Đề án Thanh toán quốc tế và một số phương thức thanh toán quốc tế được vận dụng ở Việt Nam

+ Thư tín dụng có thể huỷ ngang ( revocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C và tổ chức nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi. Loại thư tín dụng có thể huỷ ngang này ít được sử dụng bởi vì L/C có thể huỷ bỏ chỉ là lời hứa trả tiền chứ không phải là sự cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Do tính chất bấp bênh trong thanh toán của loại thư tín dụng này mà hiện nay nó rất ít được sử dụng.

+ Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( irrevocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho tổ chức xuất khẩu trong thời gian hiệu lực của L/C, không được quyền đơn phương tự sửa dổi hay huỷ bỏ thư tín dụng đó. Loại L/C không thể huỷ bỏ đảm bảo quyền lợi cho tổ chức xuất khẩu và hiện nay đang được sử dụng phổ biến. Nó có tính chất vững chắc, không thể sửa đổi hoặc huỷ đi nếu không có sự đồng ý của các bên có liên quan tham gia.

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4193 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thanh toán quốc tế và một số phương thức thanh toán quốc tế được vận dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u phải ký quỹ 100% số tiền của L/C thì thực tế là ngân hàng không cho họ vay bất kỳ một khoản tiền nào mà chỉ cung cấp cho họ sự “tín nhiệm” trước bạn hàng của họ là người xuất khẩu về việc đảm bảo thanh toán. Lời hứa trả tiền của ngân hàng thay cho lời hứa đảm bảo trả tiền của người xuất khẩu vì lời hứa của ngân hàng có giá trị hơn. + Việc chi trả có liên quan đến việc thể hiện chứng từ: sự tồn tại của chứng từ cũng như sự phù hợp của nó với các thời hạn tín dụng tạo nên cơ sở nền tảng của tín dụng thư kèm chứng từ, bởi vì ngân hàng không nhìn thấy hàng hoá mà chỉ xét trên chứng từ thôi. Điều này được chỉ rõ trong UCP 500. Như vậy, vai trò của chứng từ là vô cùng quan trọng vì nó là cơ sở để định ra các nguyên tắc thanh toán tín dụng chứng từ, và thể hiện thực chất giá trị của hàng hoá. + Vai trò trung gian thanh toán và đại diện của ngân hàng: ngân hàng là đại diện bên nhập khẩu thanh toán tiền hàng cho bên xuất khẩu nếu bên xuất khẩu đảm bảo xuất trình bộ chứng từ trong thời gian phù hợp với thời hạn hiệu lực và các điều kiện, điều khoản của L/C. Đồng thời, ngân hàng cũng đảm bảo đối với người xuất khẩu là chỉ thanh toán ( trích tài khoản của người xuất khẩu) trong trường hợp hàng hoá được chuyển giao phù hợp về mặt giấy tờ ( nghĩa là các giấy tờ chứng minh được việc chuyển hàng là có thật). Còn người xuất khẩu, họ tin chắc là sẽ nhận được tiền thanh toán nếu tuân thủ đúng các điều kiện của L/C. 4.3.Các bên liên quan trong phương thức tín dụng chứng từ : a. Người yêu cầu mở thư tín dụng ( applicant for the credit ) còn gọi là người mua người, người nhập khẩu ( importer ), người mở L/C ( opener ), người phải trích tài khoản để thanh toán ( accountee ), người uỷ thác ( principle ). Khi trong hợp đồng mua bán, cả người mua và người bán đã thống nhất sử dụng phương thức tín dụng chứng từ để thanh toán thì người nhập khâủ trước hết phải mở L/C để giúp người xuất khẩu thực hiện hợp đồng. Người nhập khẩu căn cứ vào thời hạn của hợp đồng ngoại thương để xác định thời hạn hiệu lực của L/C. Đồng thời người mở cũng phải nộp một khoản lệ phí mở L/C nhất định cho ngân hàng và thường ký quỹ một khoản nhất định tuỳ theo giá trị mở. Người mở có quyền từ chối thanh toán L/C nếu thấy bộ chứng từ của người xuất không phù hợp với yêu cầu do L/C đặt ra. Khi đó ngân hàng mở sẻ chịu hoàn toàn trách nhiệm về thiếu sót của mình trong việc kiểm tra chứng từ. Người hưởng lợi ( beneficiary ) là người xuất khẩu, người bán hay người ký phát hối phiếu... được hưởng thư tín dụng do người nhập khẩu mở. Người xuất khẩu chỉ giao hàng khi biết L/C đã được mở đúng theo yêu cầu của mình như đã thoả thuận tronhg hợp đồng ngoại thương. Sau khi giao hàng, người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của L/C và nộp cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của L/C. Người bán chỉ nhận được tiền thanh toán khi bộ chứng từ mà họ xuất trình đáp ứng được yêu cầu phù hợp về mặt hình thức với quy định của L/C. c. Các ngân hàng liên quan: ít nhất là có hai ngân hàng tham gia. + Ngân hàng mở thư tín dụng ( opening bank ) hay ngân hàng phát hành ( issuing bank ): là ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập khẩu. Đây là ngân hàng thường được hai bên mua bán thoả thuận lựa chọn và quy định trong hợp đồng, nếu chưa có sự quy định trước thì người nhập khẩu có quyền lựa chọn. Ngân hàng này nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, xét thấy đủ điều kiện, sẽ tiến hành mở L/C và tìm cách thông báo cho người xuất khẩu cùng với việc gửi bản gốc L/C đó cho người xuất khẩu. Thông thường, việc thông báo và gửi L/C cho người xuất khẩu phải thông qua một ngân hàng đại lý của nó ở nước người xuất khẩu. Không loại trừ, ngân hàng này gửi thẳng bản gốc L/C cho người xuất khẩu ( trường hợp này ít dùng ). Ngân hàng này có thể sửa đổi, bổ sung những yêu cầu của người xin mở L/C, của người xuất khẩu đối với L/C đã đựơc mở nếu có sự đồng ý của họ. Đồng thời, ngân hàng cũng chịu trách nhiệm kiểm tra sự phù hợp của các chứng từ do người xuất khẩu gửi đến, từ đó tiến hành thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán cho người bán, hoặc trường hợp các chứng từ không phù hợp hay mâu thuẫn với những quy định trong L/C thì từ chối thanh toán. Khi kiểm tra chứng từ của người xuất khẩu gửi đến, ngân hàng chịu trách nhiệm kiểm tra “bề ngoài” của chứng từ xem có phù hợp với L/C hay không, chứ không chịu trách nhiệm về kiểm tra tính chất pháp lý của chứng từ, tính chất xác thực của chứng từ, .v.v... Mọi sự tranh chấp về tính chất “bên trong” của chứng từ là do người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết. Ngân hàng được miễn trách trong trường hợp ngân hàng rơi vào đúng các bất khả kháng như chiến tranh, đình công, nổi loạn, khởi nghĩa, lụt lội, động đất, hoả hoạn, .v.v... Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó, ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi đến vào dịp đó, trừ khi đã có những quy định dự phòng. Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C phải chịu trách nhiệm. Khi giao bộ chứng từ cho người xuất khẩu để họ nhận hàng, ngân hàng tiến hành đòi tiền người nhập khẩu và thu thủ tục phí mở L/C từ 0,125% đến 0,5% trị giá của L/C. + Ngân hàng thông báo ( Advising bank ) có thể là một ngân hàng đại lý ( Correspondent bank ) hoặc chỉ là chi nhánh của ngân hàng mở L/C tại nước của người xuất khẩu. Ngân hàng này có trách nhiệm thông báo cho người xuất khẩu biết rằng người nhập khẩu đã mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng. Việc thông báo này được thực hiện như sau: khi nhận được điện thông báo L/C của ngân hàng mở L/C, ngân hàng này sẽ chuyển toàn bộ nội dung L/C đã nhận được cho người xuất khẩu dưới hình thức văn bản. Ngân hàng thông báo chỉ chịu trách nhiệm chuyển nguyên văn bức điện đó, chứ không chịu trách nhiệm phải dịch, diễn giải các từ chuyên môn ra tiếng địa phương. Nếu ngân hàng thông báo sai những nội dung điện đã nhận được thì ngân hàng phải chịu trách nhiệm. Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng phải chuyển ngay và nguyên vẹn bộ chứng từ đó tới ngân hàng mở L/C. Khi có yêu cầu từ phía ngân hàng mở L/C, ngân hàng thông báo có thể xem xét các điều kiện để tiến hành xác nhận L/C và thanh toán L/C khi được xuất trình bộ chứng từ phù hợp. Khi đó ngân hàng thông báo này vừa đóng vai trò ngân hàng xác nhận ( confirming bank ) vừa kiêm thêm vai trò của một ngân hàng thanh toán ( paying bank ). Ngân hàng thông báo trong trường hợp chỉ chịu trách nhiệm thông báo đơn thuần sẽ không phải chịu bất kỳ rủi ro nào và chỉ chịu trách nhiệm đảm bảo là L/C chính xác và xác thực. Ngân hàng thông báo chỉ thu một khoản phí của người xuất khẩu khi họ thông báo việc mở L/C cho người xuất khẩu. Ngoài hai ngân hàng trên, có thể trong L/C còn quy định thêm: Ngân hàng xác nhận ( confirming bank): là ngân hàng theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C đứng ra xác nhận cho L/C được mở. Sở dĩ có điều này là do người bán chưa hoàn toàn tin tưởng vào khả năng thanh toán của người mua và ngân hàng mở L/C. Ngân hàng xác nhận có cùng trách nhiệm với ngân hàng phát hành trong việc trả tiền hàng. Có nghĩa là, ngân hàng xác nhận phải cam kết thanh toán không thể huỷ bỏ cho người xuất khẩu trên cơ sở nhận được chứng từ đúng quy định và sẽ phải thanh toán giá trị L/C đã được xác nhận đó khi ngân hàng phát hành không đủ khả năng thanh toán. Trong trường hợp này, ngân hàng cũng chịu rủi ro nếu không phát hiện được sự sai khác của chứng từ. Thường thì ngân hàng xác nhận là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế. Khi một ngân hàng mở L/C yêu cầu một ngân hàng khác xác nhận cho mình thì sẽ làm giảm uy tín của nó. Muốn xác nhận ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí ( Confirming charge ) rất cao và đôi khi còn phải ký quỹ, mức ký quỹ có thể đạt 100% trị giá của thư tín dụng. Ngân hàng chỉ định ( Nominated bank ): trong L/C ghi rõ ngân hàng được uỷ quyền để thanh toán, ngân hàng này sẽ tiến hành thanh toán chấp nhận hối phiếu. Nếu L/C có nói rõ chỉ ngân hàng mở mới có quyền chỉ định thì ngân hàng mở mới tiến hành chỉ định ngân hàng thanh toán. Còn nếu L/C thuộc loại có thể chuyển nhượng được, thì bất kỳ ngân hàng nào cũng sẽ là ngân hàng được chỉ định thanh toán. Một ngân hàng được chỉ định thường không bị ràng buộc trách nhiệm phải thanh toán L/C trừ khi đã xác nhận trách nhiệm thanh toán trong L/C và trở thành ngân hàng xác nhận. Ngân hàng thanh toán ( Paying bank ): có thể là ngân hàng mở L/C hoặc một ngân hàng được ngân hàng mở L/C uỷ thác trả tiền cho người bán. Nếu mở L/C tại nước của người xuất khẩu thì ngân hàng thanh toán thường là ngân hàng thông báo. Sau khi đã kiểm tra tính phù hợp của bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng này sẽ quyết định thanh toán hay không. Rủi ro của ngân hàng thanh toán là có thể có sai sót trong bộ chứng từ mà ngân hàng không phát hiện ra song vẫn tiến hành thanh toán. Trong trường hợp ngân hàng thanh toán không là ngân hàng mở L/C thì ngân hàng này có quyền từ chối thanh toán nếu họ không có đủ tiền và không cam kết xác nhận. Ngân hàng chiết khấu ( Negotiating bank ): Là ngân hàng đứng ra mua hối phiếu chưa đến hạn trả tiền do người bán ký phát cho ngân hàng trả tiền theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C.Việc mua này thường đảm bảo là có thể truy đòi, nghĩa là nếu ngân hàng mở không thể thanh toán cho ngân hàng chiết khấu thì ngân hàng này có thể truy đòi lại khách hàng số tiền trên. 4.4. Mối quan hệ pháp lý của các bên tham gia: * Ngân hàng phát hành và người yêu cầu mở L/C: Bằng thư yêu cầu mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng phục vụ mình, người nhập khẩu đã chính thức đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng để mình có thể thực hiện hợp đồng với bên đối tác. Thông qua việc chấp thuận yêu cầu mở thư tín dụng, ngân hàng mở và người yêu cầu mở đã có một quan hệ pháp lý. Có nghĩa là giữa người yêu cầu mở và ngân hàng mở đã có một hợp đồng ràng buộc phải tuân theo một cách vô điều kiện tất cả những điều khoản mà hai bên đã ký kết trong hợp đồng. Một bộ phận cơ bản của thư yêu cầu mở L/C là điều kiện chung của các ngân hàng, trong đó quy định rằng việc thực hiện L/C phải tuân theo nội dung cơ bản của UCP 500. Khi thư tín dụng được mở, ngân hàng đòi hỏi người mua phải ký quỹ theo một tỷ lệ nào đó thì mối quan hệ đó trở thành mối tín dụng, vì số tiền đó được coi như là một khoản tiền gửi và được hưởng lãi suất như lãi suất vủa tiền gửi không kỳ hạn. * Ngân hàng phát hành và người hưởng lợi: Việc mở thư tín dụng cho người nhập khẩu của ngân hàng mở L/C đồng nghĩa với việc ngân hàng mở cam kết sẽ trả tiền cho người hưởng lợi sau khi các điều kiện nêu ra trong thư tín dụng được người hưởng lợi thoả mãn, ngay cả khi người mở thư tín dụng chưa trả tiền hay không muốn trả tiền cho ngân hàng. Rủi ro này thuộc về quan hệ tín dụng nên ngay khi xem xét thư yêu cầu mở thư tín dụng, ngân hàng phải xem xét kỹ tình hình tài chính của doanh nghiệp và nếu có thể, yêu cầu doanh nghiệp nhập khẩu ký quỹ một khoản tiền nhất định, tối đa là 100% giá trị yêu cầu trong thư tín dụng. * Ngân hàng thông báo và người hưởng lợi: Khi ngân hàng thông báo chỉ thực hiện việc thông báo tín dụng chứng từ mà không có một cam kết nào về thanh toán đối với tín dụng chứng từ thì mọi quan hệ giữa ngân hàng thông báo và người hưởng lợi không có sự ràng buộc về pháp lý. Nhưng ngân hàng thông báo, nếu đồng ý thông báo, phải kiểm tra một cách cẩn thận tính chân thật bề ngoài của thư tín dụng mà mình thông báo. Bên cạnh đó, ngân hàng thông báo cũng phải thu phí dịch vụ từ người hưởng lợi. * Ngân hàng xác nhận và người hưởng lợi: Với việc xác nhận tín dụng chứng từ, ngân hàng xác nhận đã cùng chịu trách nhiệm với ngân hàng phát hành trong việc trả tiền cho người hưởng lợi. Nếu thư tín dụng quy định “chấp nhận” bởi ngân hàng xác nhận thì ngân hàng xác nhận phải chịu trách nhiệm trả tiền các hối phiếu do người hưởng lơị ký phát đòi tiền và trả tiền các hối phiếu đó khi đến hạn. * Ngân hàng phát hành và ngân hàng xác nhận: Sự xác nhận thư tín dụng không thể huỷ bỏ của một ngân hàng khác ( ngân hàng xác nhận ) theo yêu cầu hoặc theo sự uỷ nhiệm của ngân hàng phát hành là một sự cam kết chắc chắn của ngân hàng xác nhận cộng thêm vào sự cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành sẽ trả tiền trên của người hưởng lợi miễn là các chứng từ xuất trình chi ngân hàng xác nhận hoặc cho bất kỳ một ngân hàng chỉ định nào đó phải phù hợp với các quy định trong thư tín dụng. Khi xác nhận, ngân hàng xác nhận đòi ngân hàng phát hành phải ký quỹ một khoản xác định, khi đó quan hệ giữa hai ngân hàng này trở thành mối quan hệ tín dụng vì khoản tiền ký quỹ được coi như một khoản tiền gửi và được trả lãi. Nếu một ngân hàng khác được ngân hàng phát hành yêu cầu xác nhận một thư tín dụng mà không sẳn sàng làm việc đó thì phải thông báo ngay cho ngân hàng phát hành biết. * Ngân hàng phát hành và ngân hàng thông báo: Với yêu cầu thông báo tín dụng chứng từ từ phía ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo và ngân hàng phát hành có mối quan hệ ngang bằng đồng nghiệp vụ và ngân hàng thông báo không chịu bất cứ ràng buộc pháp lý nào. * Ngân hàng phát hành và ngân hàng hoàn trả: Với số tiền ký quỹ tại ngân hàng để thanh toán tín dụng chứng từ cho ngân hàng thông báo, hay ngân hàng xác nhận đã xuất hiện mối quan hệ đồng thực hiện nghiệp vụ mà không có sự đảm bảo nào từ phía ngân hàng hoàn trả. Chính vì thế, ngân hàng hoàn trả sẽ không chịu trách nhiệm trong trường hợp tài khoản tiền gửi của ngân hàng phát hành không có đủ tiền để thanh toán. 4.5. Nội dung chủ yếu của một L/C: + Số hiệu của L/C ( L/C reference no ): mỗi L/C phải được đánh số để tiện cho việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình thực hiện. Tác dụng của số hiệu là dùng để trao đổi thư từ điện tín có liên quan đến việc tực hiện thư tín dụng.Ngoài ra, số hiệu của L/C còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán L/C. + Địa điểm và ngày mở ( Place and date of issuing ) + Loại thư tín dụng: các loại L/C khác nhau sẽ phát sinh những quyền lợi và nghĩa vụ khác nhau giữa các bên. + Tên và địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ: có thể bao gồm người yêu cầu mở L/C, người hưởng lợi L/C, ngân hàng phát hành, ngân hàng thông báo, ngân hàng thanh toán hay ngân hàng xác nhận. + Số tiền của L/C: số tiền phải được ghi cả bằng số và bằng chữ, đồng thời phải ghi rõ đơn vị tiền tệ. Đặc biệt là UCP 500 có quy định ghi số tiền của L/C ở dạng “khoảng chừng”, nghĩa là chênh lệch cho phép là ± 10%; còn nếu L/C không ghi số tiền ở dạng “khoảng chừng” thì chênh lệch cho phép là ± 5%. + Thời hạn hiệu lực của L/C ( Date of issue/ expiry day ): là thời hạn ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu nếu người xuất khẩu xuất trình đầy đủ bộ chứng từ trong thời hạn đó và bộ chứng từ đó phù hợp với các điều kiện, điều khoản của L/C. + Thời hạn trả tiền của L/C: liên quan đến việc trả tiền ngay ( D/P ) hay trả tiền sau ( D/A ), phụ thuộc quy định của hợp đồng. + Thời hạn giao hàng ( Date of delivery ): do hợp đồng ngoại thương quy định; thời hạn bên bán phải giao hàng cho bên mua trong thời hạn hiệu lực của L/C. Trong trường hợp hai bên mua bán thoả thuận kéo dài thời hạn giao hàng thì ngân hàng mở L/C cũng phải hiểu là kéo dài thời hạn hiệu lực của L/C. + Ngoài ra, trên L/C cũng phải ghi chi tiết các nội dung liên quan đến hàng hoá: tên hàng, số lượng hàng, trọng lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu,... + Các nội dung liên quan đến vận chuyển, giao nhận hàng hoá: điều kiện gửi hàng ( FOB, CIF, C&F...), nơi gửi hàng, giao hàng, phương tiện vận chuyển, cách giao hàng. 4.6. Các hình thức của thư tín dụng: 4.6.1. Các hình thức cơ bản của thư tín dụng: + Thư tín dụng có thể huỷ ngang ( revocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C và tổ chức nhập khẩu có thể sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần báo trước cho người hưởng lợi. Loại thư tín dụng có thể huỷ ngang này ít được sử dụng bởi vì L/C có thể huỷ bỏ chỉ là lời hứa trả tiền chứ không phải là sự cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Do tính chất bấp bênh trong thanh toán của loại thư tín dụng này mà hiện nay nó rất ít được sử dụng. + Thư tín dụng không thể huỷ ngang ( irrevocable L/C ): là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở L/C phải có trách nhiệm thanh toán tiền cho tổ chức xuất khẩu trong thời gian hiệu lực của L/C, không được quyền đơn phương tự sửa dổi hay huỷ bỏ thư tín dụng đó. Loại L/C không thể huỷ bỏ đảm bảo quyền lợi cho tổ chức xuất khẩu và hiện nay đang được sử dụng phổ biến. Nó có tính chất vững chắc, không thể sửa đổi hoặc huỷ đi nếu không có sự đồng ý của các bên có liên quan tham gia. Trong điều khoản 3 của UCP 500, trong trường hợp thư tín dụng không ghi rõ là khả huỷ hay bất khả huỷ thì thư tín dụng đó là bất khả huỷ. + Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận ( Confermed irrevocable L/C ): là loại thư tín dụng không huỷ ngang và được một ngân hàng khác có uy tín hơn đứng ra đảm bảo việc trả tiền theo thư tín dụng đó cùng với ngân hàng mở L/C. Nghĩa là ngân hàng chịu trách nhiệm thanh toán cho tổ chức xuất khẩu nếu như ngân hàng mở L/C đó không thể trả tiền được. Nguyên nhân có loại L/C không thể huỷ bỏ có xác nhận là do tổ chức xuất khẩu không hoàn toàn tin tưởng vào ngân hàng mở L/C và L/C có giá trị tương đối lớn. Trong L/C này, trách nhiệm của ngân hàng xác nhận lớn hơn trách nhiệm của ngân hàng mở L/C. Do đó, để đảm bảo, có khi ngân hàng xác nhận yêu cầu ngân hàng mở L/C phải ký quỹ trước đó ( có thể là 100% gía trị của L/C ) và thủ tục phí cho ngân hàng hàng xác nhận thường rất cao. Thông thường ngân hàng mở L/C sẽ nhờ ngân hàng thông báo đóng luôn vai trò của ngân hàng xác nhận. Trong trường hợp này, người xuất khẩu được đảm bảo hơn, người xuất khẩu chắc chắn thu hồi được tiền do được hưởng hai bảo lãnh: trước hết, đó là bảo lãnh của ngân hàng phát hành và thứ đến là bảo lãnh của ngân hàng xác nhận. Có thể nói, hình thức này tạo ra đảm bảo tối đa cho người thụ hưởng. + Thư tín dụng không thể huỷ ngang và miễn truy đòi ( Irrevocable without recourse L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ mà trong đó quy định ngân hàng mở L/C sau khi đã thanh toán cho người xuất khẩu thì không có quyền truy đòi lại số tiền trong bất cứ trường hợp nào. Khi sử dụng loại L/C này, người xuất khẩu khi ký phát hối phiếu phải ghi câu “Không được truy đòi lại tiền người ký phát”(Without recourse to Drawers ) 4.6.2.Các hình thức đặc biệt về kỷ thuật ngân hàng của thư tín dụng: + Thư tín dụng có thể chuyển nhượng ( Transferable L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định quyền được chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền L/C cho một hay nhiều người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên, nhưng chỉ được phép chuyển nhượng một lần mà thôi. Chi phí chuyển nhượng thường là người được hưởng đầu tiên phải trả ( điều 48, 49 trong UCP 500 ). Loại thư tín dụng này thường đựơc áp dụng trong trường hợp người hưởng lợi đầu tiên không thể tự cung cấp được hàng hoá mà họ chỉ là một nhà môi giới mà thôi. Họ muốn chuyển nhượng một phần hay toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình cho người cung cấp hàng hoá. Sự chuyển nhượng này phải tuân theo các điều khoản của L/C gốc. + Thư tín dụng tuần hoàn ( Revoling L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định rằng khi L/C sử dụng hết kim ngạch hoặc sau khi hêtài sản hạn hiệu lực của L/C thì nó tự động có giá trị như cũ và cứ như vậy cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng. Loại L/C này được áp dụng khi cả hai bên xuất khẩu và nhập khẩu có quan hệ thường xuyên và đối tượng thanh toán không thay đổi. Khi áp dụng L/C tuần hoàn người nhập khẩu có lợi ở hai điểm lớn: không bị đọng vốn và giảm được phí tổn do mở L/C. Có hai loại L/C tuần hoàn: L/C tuần hoàn tích luỹ ( Revoling cumulative L/C ): L/C này cho phép chuyển số dư sang giai đoạn tiếp theo, cứ như vậy cộng dồn cho đến L/C cuối cùng. L/C tuần hoàn không tích luỹ ( Revoling non- cumulative L/C ): L/C này không cho phép kết chuyển số dư của giai đoạn trước sang giai đoạn sau. Thư tín dụng tuần hoàn theo ba cách: Tuần hoàn tự động: L/C sau tự động có giá trị, không cần có sự thông báo của ngân hàng phát hành L/C. Tuần hoàn không tự động: chỉ khi nào ngân hàng phát hành L/C thông báo cho người bán thì L/C sau mới có hiệu lực. Tuần hoàn hạn chế: nếu sau một vài ngày kể từ ngày L/C cũ hết hạn hiệu lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của ngân hàng phát hành thì L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực. + Thư tín dụng giáp lưng ( Back to back L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ được mở ra căn cứ vào một L/C khác làm đảm bảo. Theo L/C này, người xuất khẩu căn cứ vào thư tín dụng của người nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu khác hưởng. Thư tín dụng giáp lưng chỉ được sử dụng trong các trường hợp: L/C gốc ( Master L/C ): không cho phép chuyển nhượng. Khi các chứng từ của L/C gốc không trùng khớp với các chứng từ của L/C thứ hai. Khi người trung gian muốn giữ bí mật một số thông tin. Khi áp dụng thư tín dụng giáp lưng, cần thoả mãn một số điều kiện sau: Khi thư tín dụng giáp lưng phải thông qua một ngân hàng trực tiếp phục vụ người xuất khẩu. Số tiền L/C thứ nhất phải bằng hoặc lớn hơn kim nghạch của L/C thứ hai, người xuất khẩu trung gian hưởng phần chênh lệch này. L/C thứ nhất phải được mở sớm hơn L/C thứ hai và thời hạn giao hàng của L/C thứ hai phải lớn hơn L/C thứ nhất. Loại L/C này thường được áp dụng trong trường hợp người mua muốn mua hàng của một khách hàng nước ngoài nhưng không thể mở được L/C trực tiếp cho người đó hưởng mà phải thông qua trung gian. Do đó, loại L/C này thường được sử dụng trong mua bán chuyển khẩu. + Thư tín dụng đối ứng ( Reciprocal L/C ): là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định nó chỉ có hiệu lực khi L/C khác đối ứng với nó được mở ra. Điều đó có nghĩa là khi người xuất khẩu nhận được L/C do người nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương ứng, khi đó nó mới có giá trị. Loại L/C đối ứng được sử dụng giữa hai bên xuất nhập khẩu có quan hệ thanh toán trên cơ sở mua bán hàng đôỉ hàng hoặc gia công. Loại L/C này đảm bảo quyền lợi cho người gia công vì sản phẩm làm ra có tính đặc thù do người đặt hàng quy định nên hầu như chỉ có người đặt hàng tiêu thụ. Nếu trong gia công thì L/C nhập thành phẩm là L/C trả ngay còn L/C nhập nguyên liệu vật liệu là L/C trả chậm. + Thư tín dụng trả chậm ( Deferred payment L/C ): là loại thư tín dụng không huỷ bỏ trong đó quy định ngân hàng mở L/C hay ngân hàng xác nhận cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán toàn bộ số tiền của L/C vào thời hạn cụ thể ghi trên L/C sau khi nhận được chứng từ và không cần có hối phiếu. + Thư tín dụng điều khoản đỏ ( Red clause L/C ): là loại thư tín dụng có điều khoản đặc biệt, trước đây được ghi bằng mực đỏ ở điều khoản đặc biệt này ( nên được gọi là thư tín dụng điều khoản đỏ ). Thông thường trong điều khoản đặc biệt, người mở L/C cho phép người xuất khẩu được quyền tháo khoán trước một số tiền nhất định trước khi giao hàng, nghĩa là người hưởng được phép hưởng trước một số tiền nhất định từ ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận khi họ xuất trình đầy đủ bộ chứng từ . +Thư tín dụng dự phòng ( Stand by L/C ): để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, trong trường hợp người xuất khẩu không giao hàng theo đúng hợp đồng, người nhập khẩu yêu cầu người xuất khẩu mở một thư tín dụng dự phòng, trong đó quy định rằng nếu người xuất khẩu không thực hiện đúng hợp đồng, ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng sẽ thanh toán tiền đền bù thiệt hại cho người nhập khẩu. 4.7 Trình tự thực hiện phương thức thanh toán tín dụng chứng từ : Phương thức này áp dụng khi có sự mua bán theo hợp đồng giữa hai công ty ở hai nước khác nhau. Nó là hình thức tốt nhất đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên mua và bán khi trong quan hệ mua bán chưa có độ tin cậy nhau hoàn toàn. Giả sử có một người muốn mua hàng hoá của một người bán ở một nước. Sau khi ký kết hợp đồng có sự thoá thuận giữa hai bên về phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, người mua sẽ phải xin mở một L/C tại ngân hàng cho người bán được hưởng. Và như vậy quá trình thực hiện thanh toán tín dụng chứng từ được thực hiện theo sơ đồ sau: Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ NH xác nhận (7)NH thông báo NH mở L/C (6) (2) (9) (10) (1) (3) (5) (8) Người xuất khẩu Người nhập khẩu Hãng vận tải (4) (4) Trình tự các bước: (1): Người nhập khẩu, căn cứ vào hợp đồng mua bán, làm đơn xin mở thư tín dụng tại ngân hàng phục vụ mình cho người xuất khẩu được hưởng. Lưu ý: khi viết đơn xin mở thư tín dụng,người xuất khẩu cần phải chú ý các điểm cơ bản sau: Viết đúng nội dung theo mẫu đơn xin mở thư tín dụng do ngân hàng mở thư tín dụng ấn hành. Người nhập khẩu cần phải thận trọng và cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra những điều kiện ràng buộc người xuất khẩu vào thư tín dụng, làm thế nào để vừa đảm bảo quyền lợi của mình, vừa để bên bán có thể chấp nhận được. Khi viết đơn xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu phải tôn trọng những điều kiện trên hợp đồng, tránh tình trạng mâu thuẫn trái ngược nhau. Tuy nhiên, khi cần điều chỉnh hợp đồng thì cũng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc72279.DOC