MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM VÀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI WTO 2
I. Tổng quan về ngành xuất khẩu gạo Việt Nam 2
1. Điều kiện lịch sử của quỏ trỡnh xuất khẩu gạo ở Việt Nam: 2
2. Tầm quan trọng của xuất khẩu gạo đối với nền kinh tế của Việt Nam: 5
2.1/ Tích luỹ vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 5
2.2/ Góp phần cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân 6
2.3/ Tranh thủ cơ hội cua thị trường 6
2.4/ Xuất khẩu gạo phù hợp với xu hướng chung trong khu vực 7
II. tổ chức thương mại WTO 7
1. Sự ra đời của tổ chức WTO: 7
2. Cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động của WTO: 8
2.1. Bộ máy tổ chức của WTO 8
2.2. Nguyên tắc hoạt động của WTO 8
3. Các hiệp định của WTO 10
3.1. Thương mại hàng hoá (GATT): 10
3.2. Hiệp định chung thương mại dịch vụ đối với - GATS 11
3.3. Hiệp định về quyền sở hữu trí tuệ 11
3.4. Hiệp định các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) 12
5. Các hiệp định liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp của WTO 14
5.1. Hiệp định nông nghiệp 14
5.2. Hiệp định TBT 16
5.3. Hiệp định SPS 17
CHƯƠNG 2:VIỆC GIA NHẬP WTO CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT NAM 18
I. Thực trạng của ngành xuất khẩu gạo của việt nam 18
1.1. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo. 18
2.2. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam. 22
2.3. Khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới . 25
2.3.1. Về chất lượng. 25
2.3.2. Về giá. 27
2.3.3.Phương thức thanh toán. 30
2.4. Hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo. 31
2.5. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua. 32
II. Cơ hội và thách thức việc gia nhâp WTO đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam 34
1. Cơ hội 34
2. Thách thức 40
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH GIA NHẬP WTO 44
I. Những cam kết của việt nam khi gia nhập Wto 44
1. Cam kết đa phương 44
2. Cam kết về thuế nhập khẩu 47
3. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ 48
II. Những biện pháp nâng cao hiệu quả xuất khẩu gạo của việt nam 50
1. Cấp độ vĩ mô 50
2. Cấp độ vi mô 57
KẾT LUẬN 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
67 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1748 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tác động của việc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đến hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bình quân của Việt Nam là 262,6 USD/tấn, còn của Thái Lan bán cùng kỳ là 295 USD/tấn. Như vậy giá gạo của Thái Lan luôn cao hơn giá gạo của Việt Nam 10 – 13%, nhưng không phải do Việt Nam tự động hạ giá mà buộc phải chấp nhận mức giá thấp, cách biệt khá xa so với mặt hàng gạo quốc tế vì chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của thị trường như: chất lượng sản phẩm còn thấp và không đồng đều, cơ sở hạ tầng phụcvụ xuất khẩu gạo vừa thiếu vừa kém, năng lực bốc xếp thấp, chi phí cao, thiếu ổn định trong việc cung ứng hàng. Bảng dưới đây cho thấy sự thua thiệt về gía gạo xuất khẩu của Việt Nam so với Thái Lan.
Bảng7: Giá gạo của Việt Nam và Thái Lan trên thị trường thế giới.
(Đơn vị: USD/tấn).
Năm
Giá FOB Thái Lan- loại 5% tấm
Giá FOB Việt Nam- loại 5% tấm
Chênh lệch
2000
190
174
-16
2001
181
198
+17
2002
200
197
- 3
2003
215.2
188,2
-27
2004
254
232
-22
2005
275
283
-18
2006
286
272
-14
(Nguồn: Ngoại thương 1 – 2007)
Từ thập kỷ 60 trở lại đây người ta thường dựa vào giá xuất khẩu gạo của Thái Lan (điều kiện giao hàng FOB – Băngkok) làm giá quốc tế mặt hàng gạo, giá này được xem là giá chuẩn mực, phản ánh được thực chất quan hệ cung – cầu và quy luật vận động của giá cả trên thị trường gạo thế giới..
Cho đến nay Việt Nam hầu như chỉ xuất khẩu gạo theo điều kiện FOB là chính, thêm vào đó xuất khẩu gạo của Việt Nam còn mang tính chất từng chuyến, từng đợt nên khó tìm được bạn hàng và thị trường ổn định. Phần lớn gạo xuất khẩu của Việt Nam phải xuất sang Singapore để tái xuất khẩu vì không tìm được thị trường trực tiếp. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá gạo Việt Nam thua thiệt rất nhiều. Mặt khác nước ta nằm trong khu vực Châu á, nơi có nhiều nước cũng xuất khẩu gạo nên thường bị cạnh tranh, chèn ép giá trên thị trường xuất khẩu. Việc thiếu hụt thông tin thị trường và kinh nghiệm kinh doanh đã làm cho giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước láng giềng.
Một trong những nguyên nhân chính của sự chênh lệch giữa giá gạo Thái Lan và giá gạoViệt Nam vẫn là yếu tố chất lượng. Giá gạo Việt Nam cũng tăng dần cùng xu hướng tăng của chất lượng gạo và quan hệ cung cầu với thị trường lúa gạo thế giới. Khoảng cách giữa giá gạo Việt Nam với giá gạo Thái Lan đã giảm dần: từ 40 - 55 USD/tấn những năm 1989 - 1994 xuống còn 20 - 25 USD/tấn những năm 1995 - 2000. Năm 1998 do đồng Batt Thái Lan mất giá, nên giá gạo Việt Nam đã tiếp cận giá gạo Thái Lan.
Sang năm 2000 tổng lượng xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn, tổng kim ngạch đạt 668 triệu USD, so với năm 1999 thì lượng giảm 1,17 triệu tấn và giá trị giảm 360 triệu USD. Với kết quả xuất khẩu như trên, tính toán cho thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2000 đạt 188 USD/tấn, thấp hơn mức giá bình quân năm 1999 là 3USD/tấn và năm 1998 tới trên 87 USD/tấn. Nguyên nhân là do lượng gạo giao dịch trên thị trường thế giới giảm liên tục từ 25 triệu tấn năm 1999, xuống còn 22,3 triệu tấn năm 2000. Sự sút giảm liên tục như vậy đã làm cho giá thị trường gạo thế giới giảm mạnh và cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn.
Cuối năm 2000 và đầu năm 2001 giá gạo thế giới liên tục giảm, bước sang 2002, chất lượng gạo được nâng cao, các loại gạo cao cấp, gạo tám thơm, gạo đồ của DNTN khi đưa mẫu chào hàng đã được các công ty nước ngoài đặt mua ngay với giá cao. Năm 2002, Việt Nam tuy xuất khẩu gạo với khối lượng thấp hơn 2001 nhưng lại thu về giá trị cao hơn và đến năm 2006 giá gạo Việt Nam tăng lên là 272USD/tấn vẫn thấp hơn giá gạo Thái Lan từ 15-20USD/tấn. Hiện na giá gạo thế giới không ngừng tăng lên do nhiều nguyên nhân nhưng gạo của Việt Nam lại không được xuất khẩu đó cũng là nguyên nhân dẫn đến giá gạo thế giới tăng.
Như vậy trong cạnh tranh xuất khẩu gạo thì vấn đề chất lượng và giá cả có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Hiện trạng của gạo xuất khẩu trên thị trường thế giới là không khả quan, giá gạo không ổn định và bị cạnh tranh khốc liệt thường ở mức thấp so với các nước khác đặc biệt là Thái Lan. Điều này lý giải tại sao kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa tương xứng với khối lượng xuất khẩu.
2.3.3.Phương thức thanh toán.
Trong những năm đầu của công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn và thử thách vì vậy chương trình xuất khẩu gạo của ta chủ yếu là đổi hàng và trả nợ, còn bán theo phương thức thanh toán L/C chỉ ở mức độ nhỏ, do đó khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới của Việt Nam thời gian này rất kém. Qua nhiều năm xuất khẩu gạo phương thức thanh toán có nhiều tiến bộ, phương thức L/C dần chiếm tỷ trọng cao hơn và đã trở thành phương thức thanh toán chủ yếu. Điều đó đã từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên trường quốc tế.
Hiện nay trong phạm vi quy định chung của Nhà nước, phương thức kinh doanh và thanh toán được vận dụng linh hoạt ở tầm Doanh nghiệp, đảm bảo nguyên tác thu hồi vốn và kinh doanh có hiệu quả. Hiệp Hội Xuất khẩu lương thực Việt Nam cảnh báo, các Doanh nghiệp tham gia vào thị trường gạo thế giới muốn làm ăn có lãi và tránh thua thiệt thì cần phải có phương thức kinh doanh và thanh toán linh hoạt, đa dạng. Phương thức thanh toán của hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay khá đa dạng và linh hoạt cụ thể là: bán trả chậm, đại lý, gửi bán, đổi hàng, tham gia đấu thầu bán lẻ cho các siêu thị, hợp tác liên doanh với người tiêu thụ. Kết quả đó đã có tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta.
2.4. Hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo.
Từ năm 1989 Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo với số lượng lớn, nhanh chóng chiếm được vị trí là một trong những nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới. Xuất khẩu gạo tăng nhanh cả về số lượng và kim ngạch, chất lượng gạo đã có những tiến bộ. Một trong những yếu tố dẫn đến kết quả trên là chúng ta đã có cơ chế đièu hành xuất khẩu gạo. Cơ chế này được hoàn thiện liên tục qua từng năm. Trong đó, Nhà nước thực hiện tổ chức thu mua gạo xuất khẩu thông qua các đầu mối xuất khẩu, và hạn ngạch xuất khẩu gạo, nhằm điều tiết lượng gạo xuất khẩu.
Nhà Nước phân bổ đầu mối cho các tỉnh vùng lúa, Nhà Nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu gạo nhằm thực hiện nguyên tắc ưu tiên hàng đầu cho mục tiêu an ninh lương thực quốc gia. Ngoài ra Chính Phủ còn phân bổ hạn ngạch cho các tỉnh vùng lúa, uỷ nhiệm cho lãnh đạo các tỉnh điều hành và quản lý nhằm đảm bảo cơ chế xuất
Hàng năm Chính phủ có quyết định riêng về điều hành xuất khẩu gạo và tiêu thụ lúa gạo. Nhà nước còn hỗ trợ tài chính mua lúa gạo tạm trữ, lượng mua tạm trữ năm 1999 là 1,5 triệu tấn quy ra thóc, năm 2000 là 1 triệu tấn quy gạo được hỗ trợ lãi vay Ngân hàng trong 6 tháng. Trong thời gian gần đây, cùng với quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới, chính sách khuyến khích xuất khẩu, mức thuế xuất khẩu của Việt Nam đã giảm dần và năm 1999 thuế xuất khẩu gạo được quy định: gạo 25% tấm thuế suất 0%, các loại khác thuế suất 1%.
Đến năm 2001 Nhà nước thực hiện bãi bỏ qui định về hạn ngạch xuất khẩu gạo, để bất cứ Doanh nghiệp nào có đăng ký kinh doanh trong ngành lương thực cũng có thể xuất khẩu gạo trực tiếp. Bên cạnh đó Chính phủ còn chủ trương quy hoạch gắn các công ty kinh doanh lương thực xuất khẩu vơí từng vùng lúa gạo để công ty phối hợp với địa phương có nhiệm vụ bao tiêu sản phẩm, thu mua lúa cho nông dân, trực tiếp hỗ trợ cho nông dân các yếu tố đầu vào của sản xuất, đảm bảo lợi ích của người nông dân và ổn định thị trường các doanh nghiệp chế biến kinh doanh gạo đạt tiêu chuẩn xuất khẩu.
Ngoài ra còn có một số trung tâm giao dịch ở những vùng lúa tập trung được xây dựng để người sản xuất có thể giao dịch trực tiếp với các doanh nghiệp thu mua lương thực theo phương thức và giá sàn qui định của Nhà nước.
Mục đích hệ thống tổ chức xuất khẩu gạo này là nhằm làm cho gạo Việt Nam có sức cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
2.5. Đánh giá về hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam thời gian qua.
2.5.1. Những thành tựu đạt được.
Tổng cộng 18 năm (1989 – 2006) sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được bốn thành tựu nổi bật sau:
Thứ nhất: Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước, kinh tế nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng với nhịp độ cao và khá ổn định (tăng bình quân 4,5% một năm). Đặc biệt sản xuất lương thực tăng bình quân khoảng 1 triệu tấn/năm, từ một đất nước thiếu lương thực, trở thành một nước không chỉ bảo đảm đầy đủ các nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn có khối lượng ngày một tăng, là nước đứng thứ 2 (sau Thái Lan) về xuất khẩu gạo.
Thứ hai: Góp phần quan trọng đưa đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội, tạo tiền đề bước vào giai đoạn phát triển mới CNH- HĐH. Từ năm 1989 đến nay, xuất khẩu gạo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Theo đánh giá tổng quát của các cơ quan chức năng mặc dù trong cùng thời gian qua tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức khá cao với bình quân từ 1,8 - 2%/năm, đồng thời những năm gần đây những thiệt hại do thiên tai bão lụt gây ra nặng nề trên diện rộng song chúng ta vẫn có lượng gạo dư thừa cho xuất khẩu hằng năm. Những kết quả xuất khẩu cho thấy đã tiêu thụ hết lúa hằng năm của nông dân khiến nông dân phấn khởi đẩy mạnh việc sản xuất lương thực.
Thứ ba: Sau18 năm xuất khẩu gạo (1989 - 2006), lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức trên 35 triệu tấn. Thu nhập từ xuất khẩu gạo đã trên 11,918 tỷ USD dù giá gạo thị trường thế giới không ổn định. Xuất khẩu gạo có vai trò quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp nông thôn, những năm qua xuất khẩu gạo góp phần khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nông dân ở thời vụ thu hoạch, ngăn chặn sự ép giá của tư thương nhằm giữ giá cho nông dân có lợi nhuận 25 - 40%. Do vậy chính xuất khẩu gạo đang góp phần tích cực trong việc thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy nông dân canh tác hơn nữa.
Thứ tư: Xuất khẩu gạo góp phần tạo thêm việc làm ở khu vực nông thôn, sản xuất và dịch vụ xuất khẩu gạo mở rộng nhanh chóng đang thu hút nhiều lao động nông thôn vào các khâu xay xát, chế biến, kho tàng vận chuyển Xuất khẩu gạo khai thác được lợi thế về phân công lao động, tranh thủ được cơ hội trên thị trường gạo thế giới, có lợi cho người sản xuất và xuất khẩu gạo. Do vậy xuất khẩu gạo mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho tích luỹ và tiêu dùng, cải thiện đời sống và xoá đói giảm nghèo. Cuộc sống của người nông dân ngày càng được nâng cao và ổn định.
II. Cơ hội và thách thức việc gia nhâp WTO đối với xuất khẩu gạo của Việt Nam
1. Cơ hội
Thứ nhấ: thị trường xuất khẩu sẽ được mở rộng và ổn định. WTO điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương mang tính chất tương đối tự do, công bằng tuân thủ những luật lệ rõ ràng. Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều lợi ích, đặc biệt là trong lĩnh vực nông nghiệp. Là một nước nông nghiệp xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu gạo hơn vì các hạn chế về số lượng đối với gạo sẽ được chuyển thành thuế và thuế phải cắt giảm theo Hiệp định nông nghiệp của WTO. Hiệp định yêu cầu loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan đang tồn tại (giấy phép nhập khẩu, hạn chế định lượng...) bằng việc thuế hoá các hàng rào này với mức thuế không cao hơn so với mức bảo hộ tương đương trong thời gian cơ sở (1986-1988), đồng thời không đưa ra các hàng rào phi thuế quan mới. Quy định tất cả các dòng thuế với nông sản phải được rõ ràng vào cuối giai đoạn thực hiện (năm 2000), yêu cầu tất cả các loại thuế phải được cắt giảm, cam kết tiếp cận thị trường tối thiểu nhằm mở cửa các thị trường vẫn được bảo hộ cao. Gạo Việt Nam nói riêng thâm nhập thị trường thế giới còn gặp nhiều khó khăn. Một phần do khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam còn thấp, phần khác là do các nước nhập khẩu gạo còn bảo hộ cho sản xuất trong nước rất cao nên mức thuế nhập khẩu đầu vào của gạo Việt Nam cao và nhiều rào cản phi thuế quan khác. Khi gia nhập WTO, Hiệp định nông nghiệp xác định rõ những loại trợ cấp và hỗ trợ trong nước đối với sản xuất nông nghiệp bị cấm sử dụng. Khi các nước giảm trợ cấp cho gạo xuất khẩu của họ, giá gạo thế giới sẽ tăng lên và do đó gạo xuất khẩu của Việt Nam sẽ được lợi từ quy định mới này. Một tác động nữa là nhiều nước nhập khẩu lương thực trước kia có thể nhập khẩu lương thực với giá rẻ do sự “trợ cấp xuất khẩu” từ các nước phát triển thì nay sẽ mất nguồn nhập khẩu giá rẻ do giá lương thực có thể tăng lên vì không còn được trợ cấp xuất khẩu nữa. Các nước này có thể chuyển sang mua gạo Việt Nam nhờ đó chúng ta có thể mở rộng thị trường. Hơn thế nữa, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi của 148 nước thành viên WTO, gạo Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường các nước này không chỉ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) như gạo của các nước khác mà còn được đối xử như gạo của nước sở tại (nguyên tắc đối xử quốc gia NT) với những mức thuế nhập khẩu ưu đãi hơn. Đặc biệt là nếu vòng đàm phán mới thành công theo tinh thần của tuyên bố Doha thì tác động của việc mở cửa thị trường gạo sẽ lớn hơn. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu gạo, mở rộng hạn ngạch thuế quan, giảm dần thuế luỹ tiến đối với gạo và xoá bỏ các rào cản phi thúê quan khác sẽ tạo điều kiện cho gạo của Việt Nam thâm nhập được vào thị trường các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc.... Thị trường tiêu thụ được mở rộng không những trong khu vực mà cả trên thế giới. Xuất khẩu gạo của Việt Nam sẽ có hiệu quả cao hơn nhờ nâng cao khả năng cạnh tranh do có lợi thế cạnh tranh mà WTO mang lại.
Thứ hai: Việt Nam đã tích cực chủ động hội nhập quốc tế trong những năm gần đây, một cách mạnh mẽ như gia nhập vào ASEAN và AFTA năm 1995, ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ năm 2000... là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho việc gia nhập vào WTO trong thời gian tới. Gia nhập vào AFTA, Việt Nam đã đưa trên 75% số dòng thuế vào chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Hiệp định thuế quan này quy định loại bỏ tất cả các hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong thời gian ngắn, đồng loạt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá xuống còn 0-5% trong 10 năm, bắt đầu từ năm 1993 và kết thúc năm 2003 (Việt Nam kết thúc năm 2006 do tham gia muộn hơn 3 năm), riêng các mặt hàng nhạy cảm trong đó có gạo, quá trình này chỉ bắt đầu từ năm 2001 và kết thúc vào năm 2010 (Việt Nam là từ 2004-2013)... điều này tạo điều kiện cho gạo Việt Nam với chi phí thấp cạnh tranh có hiệu quả với gạo các nước trong khu vực tại thị trường của chính các nước đó.
Đối với xuất khẩu gạo Việt Nam, có một sự kiện đáng quan tâm là vào quý II năm 1994, gạo xuất khẩu của Việt Nam đã xâm nhập vào thị trường Mỹ, một thị trường mà hàng năm luôn giữ vị trí là một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, một thị trường khó tính với hệ thống pháp luật kinh tế thương mại đòi hỏi rất nghiêm ngặt. Vì vậy, Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được thông qua thì cơ hội thâm nhập vào thị trường này càng lớn. Theo cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến năm 2005, mức thuế trung bình của nông sản nói chung từ Mỹ nhập khẩu vào Việt Nam giảm từ 35,5% xuống 25,7%. Ngoài ra Việt Nam còn cam kết loại bỏ dần các hàng rào phi thuế, mở rộng quyền kinh doanh, quyền phân phối cho thương nhân Mỹ trong vòng từ 3-5 năm khi kinh doanh có hiệu lực, thực hiện các biện pháp vệ sinh dịch tễ theo đúng quy định của WTO, tham gia các công ước quốc tế về bảo vệ giống cây trồng. Việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá tiếp cận thị trường dễ dàng hơn, do đó thúc đẩy thương mại hai chiều trong ngành nông nghiệp nói chung và gạo xuất khẩu nói riêng. Khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với những điều kiện ưu đãi về đầu tư vào ngành nông nghiệp sẽ làm tăng đầu tư của Mỹ vào các nước khác vào các ngành hàng nông sản của Việt Nam để xuất khẩu sang Mỹ. Hệ quả của 2 điều trên là Hiệp định thương mại sẽ tạo điều kiện cho ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh của nông sản nói chung và gạo Việt Nam nói riêng, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham ra sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
Thứ ba, tiếp nhận chuyển giao, phát triển khoa học công nghệ. Các quan hệ kinh tế quốc tế không chỉ bao hàm quan hệ thương mại hàng hoá và đầu tư, mà còn bao hàm các hoạt động hợp tác khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực công nghệ của các bên hữu quan. Ngay trong quan hệ trao đổi hàng hoá và đầu tư cũng chứa đựng sự chuyển giao và phát triển khoa học và công nghệ. Hiện nay các nhà máy chế biến gạo xuất khẩu gạo Việt Nam có công nghệ và thiết bị kém, công nghiệp chế biến gạo của Việt Nam chậm phát triển, chủ yếu thủ công, xay xát và chế biến tại các cơ sở nhỏ không được trang bị đồng bộ về phơi, sấy, kho chứa. Về hạ tầng phục vụ sản xuất, lưu thông xuất khẩu gạo (chợ, kho chứa, bến bãi…) còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, hoạt động hợp tác KHKT, công nghệ và xây dựng năng lực là nội dung bao trùm tất cả các lĩnh vực của WTO dưới nhiều hình thức khác nhau. Các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam hi vọng sẽ nhận đựơc nhiều hơn vào các chương trình hợp tác về KHCN cũng như tăng thêm các nguồn hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực khi gia nhập WTO. Gia nhập WTO, gạo Việt Nam sẽ có cơ hội tiếp cận với nhiều nguồn công nghệ mới, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng gạo và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ tư: thu hút đầu tư vào phát triển ngành sản xuất và chế biến gạo. Với trình độ phát triển hiện tại, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế nói chung, đặc biệt là từ nông nghiệp và nông thôn còn hết sức nhỏ bé, không có khả năng đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong những năm qua, mặc dù Nhà nước đã ưu tiên tăng dần đầu tư cho gạo trong đó có cả đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên so với các nứơc trong khu vực gồm cả các đối thủ cạnh tranh thì đầu tư của Việt Nam rất thấp: phẩm cấp gạo xuất khẩu vẫn còn thấp, gạo có phẩm cấp cao vẫn còn hạn chế, khả năng tăng sản lượng do mở rộng diện tích của Việt Nam rất hạn chế, giống lúa có năng suất cao, chống được sâu bệnh nhưng chất lượng gạo lại có tỷ lệ gãy, bạc bụng cao, khó đảm bảo tiêu chuẩn gạo cao cấp. Vì vậy, gia nhập vào WTO, là điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam cả về vốn đầu tư, thiết bị công nghệ, thị trường tiêu thụ, và cơ sở hạ tầng. Điều này được lý giải bởi những điểm chủ yếu sau đây:
1/ Việt Nam là nước có tiềm năng và lợi thế phát triển nền nông nghiệp có giá trị kinh tế cao.
2/ nhiều hàng nông sản Việt Nam trong đó có gạo đã khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế.
3/ nông nghiệp và nông thôn là khu vực được Nhà nước Việt Nam khuyến khích đầu tư, do vậy, nhận được sự ưu đãi đầu tư cao.
4/ hội nhập quốc tế thúc đẩy việc cải thiện môi trường đầu tư, tạo nên sự yên tâm cho các nhà đầu tư. Có thể hi vọng rằng, với chính sách chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong tương lai nông nghiệp và nông thôn nói chung, gạo Việt Nam nói riêng sẽ trở thành địa bàn và lĩnh vực hấp dẫn mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài so với hiện nay.
Thứ năm: nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN . Gia nhập WTO, Việt Nam không những được hưởng quyền lợi mà các nước thành viên dành cho nhau ngược lại Việt Nam cũng phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ dành ưu đãi cho các thành viên khác. Có nghĩa là, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường cho gạo của các đối thủ cạnh tranh nhiều hơn, chính sách minh bạch và bình đẳng hơn, các chính sách trợ cấp hoặc hỗ trợ cho gạo không phù hợp WTO cũng dần phải loại bỏ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các DNNN không còn ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước được nữa. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải chấp nhận cạnh tranh. áp lực này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tự vươn lên nâng cao cạnh tranh của của doanh nghiệp. Hơn nữa, theo đánh giá của IFPRI (Viện quốc tế nghiên cứu chính sách lương thực), trong mô hình cân bằng không gian nông nghiệp Việt Nam (VASEM) còn lạc quan hơn khi cho rằng nếu bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo cho phù hợp với quy định của WTO thì hiệu quả ròng của nền kinh tế Việt Nam sẽ tăng khoảng 800 triệu USD/năm về thu nhập quốc dân và với mức thuế xuất khẩu 10% sẽ mang lại thêm cho Chính phủ ít nhất 100 triệu USD.
Thứ sáu: gia nhập WTO, cạnh tranh phát triển sẽ giúp các doanh nghiệp và người tiêu dùng được lợi nhiều hơn. Vì cạnh tranh phát triển và thuế nhập khẩu giảm giúp chi phí nguyên liệu máy móc nhập khẩu giảm, giá gạo giảm do Việt Nam sản xuất mang tính cạnh tranh về giá hơn, trong khi đó, chất lượng gạo, tiêu chuẩn an toàn thực phẩm tăng lên do đòi hỏi cao của các nước trong hệ thống mậu dịch quốc tế, đồng thời tạo điều kiện kỹ thuật cho nông dân nâng cao năng suất lao động.
Thứ bảy: gia nhập WTO, buộc các ngành quản lý các cấp phải thay đổi cách nghĩ, tăng cường hiểu biết và quan niệm về thị trường, tôn trọng pháp luật pháp quy, nhanh chóng xoá bỏ triệt để tàn dư ảnh hưởng của nền kinh tế kế hoạch. Buộc phải cải cách thể chế ngoại thương cùng với việc giảm thuế, sự đòi hỏi minh bạch của cải cách đó không những có lợi cho sự phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho gạo Việt Nam xâm nhập thị trường thế giới, mặt khác còn tạo cơ sở chống tham nhũng, chống đặc quyền, đặc lợi trong lĩnh vực kinh tế như ký duyệt hạng mục, hạn ngạch xuất khẩu gạo... Thúc đẩy cải cách chính sách thị trường trong nước như tự do hơn trong lưu thông gạo..
Thứ tám: gia nhập WTO sẽ nâng cao vị trí quốc tế của Việt Nam, tạo thế đứng vững chắc hơn cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Việt Nam sẽ có cơ hội tham gia vào các cuộc đàm phán đa phương, giải quyết các nhu cầu thị trường vì các quyền lợi chính đáng của mình, tham gia vào diễn đàn thế giới về gạo để trao đổi kinh nghiệm, đưa ra những thông tin mới nhất về thị trường, mậu dịch gạo, giá cả cũng như tạo cơ hội cho các nhà sản xuất Việt Nam gặp gỡ với nhà nhập khẩu (hiện nay Việt Nam và các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới là Thái Lan, Trung Quốc, ấn Độ, Pakixtan đã lập ra Uỷ ban hợp tác mậu dịch gạo). Như vậy,Việt Nam sẽ có tiếng nói bình đẳng hơn với các thành viên khác, có quyền đưa ra các quy tắc về nông nghiệp, bày tỏ lập trường của mình trong các quy tắc nông nghiệp quốc tế, tránh đối kháng với Mỹ và các nước khác, bảo vệ sản xuất nông nghiệp và thị trường gạo, tạo điều kiện phi chính trị hóa mậu dịch trong đó có mậu dịch gạo.
Thứ chín: Việt Nam được xếp vào các nước kém phát triển có thu nhập bình quân đầu người dưới 1000 USD/năm nên khi là thành viên của WTO, sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sẽ được hưởng nhiều ưu đãi nhập khẩu, khi thâm nhâp vào thị trường của nước phát triển. Ngoài ra Việt Nam còn được phép duy trì các loại trợ cấp xuất khẩu bị cấm đối với đa số các nước thành viên WTO khác, và theo Hiệp định nông nghiệp, Việt Nam cũng sẽ không phải đưa ra các cam kết giảm trợ cấp xuất khẩu gạo (trong khi đối với các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm 36% nguồn ngân sách trong vòng 6 năm, các nước đang phát triển nói chung phải cắt giảm 24% trong vòng 10 năm). Việt Nam cũng không bị yêu cầu cắt giảm hỗ trợ trong nước đối với nông dân (trong khi các nước nông nghiệp phải cắt giảm 20% trong 6 năm, các nước đang phát triển khác là 13,3% trong vòng 10 năm)
2. Thách thức
Thứ nhất: mặc dù Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển nghèo, được miễn trừ cắt giảm trợ giá xuất khẩu cũng như giảm mức hỗ trợ cho nông dân trong nước, nhưng đổi lại Việt Nam sẽ phải cam kết nhượng bộ cho các đối tác nước ngoài ví dụ như giảm thuế nhập khẩu, tăng hạn ngạch nhập khẩu, cho phép các DNTN và nước ngoài vào thị trường trong nước. Điều đó có nghĩa là trên thị trường trong nước các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải tham gia cạnh tranh thực sự với các doanh nghiệp nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu gạo. Mà như chúng ta đã biết gạo Việt Nam hiện nay mặc dù ngày càng được cải thiện về chất lượng nhưng so với gạo Thái Lan Mỹ, Pakistan vẫn thua kém cả về chất lượng lẫn sự đa dạng về chủng loại
Hơn thế nữa, việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn thu của ngân sách nhà nước. Bởi vì sau khi giảm thuế nhập khẩu, ngân sách nhà nước mất một nguồn thu nhập từ thuế nhập khẩu. Đây là tác động trực tiếp của thuế quan mà giảm thu ngân sách nhà nước. Không những thế, tác động của việc cắt giảm thuế quan nhập khẩu còn làm giảm đáng kể sự tăng trưởng của một số ngành, cụ thể: đối với nông nghiệp nói chung và gạo nói riêng tác động của cắt giảm thuế nhập khẩu làm giảm sự tăng trưởng của ngành này là 3,3%.
Bảng 3.1. Tác động của thực hiện các cam kết hội nhập đối với một số ngành sản xuất (mức thay đổi %)
Đơn vị: %
Tên ngành
AFTA
APEC
WTO
Nông nghiệp
0,2
-2,6
-3,3
Thực phẩm
-10,2
-18,6
-23,2
Khai khoáng
0,1
-0,1
-0,3
Dệt
-2,7
3,6
6,4
May
-1,4
20
28,0
Các ngành công nghiệp nhẹ khác
-2,6
-6,5
-7,4
( Nguồn bỏo thụng tin kinh tế năm 2007)
Thứ hai: năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp chế biến và kinh doanh gạo còn thấp. Đa số nhà máy chế biến quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu hơn nhiều so với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy áp lực của việc mở cửa thị trường sẽ là thách thức to lớn đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam. Bên cạnh đó, ngay sau khi gia nhập WTO hàng rào bảo hộ sẽ phải loại bỏ dần, mức độ trợ cấp sẽ phải giảm bớt trong vòng từ 1 đến
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35909.doc