MỤC LỤC
Lời nói đầu 1
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA 3
1.1. Khái niệm xuất khẩu hàng hóa và vai trò của xuất khẩu hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. 3
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu hàng hóa 3
1.1.1.1. Khái niệm 3
1.1.1.2. Đặc điểm của họat động xuất khẩu hàng hóa. 4
1.1.2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường. 5
1.1.2.1. Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. 6
1.1.2.2. Đối với doanh nghiệp. 8
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu. 9
1.2.1. Tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái. 9
1.2.2. Chính sách quản lý vĩ mô của nhà nước 9
1.3. Sự cần thiết của việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa bền vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. 12
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. 15
2.1. Tổng quan chung về ngành cà phê của Việt Nam. 15
2.1.1. Sự ra đời và phát triển của ngành cà phê Việt Nam. 15
2.1.2. Những thành tựu của hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam. 17
2.1.3. Những điểm yếu trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 26
2.2. Những khó khăn đối với ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO. 29
Chương III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VÀ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ. 32
3.1. Bài học từ kinh nghiệm phát triển ngành cà phê của Braxin. 32
3.2. Các giải pháp từ phía Đảng và nhà nước. 36
3.2.1. Chuyển dịch cơ cấu cây trồng. 36
3.2.2. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại. 37
3.2.3. Xây dựng thương hiệu sản phẩm và chứng chỉ quản lý chất lượng sản phẩm. 37
3.2.4. Hỗ trợ các doanh nghiệp đào tạo nguồn nhân lực. 38
3.2.5. Tăng cường xây dựng nhiều chợ, sàn giao dịch cà phê hơn nữa. 38
3.2.6. Cần có chế độ bảo lãnh rủi ro đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. 39
3.2.7. Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển ngành cà phê, quy hoạch rõ ràng và thông tin đầy đủ. 39
3.2.8. Tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài cho ngành cà phê. 40
3.2.9. Tăng cường vai trò của Hiệp hội cà phê Việt Nam. 41
3.3. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp và các hộ sản xuất. 42
3.3.1. Chiến lược của ngành cà phê Việt Nam. 42
3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp và các hộ trồng cà phê. 43
3.3.2.1. Đa dạng hóa các sản phẩm cà phê xuất khẩu 43
3.3.2.2. Hạ thấp chi phí sản xuất. 43
3.3.2.3. Nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. 44
3.3.2.4. Xây dựng thương hiệu cho sản phẩm. 45
3.3.2.5. Đào tạo nguồn nhân lực. 45
3.3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại của doanh nghiệp. 46
Kết luận 47
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2836 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam tăng trưởng bền vững và đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng sản xuất cà phê của Việt Nam hiện đang phát triển theo chiều hướng khả quan.
2.1.2. Những thành tựu của hoạt động xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Nhìn từ góc độ quốc gia, kể từ khi ra đời cho đến nay, hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Xuất khẩu cà phê không chỉ đem lại nguồn thu lớn vào thu nhập của quốc gia mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trong hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông sản. Về sản lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam chỉ đứng sau lúa gạo và là mặt hàng nông sản xuất khẩu có giá trị nhất. Hàng năm kim ngạch xuất khẩu của mặt hàng này chiếm khoảng 20 – 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa nông sản của cả nước.
Xét trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam được biết đến là quốc gia có lượng cà phê xuất khẩu lớn thứ 2; có diện tích và sản lượng cà phê Robusta (cà phê vối) xuất khẩu lớn nhất thế giới, với gần 500.000 ha và sản lượng hàng năm từ 750.000 đến 800.000 tấn.. Tuy nhiên phần lớn lượng cà phê Việt Nam được xuất khẩu dưới dạng thô, giá trị không cao. Trong khi giá cà phê thế giới liên tiếp tăng thì trong nước không còn cà phê để bán.
Vế sản lượng và kim ngạch xuất khẩu :
Hiện nay mỗi năm Việt Nam xuất khẩu 800.000 – 900.000 tấn cà phê nhân, với 1% tạp chất, lượng cà phê bị thải ra vào khoảng 8.000 – 9.000 tấn. Cùng với sự tăng lên của sản lượng thì số lượng và kim ngạch xuất khẩu cà phê của Việt Nam tăng lên không ngừng, cách đây 10 năm (vụ 1992 – 1993) Việt Nam xuất khẩu 116.000 tấn đến niên vụ 2002 – 2003 Việt Nam đã xuất khẩu 691.421 tấn, niên vụ xuất khẩu cao nhất là niên vụ 2000 – 2001 là 847.670 tấn. Tính đến nay Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ 2 thế giới sau Braxin. Mặt hàng cà phê Việt Nam được đánh giá là một trong 20 mặt hàng cạnh tranh của Việt Nam.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 niên vụ (1992 – 1993 đến 2002 – 2003) giá trị xuất khẩu đạt 4.334 triệu USD, chiếm khoảng 3,4 % tổng kim ngạch xuất khẩu tất cả các mặt hàng của Việt Nam. Niên vụ đạt giá trị cao nhất là niên vụ 1997 – 1998 với giá trị là 601,4 triệu USD.
Niên vụ
Xuất (tấn)
Kim ngạch (1.000 USD)
Đơn giá bình quân (USD/MT)
1992 – 1993
116.000
92.000
793
1993 – 1994
165.000
226.000
1.369
1994 – 1995
212.038
558.296
2.633
1995 – 1996
221.496
402.000
1.815
1996 – 1997
336.242
402.800
1.198
1997 – 1998
395.418
601.400
1.521
1998 – 1999
404.206
554.970
1.373
1999 – 2000
653.678
537.970
823
2000 – 2001
670.381
381.907
436,8
2001 – 2002
713.753
263.269
368,8
2002 - 2003
691.421
428.633
619,9
Năm 2004 cả nước xuất khẩu được 889.705 tấn cà phê, đạt giá trị 576.087.360 USD, giá bình quân là 647,5 USD/tấn.
Trong 5 tháng đầu năm 2005 cả nước đã xuất khẩu 423.000 tấn, đạt giá trị 310 triệu USD. 7 tháng đầu năm xuất khẩu được 610.000 tấn, đạt kim ngạch 406 triệu USD. Đến cuối năm 2005 cả nước xuất khẩu được hơn 892 nghìn tấn cà phê với trị giá 735,5 triệu USD. Với kim ngạch xuất khẩu niên vụ 2005 – 2006 đạt 1,1 tỷ USD, ngành cà phê Việt Nam đã gia nhập câu lạc bộ những ngành hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Hiện tại cà phê là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (gạo, dầu thô, thủy sản, dệt may, giày dép, cà phê, cao su, gỗ, hạt tiêu, nhân điều)
Đặc biệt sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO) hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về lượng và kim ngạch xuất khẩu. Các con số được thống kê và báo cáo của Trung tâm tin học và Thống kê, Bộ Nông nghiệp và PTNT như sau:
Xuất khẩu tháng 3/2007 đạt khoảng 100 ngàn tấn, kim ngạch đạt 145 triệu USD, so cùng kỳ năm trước, lượng giảm 8%, kim ngạch tăng 16,7%. Xuất khẩu quí I năm 2007 ước đạt 462 ngàn tấn, kim ngạch 668 triệu USD, so cùng kỳ năm trước, lượng tăng hơn 1,7 lần, giá trị tăng 2,2 lần. Cà phê tiếp tục giữ vị trí số 1 về kim ngạch xuất khẩu trong các mặt hàng nông sản. Hiện giá cà phê xuất khẩu bình quân của Việt Nam đạt khoảng 1.456 USD/tấn, cao hơn cùng kỳ năm trước 26%, Việt Nam đã góp phần chi phối thị trường cà phê thế giới trong thời gian qua.
Chỉ trong vòng 6 tháng đầu niên vụ 2006-2007 (từ 1-10-2006 đến 31-3-2007), nước ta đã xuất khẩu được hơn 615 ngàn tấn cà phê, đạt kim ngạch 830 triệu USD, vượt tổng kim ngạch xuất khẩu cả niên vụ trước 4 triệu USD. Từ con số khả quan này, Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) đã khẳng định: Kim ngạch xuất khẩu cà phê nước ta niên vụ này sẽ vượt ngưỡng 1 tỷ USD. Trước khi vào vụ thu hoạch cà phê, Vicofa dự đoán rằng, lượng cà phê của niên vụ này đạt từ 13,5 đến 14,5 triệu bao, tức là khoảng 810-870 ngàn tấn cà phê nhân. Nhưng đến cuối tháng 4 vừa qua, con số đã vượt xa dự đoán mà theo giới chuyên môn, có được điều này là do nghịch lý "được mùa – rớt giá" đã không lặp lại
Tổng sản lượng cà phê xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2007 đạt 832.000 tấn với tổng kim ngạch trên 1,2 tỷ USD, chiếm gần 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản. So với cùng kỳ năm trước, sản lượng cà phê xuất khẩu tăng 64%, kim ngạch tăng 2,1 lần. Theo Hiệp Hội cà phê Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu cà phê 6 tháng đầu năm 2007 đã cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê của cả năm 2006 (năm 2006, tổng kim ngạch xuất khẩu cà phê đạt trên 1,1 tỷ USD với sản lượng xuất khẩu 897.000 tấn). Đây là kết quả của việc giá cà phê biến động theo xu thế tăng liên tục với mức bình quân hiện nay khoảng 1.530 USD/tấn (tăng 28-29% so với cùng kỳ năm trước)
Ước xuất khẩu cà phê tháng 8/2007 của Việt Nam đạt 55 ngàn tấn, kim ngạch đạt 95 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm 1,5%, kim ngạch tăng 38%, đưa lượng xuất khẩu cà phê 8 tháng đầu năm 2007 đạt 945 ngàn tấn, kim ngạch 1,42 tỉ USD, so với cùng kỳ năm trước lượng tăng 51%, kim ngạch tăng gần 2 lần. Giá cà phê XK bắt đầu có xu hướng giảm từ giữa tháng trước, hiện cà phê giá fob tại TP. Hồ Chí Minh chỉ còn 1.600 USD/tấn, giảm khoảng 200 USD/tấn so với tháng trước, nhưng vẫn cao hơn cùng kỳ năm trước 140 USD/tấn.
Ước xuất khẩu cà phê tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%. Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê tuy có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm 2007 là năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức 13%. Ước lượng cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ USD. So cùng kỳ năm trước lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%.
Về thị trường xuất khẩu
Ngành sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam không phải là mới nhưng xuất hiện ở Việt Nam cũng chưa lâu năm như một số nước khác như Braxin (từ thế kỷ 17), Colombia, Mexico..., nhưng Việt Nam đã phát huy được những lợi thế của mình vươn lên đứng thứ 2 trong top các nước xuất khẩu cà phê hàng đầu thế giới.
Sản lượng cà phê (nghìn bao)Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO)
Quốc gia
Niên vụ
2002
2003
2004
2005
Brasil
(R/A) T.4-T.3
48.480
28.820
39.272
32.944
Việt Nam
(R/A) T.10-T.9
11.555
15.230
13.844
11.000
Colombia
(A) T.10-T.9
11.889
11.197
11.405
11.550
Indonesia
(R/A) T.4-T.3
6.785
6.571
7.386
6.750
Ấn Độ
(A/R) T.10-T.9
4.683
4.495
3.844
4.630
Mexico
(A) T.10-T.9
4.000
4.550
3.407
4.200
Ethiopia
(A) T.10-T.9
3.693
3.874
5.000
4.500
Guatemala
(A/R) T.10-T.9
4.070
3.610
3.678
3.675
Peru
(A) T.4-T.3
2.900
2.616
3.355
2.750
Uganda
(R/A) T.10-T.9
2.900
2.510
2.750
2.750
Honduras
(A) T.10-T.9
2.497
2.968
2.575
2.990
Côte d'Ivoire
(R) T.10-T.9
3.145
2.689
1.750
2.500
Costa Rica
(A) T.10-T.9
1.938
1.802
1.775
2.157
El Salvador
(A) T.10-T.9
1.438
1.457
1.447
1.372
Ecuador
(A/R) T.4-T.3
732
767
938
720
Venezuela
(A) T.10-T.9
869
786
701
820
Philippines
(R/A) T.7-T.6
721
433
373
500
Tổng sản lượng
121.808
103.801
112.552
106.851
A (Arabica): Cà phê chè
R (Robusta): Cà phê vối
T. : Tháng
A/R: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Arabica là chủ yếu
R/A: Nước xuất khẩu cả hai loại cà phê, nhưng sản lượng Robusta là chủ yếu
1 bao = 60 kg
Niên vụ 2002 – 2003, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang 59 nước và vùng lãnh thổ, trong đó 10 nước dẫn đầu về nhập khẩu cà phê Việt Nam chủ yếu là các nước trong khối EU và Mỹ so với những năm 1992, 1993 thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam tập trung và các nước Singapore, HongKong, Nhật Bản chiếm 60% trong 10 nước nhập khẩu lớn nhất.
Dưới đây là thống kê 10 nước nhập khẩu hàng đầu của ngành cà phê Việt Nam niên vụ 2002 – 2003:
Số TT
Nước
Số lượng (tấn)
Trị giá (USD)
% so với tổng xuất khẩu
1
Đức
106.059
66.429.372
15.34
2
Mỹ
83.991
51.704.900
12,15
3
Bỉ
60.161
33.152.589
8,70
4
Tây Ban Nha
59.794
36.819.818
8,65
5
Ba Lan
59.179
35.279.792
8,27
6
Italia
51.641
32.947.315
7,47
7
Pháp
38.754
24.008.977
5,60
8
Hàn Quốc
35.310
22.138.266
5,11
9
Anh
28.890
14.670.583
3,46
10
Philippin
20.303
13.053.775
2,94
Thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam ngày càng được mở rộng, tính đến thời điểm tháng 8 năm 2005 các nước dẫn đầu nhập khẩu cà phê Việt Nam là:
STT
Quốc gia
Lượng nhập khẩu (tấn)
1
Mỹ
84.000
2
Đức
70.000
3
Italia
50.000
4
Tây Ban Nha
43.000 (giảm 12.000tấn)
5
Anh
37.000 (giảm 45.000tấn)
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam tháng 9 và 9 tháng đầu năm 2005
Thị trường
Tháng 9
9 tháng
Lượng (tấn)
Trị giá (ngàn USD)
Lượng (tấn)
Trị giá (ngàn USD)
Mỹ
6.514
5.634
92.586
73.490
CHLB Đức
4.150
3.645
74.963
59.424
Tây Ban Nha
3.593
3.315
47.852
39.042
Italia
2.448
2.342
52.812
45.250
Nhật Bản
2.402
2.186
23.784
20.558
Ốxtrâylia
1.921
1.837
12.151
10.368
Pháp
1.857
1.740
23.024
18.496
Hà Lan
1.324
1.201
14.099
12.078
Philippin
1.292
1.148
18.892
14.315
Ấn Độ
949
887
16.169
11.802
Hàn Quốc
925
828
18.429
13.98
Ba Lan
917
711
9.599
7.402
Anh
776
678
38.025
28.282
Malaysia
653
467
6.454
5.162
Singapore
557
505
6.880
5.228
Canada
496
388
11.952
9.675
Bồ Đào Nha
438
400
3.696
3.323
CH Nam Phi
420
448
7.046
5.937
Hungari
366
276
2.330
1.851
UAE
352
364
913
887
Thụy Sĩ
316
273
23.641
16.128
Bỉ
269
257
21.479
17.020
Trung Quốc
247
158
6.950
5.319
Trong niên vụ 2005/2006, ngoài cà phê nhân sống, Việt Nam cũng đã xuất khẩu được 869,7 tấn cà phê hòa tan, với trị giá hơn 2,77 triệu USD (bình quân đạt 3.190 USD/tấn). Số cà phê này được xuất sang 25 thị trường, trong đó Nhật Bản là 232 tấn, Hoa Kỳ: 192 tấn, Đài Loan: 141,5 tấn, Đức: 104,6 tấn. Theo xu hướng mới, cà phê chè (Arabica) tuy chưa nhiều nhưng cũng đã góp phần đáng kể vào việc nâng giá trị và chủng loại sản phẩm của ngành hàng cà phê Việt Nam, nhờ giá xuất khẩu chênh đáng kể so với cà phê vối (Robusta).
Đến nay, sản phẩm cà phê nhân của Việt Nam cũng đã xuất sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, đặc biệt nhất là việc một số nước sản xuất cà phê tương đối lớn ở Mỹ Latinh như Ecuador, Mexico, Peru, Nicaragua..., cũng đã mua sản phẩm của Việt Nam.
Thống kê báo cáo tình hình xuất khẩu cà phê Việt Nam trong Quý II năm 2007 cũng cho thấy, trong top 10 nước nhập khẩu lớn nhất, CHLB Đức đứng hàng đầu với 114.483 tấn, tiếp đến là Tây Ban Nha: 88.527 tấn, Hoa Kỳ: 87.932 tấn, Italia, Ba Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Bỉ và Pháp. Thị trường truyền thống Nga và Đông Âu cũng có dấu hiệu phục hồi, trong đó Nga nhập 14.175 tấn, Romania: 7.576 tấn và Bulgaria: 5.343 tấn, Slovenia: 3.417 tấn, Estonia: 3.199 tấn, Czech: 3.064 tấn.
Ngoài ra, các nước thuộc khối ASEAN cũng ngày càng tiêu thụ nhiều hơn sản phẩm cà phê của Việt Nam. Bạn hàng trong khối ASEAN dần trở nên quen thuộc hơn với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, khi Philippines nhập 16.547 tấn, Malaysia nhập 12.367 tấn, Singapore nhập 5.690 tấn, Indonesia nhập 806 tấn.
Dưới đây là bảng thống kê thị trường xuất khẩu cà phê trong tháng 3 và 3 tháng đầu năm 2007 (lấy theo nguồn tin của Vinanet):
Tên nước
ĐVT
Tháng 3/2007
3 tháng 2007
Lượng
Trị giá (USD)
Lượng
Trị giá (USD)
Ấn Độ
Tấn
852
1.083.272
1.161
1.400.935
Anh
Tấn
4.470
6.448.636
21.729
30.742.361
Áo
Tấn
206
344.976
262
434.832
Ba Lan
Tấn
2.369
3.438.455
8.942
12.849.838
Bỉ
Tấn
4.795
7.149.106
18.501
27.167.482
Bồ Đào Nha
Tấn
953
1.490.983
1.986
3.096.142
Tiểu VQ Arập TN
Tấn
991
1.373.694
1.336
1.908.537
Canađa
Tấn
909
1.353.871
1.865
2.745.036
Đài Loan
Tấn
106
163.045
262
427.894
Đan Mạch
Tấn
376
532.644
886
1.274.308
CHLB Đức
Tấn
25.982
37.140.603
70.287
102.553.942
Extônia
Tấn
384
525.971
Hà Lan
Tấn
5.027
7.355.389
13.753
20.215.900
Hàn Quốc
Tấn
3.823
5.430.993
8.130
11.453.615
Hồng Kông
Tấn
73
114.048
217
328.789
Hungary
Tấn
216
222.371
709
959.554
Hy Lạp
Tấn
484
728.082
1.378
2.055.205
Indonêsia
Tấn
14.960
21.615.845
26.389
38.048.390
Italia
Tấn
12.630
18.908.082
42.562
63.027.692
Malaysia
Tấn
2.510
3.666.046
5.841
8.304.248
Mỹ
Tấn
15.660
22.608.078
56.016
80.778.659
CH Nam Phi
Tấn
398
523.979
2.404
3.349.444
Niu Zi Lân
Tấn
96
141.600
480
680.640
LB Nga
Tấn
3.073
4.428.280
7.851
11.368.938
Nhật Bản
Tấn
6.470
9.789.756
14.514
21.906.011
Ôxtrâylia
Tấn
1.705
2.449.597
4.988
7.048.865
Phần Lan
Tấn
292
421.921
Pháp
Tấn
3.202
4.645.974
11.876
16.819.751
Philippin
Tấn
1.861
2.537.533
3.346
4.710.534
CH Séc
Tấn
84
113.337
336
474.876
Singapore
Tấn
1.948
2.593.63
4.143
5.536.231
Slôvenhia
Tấn
826
1.239.312
2.362
3.529.362
Tây Ban Nha
Tấn
12.375
18.257.866
33.836
49.187.793
Thụy Điển
Tấn
315
465.360
672
992.544
Thụy Sĩ
Tấn
12.678
17.105.248
55.194
76.678.568
Trung Quốc
Tấn
1.344
1.989.313
3.542
4.990.411
Từ những con số ngày càng lớn ở trên về sản lượng và thị trường xuất khẩu ở trên ta thấy cà phê Việt Nam đang ngày một chiếm lĩnh thị trường thế giới và thực tế là đã chi phối phần không nhỏ đến giá cả của cà phê xuất khẩu trên thế giới.
2.1.3. Những điểm yếu trong hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Đứng thứ 2 trên thế giới về sản lượng cà phê xuất khẩu, được đánh giá là một trong 20 mặt hàng có sức cạnh tranh cao của Việt Nam nhưng khi cạnh tranh trên thị trường thế giới thì ngành sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam lại bộc lộ nhiều yếu điểm.
Theo tổng kết của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Hội nghị Nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu vừa diễn ra vào tháng 8/2007, trong 17 năm qua, có đến 9 năm cà phê chỉ có giá trị từ 420 – 1000 USD/tấn, chiếm 54%. Như vậy, cà phê Việt Nam thuộc nhóm giá trung bình thấp, hiệu quả sản xuất cà phê còn khá hạn chế.
Cà phê Việt Nam được toàn thế giới biết đến bởi năng suất cao nhất thế giới, hương vị tuyệt vời nhưng gần đây lại bị chê là chất lượng kém xa chuẩn quốc tế. Phần lớn cà phê Việt Nam xuất khẩu là cà phê Robusta (tức cà phê vối) có các tạp chất trong cà phê là bụi bám, vỏ cà phê, cùi cà phê do chưa được sàng quạt sạch ở nhà máy chế biến. Theo thông tin từ Hiệp hội Cà phê – Ca cao, niên vụ cà phê 2005 – 2006, tại cảng AntWerp, Vương quốc Bỉ, đã có hơn 600.000 bao cà phê Việt Nam bị loại thải, chiếm 72% lô hàng xuất khẩu của Việt Nam và chiếm trên một nửa tổng số cà phê bị loại. Cùng lúc đó, ở 10 cảng khác của châu Âu, hơn 1 triệu trong số 1,4 triệu bao cà phê của Việt Nam đã bị loại.
Nguyên nhân của việc cà phê Việt Nam xuất khẩu bị đánh giá thấp như vậy xuất phát từ nhiều phía.
Sai lầm đầu tiên mà ta nhìn thấy đó là trong khâu đánh giá chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam còn kém. Việc đánh giá chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện được mô tả đơn giản hơn hẳn tập quán quốc tế, và lại tồn tại đã 10 năm nay. Khi đó Việt Nam còn chủ yếu bán cà phê cho các nước châu Á lân cận, khách hàng mua dưới dạng nguyên liệu và tái xuất. Đơn giản nhất, khâu thử nếm của Việt Nam chỉ ''khi có yêu cầu'' trong khi quốc tế là bắt buộc, tạp chất theo quy định Việt Nam là 1% trong khi quốc tế là 0,2%. Chất lượng không được nâng cao trong khi hàng hoá qua các nhà nhập khẩu trung gian vẫn đi thẳng tới thị trường tiêu thụ. Đến lúc này, các điểm yếu của chất lượng cà phê Việt Nam mới bộc lộ, gây hậu quả lớn về kinh tế lẫn uy tín cho ngành cà phê Việt Nam. Bởi thế, người mua thường mua hàng Việt Nam với giá thấp hơn so với cà phê của Braxin, Indonesia...
Ngoài ra, người nông dân còn chưa có ý thức tạo sản phẩm tốt, sản phẩm tốt hay xấu đều bán được cho các cơ sở chế biến mà giá cả không chênh lệch. Nông dân hiện nay thu hoạch cà phê có tới 60-70% là hái xanh, hái non, phơi sấy không đúng kỹ thuật. Một số doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu cà phê ở tỉnh Đăk Lăk cho biết khi tiến hành cuộc vận động để người dân sản xuất ra hạt cà phê có giấy chứng nhận, một số bà con trả lời rằng việc theo dõi sổ sách, ghi chép, kiểm tra hàng trăm chỉ tiêu từ giống đến phân bón, thu hái, phơi sấy khá phức tạp nên khi nào không có ai mua hàng nữa thì bà con mới làm theo. Dường như tập quán làm ăn manh mún, không có kỷ luật từ lâu nay của người nông dân Việt Nam là rất khó có thể sửa đổi, nó tác động không tốt đến việc thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
Các vấn đề nấm mốc, dư lượng thuốc trừ sâu trong sản phẩm đến nay vẫn chưa được các cơ quan quản lý nhà nước lẫn doanh nghiệp nhắc đến.
Vấn đề về thiếu công nghệ - bị lệ thuộc công nghệ cũng là nguyên nhân khiến cho cà phê Việt Nam xuất khẩu có chất lượng thấp. Công nghệ sơ chế của Việt Nam còn thiếu cà chưa đồng bộ, kết hợp với thói quen thu hoạch cà phê lẫn lộn quả xanh quả chín vì thế ngay cả khi công nghệ sơ chế tốt thì hạt cà phê xuất khẩu vẫn kém. Đây cũng là nguyên nhân khiến cho sản phẩm cà phê của nước ta còn khá đơn điệu, chủ yếu là cà phê vối nhân sống.
Cùng với việc người dân thực hiện thu hoạch không đúng qui định thì việc áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng đã cũ để đánh giá phân loại cà phê cũng góp phần tạo nên chất lượng không tốt cho cà phê xuất khẩu. Việc phân loại chất lượng cà phê của Việt Nam vẫn áp dụng theo tiêu chuẩn cũ TCVN 4193-93. Tiêu chuẩn này không xếp hạng số lỗi trong cà phê mà chỉ đánh giá theo ba chỉ tiêu sơ đẳng là hàm lượng ẩm, tỉ lệ hạt vỡ và tạp chất. Tiêu chuẩn mới TCVN 4193:2005 vẫn chưa được áp dụng, và do đó cho tới nay cà phê vẫn là loại hàng hóa chưa bị bắt buộc kiểm tra chất lượng trước khi thông quan. Đây là nguyên nhân khiến cho cà phê của Việt Nam khi xuất sang đến cảng nước ngoài đã bị trả lại do không phù hợp với tiêu chuẩn của nước nhập khẩu.
Khâu tổ chức thu mua trong nước chưa tốt, dẫn đến đầu vụ nhiều hộ nông dân, nhất là các hộ nghèo thường phải bán vội cà phê với giá thấp để trang trải kinh phí. Tâm lý bán vội cà phê, kết hợp với việc thu hái không đảm bảo quy trình, nên cà phê bán ra thị trường bị ép giá, chất lượng thấp.
Hệ thống thu mua cà phê hình thành một cách tự phát, chủ yếu là các đại lý tư nhân, hệ quả là khi giả cả thị trường biến động mạnh, dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ các đại lý tới các nhà xuất khẩu.
Nhìn chung với tiềm lực về nhân công, về điều kiện tự nhiên như của nước ta hiện nay thì thực trạng của hoạt động sản xuất và xuất khẩu cà phê là còn chưa tương xứng. Chính vì thế mà việc thúc đẩy họat động xuất khẩu cà phê trong điều kiện đất nước hội nhập như hiện nay là một việc rất quan trọng.
2.2. Những khó khăn đối với ngành xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong điều kiện gia nhập WTO.
Gia nhập WTO, đối với ngành sản xuất, xuất khẩu cà phê nói riêng và với toàn bộ họat động ngoại thương của Việt Nam nói chung thì sự kiện này vừa đem lại nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đầy rủi ro và thách thức. Bước vào một sân chơi bình đẳng, không phân biệt nước giàu nước nghèo tất cả đều phải theo một khuôn khổ chung, đặc biệt là nền kinh tế của Việt Nam còn chưa hoàn toàn theo cơ chế thị trường thì dường như những thách thức và rủi ro nhiều hơn là cơ hội. Điều này buộc bản thân các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động ngoại thương và nhà nước phải có những chiến lược, chính sách hết sức cụ thể và phù hợp nhất để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu cũng như phát triển nền kinh tế bền vững. Tìm hiểu về những khó khăn đối với ngành cà phê Việt Nam trong điều kiện hội nhập chúng ta rút ra được 7 điểm như sau:
Trước hết là về chính sách thuế, hiện nay hầu hết chính sách thuế của các nước nhập khẩu cà phê chính rất bất lợi đối với nước ta. Bởi chúng ta không nằm trong số những nước được ưu tiên về thuế quan đối với các sản phẩm cà phê hòa tan khi tham gia vào các thị trường truyền thống như Mỹ, Nhật Bản và EU… Các nước này áp dụng thuế nhập khẩu gần như bằng 0% đối với hầu hết các nước xuất khẩu cà phê ở Châu Mỹ. Trong khi đó mức thuế này hiện áp dụng đối với Việt Nam là từ 2,6% đến 3,1%. Bên cạnh đó, nhiều nước sử dụng hàng rào phi thuế quan như biện pháp bảo hộ ngành công nghiệp chế biến cà phê trong nước (hạn ngạch nhập khẩu và thuế tiêu thụ cao)… Đây là những rào cản rất lớn đối với các DN Việt Nam khi thâm nhập trực tiếp vào các thị trường này và buộc phải xuất khẩu qua các công ty trung gian ở các nước được hưởng mức thuế quan ưu đãi hơn. Cùng với các rào cản về thuế và hạn ngạch như vậy còn có các rào cản kỹ thuật, yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, các biện pháp chống bán phá giá (biện pháp này tuy ngành cà phê chưa gặp phải nhưng cũng cần phải phòng tránh) cũng gây khá nhiều trở ngại cho hoạt động xuất khẩu cà phê của Việt Nam.
Thứ hai là chiến lược phát triển ngành cà phê trong tổng thể ngành nông nghiệp Việt Nam. Hiện nay, các mục tiêu đề ra đối với ngành cà phê Việt Nam trong những năm tới chưa được đặt trong bối cảnh phát triển chung của ngành nông nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế Việt Nam. Vì vậy, ngành cà phê phát triển một cách rời rạc, thiếu tính nhất quán và thống nhất, không nhận được sự hỗ trợ tích cực từ chiến lược phát triển của ngành nông nghiệp của cả nước. Nguyên nhân gây ra khó khăn này một phần là do tập quán nông nghiệp từ bao đời nay của người dân Việt Nam tạo nên. Sở dĩ Việt Nam có điểm xuất phát thấp từ một nước có nền nông nghiệp lạc hậu, từ xưa người dân đã canh tác riêng lẻ và tự phát. Không chỉ có ngành cà phê mà ngay cả về gạo mặc dù là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của nước ta nhưng hoạt động sản xuất gạo vẫn chưa hoàn toàn tập trung chuyên canh vào một vùng nào đó mà còn rải rác trên khắp cả nước. Vì vậy để ngành cà phê Việt Nam phát triển qui hoạch tập trung, nhất quán và thống nhất thì còn cần một thời gian khá dài và đòi hỏi sự kiên trì của các cấp các ngành và sự hỗ trợ của nhiều ngành khác có liên quan.
Thứ ba là các chính sách của các cơ quan chức năng ban hành còn thiếu tính linh hoạt. Ví dụ như: Chính sách về tỷ giá hối đoái, chính sách tín dụng ưu đãi của Nhà nước… Đầu tiên là những quy định về vốn vay hiện nay chủ yếu quan tâm đến giá trị tài sản thế chấp hơn là khả năng sinh lợi của dự án vay. Hơn nữa, việc quy định lượng tiền vay không vượt quá một tỷ lệ % nhất định của giá trị tài sản cũng gây nhiều khó khăn cho người có nhu cầu vay vốn. Thiếu tài sản thế chấp là cản trở lớn nhất đối với những người trồng cà phê nghèo và các DN quy mô nhỏ. Tiếp theo là các thủ tục hành chính của các ngân hàng chưa thông thoáng, gây nhiều khó khăn cho người trồng, các chủ đại lý cũng như DN.
Thứ tư là vấn đề đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn nhanh nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Trong 10 năm qua, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng như giao thông, truyền thông, thủy lợi, điện, mặc dù đã có những chuyển biến đáng kể nhưng theo ý kiến của nhiều DN, tổ chức và cá nhân đều cho rằng việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng chưa tương xứng, chưa đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành hàng cà phê.
Thứ năm là hệ thống kiểm tra, giám sát tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm còn yếu kém và lạc hậu. Ở các nước có mức tiêu thụ cà phê lớn vấn đề kiểm tra và giám sát chất lượng, xuất xứ và thương hiệu của hàng hóa được đặc biệt chú ý thì công tác này ở Việt Nam bị coi nhẹ. Hiện tượng bán hàng giả dưới tên các thương hiệu nổi tiếng có xu hướng tăng lên. Điều này tạo nên những bất lợi đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ do chi phí để bảo vệ thương hiệu hàng hóa vượt quá sức của họ.
Thứ sáu là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê nước ta thiếu kinh nghiệm và kỹ năng tham gia thương mại thế giới. Phần lớn các đơn vị chỉ thực hiện các giao dịch kinh tế quốc tế trong khoảng hơn 10 năm trở lại đây. Do đó nhiều chủ doanh nghiệp thiếu những kỹ năng cơ bản khai thác, xử lý tin tức và đàm phán thương mại.
Cuối cùng, Nhà nước chưa có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ thỏa đáng về vốn, công nghệ chế biến, kỹ thuật, bồi dưỡng cán bộ… để tạo điều kiện cho các DN xây dựng những “thương hiệu” mạnh mang tính chất bền vững. Những mặt hạn chế, khó khăn nói trên nếu không được nhận thức, chủ động khắc phục thì khi vào WTO các DN sẽ bị hụt hơi.
Chương III: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CÀ PHÊ TĂNG TRƯỞNG BỀN VỮNG VÀ ĐẠT HIỆU QUẢ CAO TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
3.1. Bài học từ kinh nghiệm phát triển ngành cà phê của Braxin.
Braxin là một quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ thế kỷ 17, phát tri
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ghfhgjh.doc