dệt may Việt Nam xuất sang Mỹ được đạt 152 triệu USD (tăng 65% so với cùng kỳ là 92 triệu USD).
Hiện nay,xuất khẩu sang Hoa Kỳ: 25 cat. đều nóng.25 chủng loại hàng (cat.) có hạn ngạch xuất sang thị trường Mỹ đều đã trở thành cat. “nóng”, kể cả các cat. thuộc nhóm II cũng có tỷ lệ thực hiện lên tới 60%-70%.
Tuy nhiên, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may VN lại tỏ ra lo lắng, bởi đây chỉ là “tăng trưởng nóng”, chủ yếu do cấp visa tự động nên các hợp đồng xuất khẩu dồn vào đầu năm và do Trung Quốc đang bị áp đặt hạn ngạch đặc biệt”.
Nếu chủ quan không chuẩn bị lực lượng thì đến năm 2008, Trung Quốc sẽ được dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản, chắc chắn doanh nghiệp dệt may VN sẽ “sốc” nữa.
Chính phủ Việt Nam và Mỹ vừa ký kết thoả thuận về hệ thống “Thông tin Visa điện tử (Elvis) cho các sản phẩm sợi và dệt may”. Theo thoả thuận này, Chính phủ Việt Nam sẽ cấp Visa qua hệ thống Elvis cho mỗi lô hàng dệt may được sản xuất trong nước mà không phụ thuộc vào giá trị lô hàng. Visa được cấp qua hệ thống Elvis là một thông điệp củaViệt Nam gửi bằng phương tiện điện tử cho Cục hải quan Mỹ, trong đó có chứa thông tin về lô hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ và
số hiệu Visa cho hàng hoá đó. Visa cấp qua hệ thống Elvis xác nhận xuất xứ và chỉ ra hạn chế cho từng loại được áp dụng.
Với hệ thống Elvis, hai bên sẽ quản lý tốt hơn việc thực hiện hạn ngạch dệt may Và kiểm soát các lô hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ, chống lại chuyển tải bất hợp pháp. Về phần mình, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ sẽ tiết kiệm được thời gian khi xin Visa theo phương thức thủ công tại các phòng quản lý xuất nhập khẩu.
Trong tương lai dệt may Việt Nam có thể trở thành mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Mỹ. Chất lượng sản phẩm hàng dệt may của Việt Nam trong vài năm qua được phát triển đến trình độ nhất định của thế giới với nhiều mẫu mã đã chiếm được vị trí và ưu thế trên một số thị trường khó tính.
3.2.2. Thuận lợi
Trước hết phải nhận thấy Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp. Hơn nữa người dân lao động Việt Nam lại cần cù chăm chỉ, khéo léo, ham học hỏi, rất thích hợp với công việc này. Bên cạnh đó thì hàng dệt may Việt Nam còn được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan nếu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về chất lượng và xuất xứ.
Về giá xuất khẩu, do chi phí đầu vào, chi phí sản xuất, chi phí lưu thông thấp nên giá mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối rẻ, tăng khả năng cạnh tranh cho mặt hàng này trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam còn có môi trường kinh doanh an toàn, hệ thống pháp lý thông thoáng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
3.2.3. Khó khăn và thách thức đặt ra với hàng dệt may Việt Nam
3.2.3.1. Về nguyên vật liệu
Đặc điểm của hàng dệt may Việt Nam trong vòng 10 năm qua là các công ty chủ yếu làm gia công cho công ty nước ngoài, phần lớn nguyên phụ liệu là do công ty nước ngoài đưa vào. Một phần do nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc có nhưng chất lượng thấp. Chính vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để tìm ra những nguyên liệu mới với giá thành rẻ và có chất lượng tốt.
Còn đối với các doanh nghiệp dệt may tự sản xuất và cung ứng sản phẩm của mình sang thị trường Hoa Kỳ thì nguồn nguyên liệu đầu vào lại chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật mà quốc gia này quy định.
3.2.3.2. Về vốn
Hiện nay các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn vốn đầu tư để nhập khẩu nguồn nguyên liệu cũng như các máy móc thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng và năng suất người lao động. Phần lớn, vốn đầu tư đều phải tự vay trung hạn với lượci suất cao. Phương thức này tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài vào khai thác thị trường lao động, nhằm cạnh tranh với chúng ta trong việc giảm chi phí sản xuất sản phẩm.
3.2.3.3. Về trình độ nhân lực
Phần lớn cán bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất một cách khoa học, đồng bộ và có chất lượng.Các công nhân Việt Nam tuy chăm chỉ nhưng lại chưa có cơ hội được tiếp xúc để nắm bắt,học hỏi cách thức hoạt động của các công nghệ mới,hiện đại trên thế giới.Do đó,chưa khai thác và phát huy được hết khả năng và năng suất lao động của các cán bộ,công nhân viên chức của doanh nghiệp.
3.2.3.4. Môi trường cạnh tr
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35994.doc