Đề án Tại sao nước ta phải chủ động tham gia vào quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế, các giải pháp cơ bản để nước ta tham gia vào xu hướng trên

MỤC LỤC

A, mở đầu . 2

B, nội dung . 3

 I. Lịch sử và đặc trưng của toàn cầu hoá và quốc tế hoá . 3

 1. Lịch sử phát triển . 3

 2. Đặc trưng . 7

 3. Những quan niệm về toàn cầu hoá , quốc tế

 hóa . 12

 II. Việt Nam với quốc tế hóa toàn cầu hoá và

 hội nhập kinh tế . 14

1. Tại sao nước ta phải tham gia vào toàn cầu hoá ,

quốc tế hoá . 14

2. Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi

tham gia toàn cầu hoá , quốc tế hóa . . 17

 a, Thuận lợi . 17

 b, Khó khăn . 18

 c, Toàn cầu hoá , quốc tế hoá và hội nhập

 kinh tế của nứơc ta trong thời kì đổi mới 20

 d, Một số kết qủa đạt được . 23

III . Giải pháp . 24

C . Kết luận . 30

Tài liệu tham khảo . 31

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1687 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tại sao nước ta phải chủ động tham gia vào quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế, các giải pháp cơ bản để nước ta tham gia vào xu hướng trên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới đặc điểm mới của kinh tế thế giới . Những tiến bộ về khoa học – công nghệ , về tổ chức sản xuất và quản lí đã tạo ra năng xuất lao động cao hơn , hiệu quả kinh tế lớn hơn làm cho lợi nhuận của CNTB đạt mức tối đa chưa từng có - Đi liền với toàn cầu hoá xu thế khu vực hoá cũng sớm hình thành phù hợp với trình độ sản xuất và các quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trong khu vực đáp ứng nhu cầu “ co cụm tập hợp lực lượng “ của từng khu vực để thích ứng với cạnh tranh toàn cầu . Vì vậy , hội nhập quốc tế đã diễn ra với nhiều cấp độ khác nhau : Song phương , tam giác , tứ giác , tiểu khu vực , khu vực , liên khu vực , liên châu lục , liên minh kinh tế , diễn đàn hợp tác kinh tế , bằng cơ chế ngày càng thông thoáng theo hướng tụ do hoá .Cho đến ngày nay đã hình thành 3 tổ chức kinh tế toàn cầu : Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF gồm 182 nước thành viên ) , Tổ chức thương mại quốc tế ( WTO gồm 136 nước thành viên ) , và hàng trăm tổ chức kinh tế khu vực : liên lục địa (ASEM , Đại tây dương …), khu vực ( EU , APEC, ấn độ dương ) tiểu khu vực ( ĐNA , Nam á , Tây á , Nam mỹ …) liên quốc gia . Có thể nói hiện nay trên thế giới hội nhập kinh tế và toàn cầu hoá đang diễn ra ngày càng nhanh và nhiều hình thức đa dạng , bên cạnh các công ty quốc gia đã hình thành khoảng 50.000 công ty đa quốc gia chiếm 25% tổng giá trị sản xuất thế giới 64% kim ngạch mậu dịch quốc tế , 70% tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài , 90% công nghệ cao và hơn 70% hoạt động chuyển giao công nghệ . Gần đây xuất hiện khuynh hướng sát nhập , hình thành những công ty đa quốc gia cực lớn . Sự ra đời của công ty đa quốc gia không phải đơn giản chỉ do giới tài phiệt quốc tế tự ý đặt ra . Nhìn về bề sâu , đó là sản phẩm của quá trình quy tụ , tập trung và liên hợp và sản xuất trên phạm vi thế giới dựa trên những thành tựu kinh tế kỹ thuật hiện đại và có tổ chức quản lý tiên tiến do loài người sáng tạo lên ; các thế lực tư bản kếch sù đã kịp thời lắm lấy và cố nhào nặn sản phẩm ấy , nhằm thiết lập địa vi độc quyền , vai trò khống chế thương trường quốc tế , thâu tóm các lợi thế của toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế , giành lợi nhuận tối đa . Như vậy công ty đa quốc gia không chỉ là công cụ bóc lột , tạo lợi nhuận bằng những hình thức mới rất hữu hiệu , mà còn phản ánh trình độ quốc tế hoá cao của lực lượng sản xuất , tính toàn cầu của các hoạt động đầu tư thương mại Những nhân tố nói trên phát sinh từ toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đã tạo lên quan hệ “ tuỳ thuộc lẫn nhau “ giữa các nền kinh tế mà không có thể một ai cưỡng lại . Quan hệ “ tuỳ thuộc lẫn nhau “ cho phép phát huy các thế mạnh và bổ khuyết các thế yếu của nền kinh tế quốc gia , đồng thời có phần củng cố tính độc lập tự chủ của nền kinh tế quốc gia trong cạnh tranh toàn cầu . Tuy nhiên đối với các nước chậm phát triển , cần đề phòng một nguy cơ ngược lại nếu để diễn ra trên thực tế không phải sự “ tuỳ thuộc lẫn nhau “ mà là sự “ tuỳ thuộc một chiều “ của nền kinh tế quốc gia và nền kinh tế nước khác Thời đại chúng ta đang sống không còn là thời đại tư bản chủ nghĩa trước đây mà thời đại qúa độ từ CNTB nên CNXH trên phạm vi thế giới . Trên thực tế ngày nay lực lượng tham gia thúc đẩy toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế không chỉ có các nứơc tư bản phát triển mà bao gồm ba loại nước với hàng trăm dân tộc và nhà nước khác nhau a, các nước tư bản phát triển b, các dân tộc chủ nghĩa vừa thoát khỏi ách đô hộ thực dân c, các nước phát triển theo định hướng XHCN Với phương thức sản xuất của riêng từng nước mang tính đặc thù quốc gia , các nước , các dân tộc lợi dụng toàn cầu hoá và tham gia hội nhập quốc tế đều đeo đuổi những mục tiêu , những ý đồ khác nhau , thậm chí đối lập nhau . Y’ thế sức mạnh kinh tế và khoa học kĩ thuật , với bản chất vốn có của giai cấp tư sản , các nước lớn , nhất là các nước tư bản phát triển cao nhất đang khống chế các tổ chức kinh tế toàn cầu ( IMF , WB , WTO ) , áp đặt những quy chế và thương thức hoạt động không bình đẳng , gây thiệt hại cho các nước chậm phát triển , tạo trạng thái thất nghiệp , phân hoá giàu nghèo ngày càng nghiêm trọng , uy hiếp chủ quyền quốc gia các dân tộc kém phát triển . Để đối phó lại , các nước chậm phát triển chiếm hơn 4/5 thành viên của các tổ chức kinh tế toàn cầu , thông qua tổ chức UNCTAD , nhất là nhóm G77 . Trung tâm phương nam và nhiều diễn đàn khác , đang đoàn kết lại không ngừng đấu tranh chống sức ép và khả năng thao túng của các nước phát triển , bảo vệ lợi ích quốc gia chính đáng của mình Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia theo chương trình dài hạn hay theo vụ , việc cụ thể đã từng diễn phổ biến trên thế giới . Nhưng ngày nay , hợp tác kinh tế thường phải diễn ra trên cơ sở hội nhập quốc tế tức là gia nhập , trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế quốc tế . Điều đó được minh chứng ở chỗ tuyệt đại đa số các quốc gia trên hành tinh đều tham gia các tổ chức quốc tế khu vực toàn cầu Do những đặc điểm nói trên , trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế , luôn luôn tiềm ẩn hai khả năng : thời cơ và thách thức , mặt phải và mặt trái , hợp tác và đấu tranh , phát đạt và phá sản , vươn lên và tụt hậu , tự chủ và phụ thuộc ... Những khả năng đó tác động theo chiều hướng nào và với mức độ ra sao đối với từng quốc gia , tuỳ thuộc trước hết và chủ yếu ở bản lĩnh , khả năng chủ quan của từng quốc gia . Run sợ trước thách thức , do đó không mạnh rạn kịp thời hội nhập quốc tế , để tận dụng các loại lợi thế thì sẽ bỏ lỡ thời cơ , làm hẫng hụt các nguồn lực làm chậm đà tăng trưởng kinh tế . Ngược lại , coi thường thách thức , không thấy hết chiều sâu của thách thức , do đó hội nhập một cách tuỳ tiện , không tính toán thì vấp váp , thua thiệt , thậm chí đổ vỡ là không tránh khỏi . Đồng thời phải thẳng thắn thấy rằng : hậu hoạ lớn nhất là không hội nhập . Bởi vì không lên nghĩ rằng không hội nhập thì có thể tránh được mọi thách thức , trái lại có khi thách thức còn lớn hơn ! Thời cơ và thách thức là hai mặt của hội nhập quốc tế thậm chí của cùng một hành động hội nhập . để vượt qua thách thức , cần chủ động nắm thời cơ , giữ vững mục tiêu vươn lên khai thác những gì là lợi thế của hội nhập , để tạo ra thế mới và lực mới . Nếu đặt mình ra ngoài xu thế chung , thi hành chính sách “ tự lực một chiều “ , không biết tận dụng ưu thế của phân công lao động quốc tế thì không tránh khỏi tụt hậu ngày càng xa hơn , cuối cùng sẽ vỡ mộng về nền kinh tế tự chủ , rơi vào trạng thái kinh tế phụ thuộc , kéo theo những tác động khó lường về chính trị xã hội Thông qua WTO tiếp nối GATT , trong chừng một thập kỉ nay , các quan hệ thương mại ngày càng mở rộng và đa dạng hơn . Hiện đã bao gồm quan hệ hàng hoá hiện vật , quan hệ đầu tư liên quan đến thương maị , quan hệ dịch vụ , quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại Tổ chức thương mại thế giới ( WTO ) có một hệ thống các văn bản pháp lí , trong đó có 29 văn bản dưới dạng hiệp định như các hiệp định về dệt may , nông nghiệp , dịch vụ quy tắc xuất sứ , thủ tục hải quan ... và 25 tuyên bố và quyết định của hội nghị bộ trưởng cụ thể hoá các văn bản pháp lí đó . Trên cơ sở các văn bản này , hình thành cái gọi là hệ thông thương mại đa phương làm cơ sở chung cho hoạt động thương mai khu vực và song phương 3, Những quan niệm về toàn cầu hoá , quốc tế hoá Trong những điều kiện lịch sử mới hiện nay đang tồn tại rất nhiều những khái niệm khác nhau về toàn cầu hoá quốc tế hoá . Khái niệm toàn cầu hoá được xuất hiện và phổ cập vào những năm gần đây . Toàn cầu hoá là một danh từ lần đầu tiên được Webster đưa vào từ điển năm 1961 và nó được sử dụng khá phổ biến trong hai thập kỉ gần đây . Nhưng ngược dòng lịch sử thì năm 1870 , nhà triết học Jeremy – Bentham đã sử dụng tính từ “ quốc tế “ , về khái niệm quan hệ quốc tế đã được sử dụng rộng rãi từ thời đó Toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều là những khái niệm diễn tả những mối quan hệ vượt ra ngoài biên giới quốc gia . Tuy nhiên cấp độ giữa chúng là khác nhau . Toàn cầu hoá mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế là bước phát triển mới và cao của quốc tế hoá . Quá trình toàn cầu hoá đang phát triển cùng tồn tại trên thế giới hiện nay về thực chất là quá trình quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn , nó phản ánh một qúa trình phát triển với đặc trưng bản chất là không có ranh giới quốc gia và khu vực trong mối quan hệ kinh tế xã hội ngày càng phát triển Xét một cách cụ thể toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu là biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu , rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cách mạng khoa học – công nghệ và tích tụ tập trung tư bản , dẫn tới hình thành nền kinh tế thế giới thống nhất Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã và đang trở thành một trong những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại . Nó không chỉ tạo ra khả năng vầ điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế mà còn là thách thức gay gắt đối với các nước đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam . Về mặt kinh tế , là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực , lan toả ra phạm vi toàn cầu , trong đó có hàng hoá vốn tiền tệ , thông tin , lao động ... vận động thông thoáng . Sự phân công lao động mang tính chất quốc tế , mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia các khu vực đan xen nhau hình thành quan hệ đa tiến . Trong xu thế ấy , các nền kinh tế ngày càng có quan hệ mật thiết với nhau , phụ thuộc lẫn nhau . Như vậy toàn cầu hoá hay quốc tế hoá đều là những khái niệm diễn tả những mối quan hệ vượt ra ngoài biên giới quốc gia . Tuy nhiên cấp độ giữa chúng là khác nhau . Toàn cầu hoá là cốt lõi và toàn cầu hoá về kinh tế là bước phát triển mới của quốc tế hoá về kinh tế . Quá trình toàn cầu hoá đang tồn tại và ngày càng phát triển trên thế giới hiện nay về thực chất la quá trinh quốc tế hoá đã đạt đến độ nhuần nhuyễn . Xét một cách cụ thể thì toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển bước nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc , rộng rãi trên phạm vi toàn cầu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và tích tụ tập trung tư bản dẫn tới hình thành nền kinh tế thế giới thống nhất .Vì vậy chúng ta cần nhận thức rõ vấn đề này để đưa đất nước đi lên và phát triển mạnh II Việt Nam với quốc tế hoá , toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế 1, Tại sao nước ta phải tham gia toàn cầu hoá , quốc tế hoá Toàn cầu hoá là quá trình tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thế giới . Trong thời kì đổi mới , chuyển đổi nền kinh tế đảng và nhà nước ta đã nhận định : “ Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan “ . Là một trong những nước nghèo sau mấy chục năm bị chiến tranh tàn phá Việt Nam bắt đầu bước vào thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế kinh tế thị trường , trong điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều thử thách khắc nhiệt . Từ nền kinh tế tự túc tự cấp nghèo nàn lạc hậu , bắt đầu mở cửa tiếp xúc trực diện với môi trường rộng lớn nơi có nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế cạnh tranh khốc liệt , đang có nhiều quốc gia , tập đoàn kinh tế tư bản giàu mạnh luôn gây sức ép , muốn thao túng cả nền kinh tế tài chính thế giới . Đại hội VII của đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1991 đã đề ra đường lối chiến lược : “thực hiện đa dạng hoá , đa phương hoá quan hệ quốc tế , mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại”. Đại hội Đảng VIII đảng ta tiếp tục chủ chương thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ , mở rộng các quan hệ đối ngoại với tinh thần : “ muốn làm bạn với các nước cộng đồng thế giới” . Vì thế chúng ta đã mạnh rạn “ tích cực , chủ động tham gia cộng đồng các diễn đàn thương mại các định chế quốc tế một cách có chọn lọc và bước đi thích hợp” . Tiếp theo nghị quyết TƯ 4 khóa VIII ( 12- 1997 ) đã đề ra nhiệm vụ : “ giữ vững độc lập tự chủ quyền đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài , xây dựng một nên kinh tế mở , hội nhập với kinh tế thế giới”. Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan , tính tất yếu khách quan phải toàn cầu hoá được quy định bởi sự vận động tổng hợp của các nhân tố . Trước hết do yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng mang tính chất xã hội hoá , quốc tế hoá cao đòi hỏi quan hệ sản xuất được mở rộng trên phạm vi toàn cầu hoá . Thứ hai do sự phát triển như vũ bão của khoa học – công nghệ nhất là công nghệ thông tin Thứ ba do sự phát triển của kinh tế thị trường và quy luật sản xuất hàng hoá đòi hỏi phải mở rộng thị trường đầu tư và tiêu thụ , xoá bỏ mọi rào cản , thực hiện chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội trên phạm vi quốc tế Thứ tư đã xuất hiện những vấn đề toàn cầu như môi trường bị ô nhiễm huỷ diệt , tội phạm ma tuy , di dân tự do , khủng bố quốc tế , bệnh tật hiểm nghèo ... đòi hỏi phải có sự hợp tác , sự nỗ lực của tất cả các quốc gia trên phạm vi toàn cầu . Như vậy toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình hội nhập của mọi quốc gia mà chúng ta không thể né tránh hoặc từ chối . Đối với Việt Nam nhất là trong giai đoạn công nghiệp hoá - hiện đại hoá sự tham gia vào thị trường khu vực và thế giới lại càng quan trọng . Nó không chỉ tạo ra khả năng và điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế mà còn là một thách thức gay gắt đối với nước ta . Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có cơ hội nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ quốc tế . Hội nhập kinh tế có thể mang lại những cơ hội lớn của thị trường mở rộng vốn tiềm năng lớn và khoa học – công nghệ cũng như về vốn và những kinh nghiệm quản lí tiên tiến rất cần cho sự nghiệp CNH-HĐH đất nước . Tuy nhiên những thách thức đặt ra cũng rất lớn thậm chí có thể lớn hơn những cơ hội mà Việt Nam có thể tận dụng trước mắt . Bởi vì vị thế kinh tế nước ta thấp kém hơn nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới , những thách thức trong một tuân thủ các nguyên tắc và luật chơi điều tiết thương mại quốc tê của WTO và các nguyên tắc mục tiêu cơ bản của hệ thống tổ chức khu vực như AFTA , APEC , ASEM , sức ép của cuộc cạnh tranh quốc tế các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam đang đứng trước sức ép của sự bành trướng về kinh tế của các công ty xuyên quốc gia , các tập đoàn công nghiệp với tiềm lực kinh tế to lớn , nắm bắt và ứng dụng công nghệ mới đang ngày càng quốc tế hoá các hoạt động của mình mua bán sát nhập lẫn nhau để trở thành những tập đoàn to lớn có sức mạnh chi phối cả một ngành hoặc một lĩnh vực chủ yếu nào đó Nắm bắt cơ hội từng bước vựơt qua khó khăn thách thức , tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc thiết lập mối quan hệ theo các mức độ khác nhau hầu như tất cả các nước trên thế giới . Ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước trên thế giới và có những quan hệ trên những mặt khác nhau với hầu hết các tổ chức quốc tế và khu vực quan trong . Đã đẩy lùi chính sách bao vây cấm vận của các thế lực thù địch tạo dựng được môi trường quốc tế . Từ đó đã khai thông được quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như IMF , WB , ADB . Do vậy giúp Việt Nam mở rộng thêm thị trường thêm đôi tác , tăng tính hấp dẫn của nứơc ta đối với các nhà kinh doanh quốc tế , nâng cao vị thế quốc tế của nhà nứơc thúc đẩy quan hệ của nứơc ta với các nước khác , kể cả các nước lớn các nước trung tâm kinh tế quan trọng của thế giới 2, Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam tham gia vào toàn cầu hoá , quốc tế hoá a, thuận lợi : Đất nước chúng ta nằm ở nằm ở phía đông bán đảo Đông dương là cửa ngõ đi ra biển Đông của Lào , Campuchia , Myanma và nam Trung Quốc . Có đường biển dài lại nằm gần những tuyết đường vận tải quốc tế tạo thuận lợi cho việc giao lưu và hội nhập quốc tế . Nước ta có nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú trữ lượng đáng kể , có thêt là động lực để phát triển nền kinh tế . Ngoài dầu mỏ , than đá , bô xít , quặng sắt ... chúng ta còn có các cơ sở khai thác công nghiệp lâu đời . Nước ta nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới lượng mưa lớn rất thuận lợi cho sự phát triển cây cối , là một thuận lợi cho sự phát triển trong nông nghiệp cũng như công nghiệp chế biến nông sản . Nước ta có lực lượng nhân công phong phú . Không chỉ có số lượng lớn mà hàng năm còn bổ sung thêm khoảng một triệu người . Lao động Việt Nam có tính cần cù , khéo léo , thông minh , có khả năng tiếp thu nhanh khoa học công nghệ , nghề càng được đào tạo cơ bản . b, Những khó khăn : Chúng ta vừa trải qua hai cuộc chiến tranh giữ nước những năm dài sống trong bao cấp cùng với sự cấm vận của đế quốc Mỹ đã làm kiệt quệ nền kinh tế đất nước . Nền kinh tế mất khả năng cạnh tranh người lao động trở lên chây ỳ , tự thoả mãn thiếu ý trí vươn lên . Cuộc khủng hoảng những năm 80 của thế kỉ trước đã để lại những di hoạ cho nền kinh tế đất nước mất cân đối thu chi nhập siêu , nợ nước ngoài ... Nước chúng ta nằm trong khu vực thường xuyên chịu tác động của thiên tai . Cùng với sự phá hại vô ý của con người thì thiên tai ngày càng nặng nề gây thiệt hại cho nền kinh tế vốn đã nghèo nàn . Những lũ lụt bão hạn hán , cháy rừng thường xuyên gây hoạ chúng ta Nguồn tài nguyên thiên nhiên Việt Nam tuy phong phú về chủng loại nhưng trữ lượng không đáng kể phân tán rộng ở nhiều địa hình khó khăn . Việc khai thác công nghiệp không đạt hiệu quả kinh tế . Các cơ sở khai thác công nghiệp thì đã qúa cũ kỹ gây ô nhiễm môi trường , sản phẩm có giá thành cao lên thiếu sức cạnh tranh . Nền công nghiệp chế biến hầu như không có nên chủ yếu chúng ta xuất thô nên giá thành thấp Nền kinh tế bị mất cân đối do quá tập trung vào công nghiệp nặng trong khi điều kiện chưa cho phép ( vốn , kĩ thuật nhân lực ...) gây lên thiệt hại cho đất nước . Sản phẩm thiếu sức cạnh tranh không phù hợp với nhu cầu thị trường nhiều nhà máy xí nghiệp hầu như bỏ hoang hoặc khai thác cầm chừng gây lên lãng phí rất lớn Chất lượng nguồn nhân lực nước ta hiện nay nhìn chung còn thấp , điều đó không chỉ thể hiện ở thể trạng con người trình độ chuyên môn kĩ thuật yếu mà còn thể hiện ở những bất cập trong cơ cấu nguồn lao động : Thứ nhất tình trạng thừa lao động phổ thông thiếu lao động kĩ thuật . Nước ta đang bước vào giai đoạn CNH-HĐH xong tỉ trọng lao động phổ thông trong tổng số lao động còn quá cao ( năm 1998 chiếm 82,2% và năm 1999 là 81% ) lực lượng lao động đã qua đào tạo rất ít , ước tính năm 1999 mới đạt 19 % tổng số lao động trong đó đã qua đào tạo về chuyên môn kĩ thuật lại càng ít khoảng 13% . Nừu đem so sánh về tỉ lệ lực lượng lao động kĩ thuật của nước ta với các nước xung quanh thì chỉ bằng 1/6 các nước bạn . Hiện nay ở một số nghành , lĩnh vực quan trọng của đất nước lực lượng lao động có kĩ thuật còn rất mỏng . Chẳng hạn nghanh nông lâm ngư nghiệp (chiếm 3/4 tổng số lao động ) chỉ chiếm 7% tổng số lao động có kĩ thuật . ở một số khu chế xuất cần tuyển lao động có kĩ thuật thì lao động của ta đáp ứng được rất ít . Ví dụ như khu chế xuất Tân Thuận cần tuyểt 15.000 nhân viên kĩ thuật thì ta chỉ đáp ứng được 3000 , khu chế xuất Linh Trung cần tuyển 7000 lao động kĩ thuỵât ta chỉ đáp ưng được 1500 Thứ hai tình trạng thừa thầy thiếu thợ ở mức khá nghiêm trọng lực lượng lao động có chuyên môn của ta không chỉ ít mà còn bất hợp lí về cơ cấu Thứ ba lực lượng lao động nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu lao động theo ngành năm 1998 chiếm 66% tổng số lực lượng lao động . Sự nghiệp CNH- HĐH đã tiến hành vài thập niên xong cho đến nay nền kinh tế nước ta vẫn còn mang đậm tính chất một nền kinh tế thuần nông . Thứ tư thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo lãnh thổ hiện nay tỉ lệ lao động ở hai vùng đồng bằng sông hồng và đồng bắng Sông Cưu Long cao nhất nước 20,5% và 21,7% tây nguyên chiếm 4% đông nam bộ chiếm 12,7% chính điều này đã gây ra khó khăn cho việc giải quyết việc làm ảnh hưởng xáu đến sự phát triển kinh tế xã hội c, Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của nước ta trong thời kì đổi mới Đẩy nhanh tốc độ giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức trong tiến trình hội nhập và phát triển Trong tiến trình thực hiện CNH- HĐH đất nước với bối cảnh xuất phát điểm của kinh tế Việt Nam thấp , nhu cầu vốn cho phát triển cao , cùng với mục tiêu phấn đấu theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng : “ Tạo nền tảng để đến năm 2020 nứơc ta cơ bản trở thành nước công nghiệp thiên hướng hiện đại hoá ... “ việc thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài là một như cầu tất yếu và có ý nghĩa hết sức quan trọng . Trong các nguồn vốn bên ngoài kể đến nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ( ODA) nguồn vốn này có ưu đãi và có yếu tố tài trợ không hoàn lại ... bởi vậy ODA có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay của nước ta . Văn kiện đại hội cũng khẳng định trong mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm từ 2001 – 2010 và dự kiến khả năng đưa vào thực hiện nguồn ODA trong năm năm 2001- 2005 là 10 đến 11 tỉ USD Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ từ tháng 11/1993 Việt Nam đã nhận được sự cam kết viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế . Tuy nhiên cho đến nay lượng vốn ODA được đưa vào đầu tư phát triển kinh tế xã hội trên phạm vi cả nước còn chiếm tỉ lệ thấp so với vốn được cam kết và kí kết Trong nguồn vốn ODA , tỷ lệ giải ngân viên trợ không hoàn lại khá cao , đạt 90% so với mức cam kết , nguyên nhân chủ yếu là không có những ràng buộc về trả nợ nước ngoài và nguồn vốn này chủ yếu dưới hình thức hỗ trợ kĩ thuật tập trung và các lĩnh vực y tế , xã hội , giáo dục , cải cách hành chính ... đây là hình thức được giải ngân nhanh hơn các dự án đầu tư bằng vốn vay Tỷ lệ giải ngân của vốn ODA có hoàn lại ở mức rất thấp , chỉ đạt 54,95% có nghĩa là còn tồn tại khoảng vốn tương đối trên 5tỉ USD chưa được thực hiện , gây lãng phí vốn và hiệu quả sử dụng nguồn vốn này chưa cao , đó là vì : Điều kiện giải ngân vốn ODA có hoàn lại thường được đầu tư vào các dự án có công trình kết cấu hạ tầng kĩ thuật , việc triển khai các dự án này là qua nhiều công đoạn mất nhiều thời gian ảnh hưởng tới tốc độ giải ngân . Để đạt đựơc mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ 2001– 2010 và tương lai xã hội , chúng ta cần thiết phải có nhứng chính sách hợp lí trong huy động và sử dụng nguồn vốn cho đầu tư và phát triển : Phát triển hệ thống kênh phân phối một vũ khí cạnh tranh đặc biệt của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hiện nay Trong kinh doanh hiện đại sản phẩm và giá cả là hai yếu tố chủ yếu cần đến cho khách hàng giá trị gia tăng và cách đưa hàng hoá tới tay người tiêu dùng . Trong bối cảnh hiện đại mặc dù giá cả và sản phẩm vẫn là những công cụ cạnh tranh quan trọng nhưng không còn giữ vị trí thống trị như trứơc . Thự tế đã cho thấy khả năng giữ vị trí dẫn đầu về tiến bộ sản phẩm hoặc chất lượng cao là rất khó khăn và sự chuyển đổi kĩ thuật diễn ra rất nhanh chóng . Việc giữ lợi thế về giá cả cũng rất hạn chế vì những người cạnh tranh có thể điều chỉnh chi phí của họ bằng cánh chuyển sang kinh doanh ở những nơi có điều kiện sản xuất lợi thế có kênh chi phối thuận lợi Đẩy nhanh cải cách tăng trưởng trong hội nhập kinh tế quốc tế kinh doanh tại sân nhà . Kinh tế Việt Nam trong năm 2002 đã đạt được nhiều thành tựu đã khích lệ , trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phục hồi chậm chạm thị trưòng biến động giá cả nhiều mặt hàng xuốt thấp cạnh tranh gay gắt thiên tai gây nhiêu tổn thất thì nứơc ta tăng trưởng GDP đã ở mức cao thứ hai trong khu vực môi trường vĩ mô và tài chính được cải thiện thể hiện qua sự nâng cấp đồng loạt của các công ty đánh giá tài chính thế giới Hệ thống chính sách thuế của Việt Nam trong quá trình hội nhập Trong thời đại hiện nay toàn cầu hoá nền kinh tế đang trở thành xu thế khách quan lôi cuốn các nước bao trùm hầu hết các khu vực vừa thúc đẩy hợp tác vừa tăng sức ép cạnh tranh nền kinh tế trong điều kiện như vậy một quốc gia có chính sách thuế thích hợp sản xuất kinh doanh đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách và đảm bảo được an toàn trong quá trình hội nhập sẽ nâng cao được hiệu quả hội nhập d, Một số kết quả đạt đựơc Chúng ta đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập , cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch , tạo dựng được môi trường quốc tế , khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế Nước ta đã khôi phục được tình trạng khủng hoảng do Liên Xô và các nước XHCN bị tan giã và cuộc khủng hoảng khu vực gây lên, đồng thời mở rộng thị trường xuất khẩu . nhà hội nhập chúng ta đã hưởng ưu đãi về thuế quan các biện pháp phi thuế quan chế độ đãi ngộ tối hậu quốc nên thị trường xuất khẩu hàng hoá được mở rộng , quan hệ thương mại được thiết lập với hơn 160 nước . Năm 1990 kim ngạch xuất khầu đạt 2,204 tỉ USD nhập khẩu đạt 2,752tỉ USD thì đến năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt gần 15 tỉ USD Thu hút được nguồn vốn đàu tư trực tiếp từ nước ngoài ( FDI) . Chúng ta đã ban hành luật đầu tư nước ngoài từ tháng 12/1997 và bằng nhiều nỗ lực to lớn đã thu hút được dòng đầu tư từ nước ngoài cho đến tháng 12/2000 có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều công ty tập đoàn lơn đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam . Với 3265 dự án được cấp giấy phép , vốn đăng kí trên 38,6 tỉ USD vốn thực hiện trên 15 tỉ USD nguồn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài chiếm 30 % vốn đầu tư xã hội , đóng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34622.doc
Tài liệu liên quan