Mục lục
Lời Mở dầu 3
Chương I Những vấn đề cơ bản về khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 5
1. Tính tất yếu khách quan của hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. 5
1.1. Cơ sở của hội nhập kinh tế . 5
1.2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tê đối với Việt Nam. 6
2. Quá trình hình thành và phát triển của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA ). 9
2.1. Quá trình hình thành và phát triển. 9
2.2. Sự ra đời và những mục tiêu chính của AFTA. 10
2.3. Những quy định chung về AFTA-CEPT . 11
3. Những cơ hội và thác thức đối với nền kinh tế Việt Nam khi tham gia AFTA. 16
3.1. Những cơ hội thuận lợi cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA Những năm gần đây đầu tư của các nước ASEAN đang có xu hướng tăng nhanh. Sự tham gia của Việt Nam vào AFTA sẽ tạo ra thuận lợi cho sự phát triển kinh tế phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước 16
3.2. Những khó khăn và thách thức đặt ra cho Việt Nam khi tham gia vào AFTA-CEPT . 18
Chương II Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT 20
1. Quá trình thực hiện cam kết của Việt Nam với AFTA-CEPT . 20
1.1. Các hoạt động chuẩn bị để thực hiện CEPT/ AFTA của Việt Nam. 20
1.2. Về tổ chức. 20
1.3. Về lịch trình cắt giảm thuế tổng thể. 21
1.4. Các biện pháp phi thuế quan. 23
1.5. Trong lĩnh vực hải quan. 24
2. Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình thực hiện lộ trình AFTA-CEPT . 27
2.1. Tình hình kim ngạch xuất khẩu từ 1986 đến nay. 27
2.2. Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng. 29
2.3. Tình hình xuất khẩu theo thị trường. 31
2.4. Những tác động khi tham gia AFTA tới xuất khẩu của Việt Nam 33
3. Đánh giá chung về tình hình xuất khẩu của Việt Nam từ khi tham gia AFTA-CEPT đến nay. 35
3.1. Những kết quả đạt được. 35
3.2. Những hạn chế và nguyên nhân. 35
Chương III Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA - CEPT 37
1. Quan điểm xuất khẩu của Việt Nam. 37
2. Một số biện pháp chủ yếu thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT 37
2.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá 38
2.2. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng các mặt hàng chế biến. 39
2.3. Thực hiện tốt công tác đào tạo cán bộ và cung cấp thông tin 40
3. Một số kiến nghị với nhà nước . 41
3.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách 41
3.2. Thống nhất các tiêu chuẩn quốc gia của Việt Nam, đáp ứng được và hài hoà với các tiêu chuẩn quốc tế. 46
Kết luận 48
Tài liệu tham khảo 49
52 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2536 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong điều kiện thực hiện lộ trình AFTA-CEPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đơn giản thủ tục nhập khẩu thì giá cả hàng hoá sẽ giảm. Hiện nay hàng hoá Việt Nam còn chịu nhiều loại thuế khác nhau, nhiều chi phí khác không cần thiết đã góp phần đẩy giá lên. do đó, giá cả của hàng hoá Việt Nam thường cao hơn rất nhiều so với giá cả hàng hoá của các nước khác là thành viên của ASEAN. Vấn đề trước mắt là ta phải chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu những hàng hoá nằm trong danh mục cắt giảm thuế CEPT thì các doanh nghiệp Việt Nam mới có điều kiện phát triển, có lợi về giá cả khi xuất khẩu sang ASEAN.
Để hội nhập về kinh tế và mậu dịch với ASEAN, một thách thức không nhỏ đặt ra cho Việt Nam là xây dựng một chính sách quản lý nhà nước thích hợp nhằm đảm bảo tự do hoá thương mại nhưng không làm mất đi chức năng quản lý nhà nước về thương mại, xoá bỏ những thủ tục hành chính rườm rà, quan niêu,không hiệu quả, cần có sự nghiên cứu các hiệp định, chương trình hợp tác trong ASEAN tận dụng những cơ hội tốt để có những giải pháp cụ thể phù hợp với tình hình và chủ trương phát triển kinh tế trong nước …
tham gia afta, Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách nhưng thực sự không ảnh hưởng lớn, trong danh mục cắt giảm thuế có tới 57% mặt hàng hiện có mức thuế từ 0-5%, trong đó hơn một nửa là thuế suất 0%. Điều đó có nghĩa là trên thực tế hầu như chúng ta đã hoàn tất việc cắt giảm rồi, số mặt hàng có miền thuế đến 20% chỉ chiếm tỷ trọng 17¸21%
Tóm lại, nhìn tổng thể vào sự đóng góp vào ngân sách nhà nước thì AFTA sẽ tạo nên sự hẫng hụt trong ngân sách nhà nước. Việt Nam tham gia AFTA-CEPT chúng ta cần ý thức rõ những thuận lợi, cơ hội và những khó khăn thách thứcđể đề ra những quyết sách thích hợp với đường lối đổi mới của đất nước, nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và khu vực.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ
CỦA VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN THỰC HIỆN
LỘ TRÌNH AFTA-CEPT
Quá trình thực hiện cam kết của Việt Nam với AFTA-CEPT .
Các hoạt động chuẩn bị để thực hiện CEPT/ AFTA của Việt Nam.
Hiệp định CEPT được các nước thành viên thoả thuận và ký kết từ năm 1992, song việc thực hiện thực sự chỉ bắt đầu từ tháng 01/01/1994. Như vậy, các nước ASEAN có khoảng thời gian là 2 năm để chuẩn bị tất cả các vấn đề có liên quan.Còn đối với Việt Nam, công việc nghiên cứu chuẩn bị cho việc gia nhập thực hiện Hiệp định CEPT thực sự được bắt đầu từ giữa năm 1995. Thời gian chuẩn bị như vậy là rất bị động, nhất là nếu liên hệ với thời gian chúng ta phải bắt đầu từ việc tổ chức các Bộ ngành có liên quan nghiên cứu, xây dựng các Danh mục hàng hoá. Theo chương trình CEPT để trình lên Ban thư ký ASEAN vào tháng 12/1995. Tuy nhiên, được sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của Chính phủ, cùng sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan, chúng ta đã hoàn thành những nghĩa vụ bước đầu của một thành viên ASEAN tham gia AFTA.
Về tổ chức.
Việt Nam là nước tham gia sau, trình độ phát triển còn thấp xa so với các nước ASEAN khác và hầu hết các ngành kinh tế còn non yếu, mặt khác thuế nhập khẩu còn là nguồn thu quan trọng của ngân sách, nên việc xây dựng và đưa ra danh mục hàng hoá cắt giảm thuế, danh mục các biện pháp phi thuế quan, các nội dung hợp tác hải quan để thực hiện CEPT …Ngoài yêu cầu phải phù hợp với hiệp định CEPT, về nguyên tắc đều phải cố gắng đạt được các mục tiêu sau:
Không gây ảnh hưởng lớn đến nguồn thu ngân sách
Kéo dài đến mức có thể sự bảo hộ hợp lý đối với sản xuất trong nước để có thêm thời gian chuẩn bị đối phó với những thách thức của AFTA.
Tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Tranh thủ ưu đãi để mở rộng thị trường cho xuất khẩu và thu hut đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở các mục tiêu đặt ra. Việt Nam đã từng bước thực hiện CEPT . Cụ thể về tổ chức :
Ngày 15/11/1995 tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM), Việt Nam đã công bố Danh mục giảm thuế đợt một áp dụng từ 01/01/1996.
Ngày 10/02/1995, tại Hội nghị Hội đồng AFTA, Việt Nam đã công bố nguyên tắc là cam kết cắt giảm thuế cho toàn bộ quá trình 1996-2006.
Ngày 18/12/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/CP quy định việc cải cách thuế quan, thực hiện CEPT.
Ngày 02/04/1996 Bộ Tài chính thành lập cơ quan AFTA quốc gia của Việt Nam với chức năng là cơ quan đầu mối của Việt Nam thực hiện, giải quyết các vấn đề liên quan đến AFTA.
Cũng trong năm 1996, Việt Nam công bố Danh mục thực hiện giảm thuế CEPT trong năm 1997.
Ngày 12/03/1998, Danh mục hàng hoá Việt Nam thực hiện CEPT do Bộ Tài chính xây dựng đã được Chính phủ thông qua và ban hành kèm Nghị định số 15/1998/ NĐ-CP.
Đầu năm 1998, Bộ Tài chính công bố 1.717 mặt hàng tham gia CEPT năm 1998, đồng thời chuẩn bị Danh mục thuế năm 1999, xem xét để giảm bớt một số mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời.
Năm 2000, Bộ Tài chính đã công bố lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể của Việt Nam để thực hiện CEPT/AFTA cho giai đoạn năm 2001-2006.
Về lịch trình cắt giảm thuế tổng thể.
Phù hợp với quy định của ASEAN, căn cứ vào tình hình đặc thù của Việt Nam, Việt Nam nhìn chung không áp dụng tiến trình cắt giảm nhanh. Tuy nhiên đối với những sản phẩm hiện đang có thuế suất trong khoảng từ 0-5% tức là đã thoả mãn mục tiêu của CEPT, ta có thể xếp vào loại thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh.
Trong 2 năm 1996-1997, Việt Nam sẽ không thực hiện cắt giảm mà chỉ đưa các sản phẩm đạt mục tiêu của CEPT ( có thuế suất 5% trở xuống) vào thực hiện hiệp định. Đối với những sản phẩm có thuế suất cao hơn 5% trong danh mục cắt giảm thuế quan hướng thực hiện bước cắt giảm đầu tiên thực tế chỉ bắt đầu từ 1998 để đảm bảo cho nguồn thu và hỗ trợ một phần cho sản xuất trong nước.
Trong 2 năm 1996-1997, Việt Nam thực hiện bước 2 của cải cách thuế, trong đó đối với chính sách thuế áp dụng cho hàng nhập khẩu, Việt Nam sẽ thực hiện việc phân tích 2 loại thuế là thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hiện cũng đánh trên hàng nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu hiện nay, trước khi tiến hành việc cắt giảm thuế nhập khẩu thực sự từ 1998 . Do đó, mức thuế nhập khẩu phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại sẽ là thấp so với mức phải giảm nếu không có sự phân tích hai loại thuế trên.
Có thể nói Việt Nam thực hiện rất ngiêm túc và rất thậm trọng việc giảm thuế quan, để tránh ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và làm giảm được giá hàng nhập khẩu góp phần cải thiện điều kiện kinh doanh và tiêu dùng trong nước còn các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi khi xuất khẩu hàng hoá sang các nước ASEAN.
Các Danh mục hàng hoá thực hiện CEPT của Việt Nam được xây dựng tuân theo nguyên tắc chỉ đạo của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và công bố với các nước ASEAN ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA cụ thể như sau:
Bảng 3: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam năm 1995
Danh mục hàng hoá
Số nhóm mặt hàng chịu thuế
Tỷ lệ %
Giảm thuế ngay
1633
54,1
Loại trừ tạm thời
1189
39,5
Loại trừ hoàn toàn
65
5,5
Nhạy cảm
26
0,9
Tổng
3013
100
Nguồn: Ban thư ký ASEAN
Đến tháng 02/1998, các Danh mục trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam thay đổi do việc phân loại hàng hoá vào các Danh mục thực hiện CEPT và thực hiện thống nhất biểu thuế quan.
Bảng 4: Danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam từ
1996-1998
Danh mục hàng hoá
Tổng số các nhóm hàng chịu thuế
1996
1997
1998
Giảm ngay
857
1497
1661
Loại trừ tạm thời
1189
1143
1317
Nhạy cảm
26
26
26
Loại trừ hoàn toàn
146
146
213
Tổng
2218
2812
3217
Nguồn: Bộ tài chính và Ban thư ký ASEAN
Đến năm 2003, tổng các mặt hàng được đưa vào danh mục các mặt hàng cắt giảm ngay(IL) là 4230 dòng thuế, trong đó 2960 dòng có thuế suất 0-5%. Dự kiến có khoảng 1940 dòng thuế thuộc danh mục loại trừ tạm thời được chuyển vào cắt giảm năm 2001-2003 để đến năm 2006 thuế suất nhập khẩu toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA dúng theo cam kế 0-5% Nguồn: Trần Cao Thành- khu vực mậu dịch tự do Đông nam á, hội nhập của Việt Nam –Tạp chí Nghiên cứ Đông Nam á 2/2003
Các biện pháp phi thuế quan.
Ở nước ta, các biện pháp phi thuế quan bao gồm những biện pháp hạn chế số lượng mặt hàng, hạn ngạch, giấy phép, các tiêu chuẩn kỹ thuật. Những hạn chế về số lượng và hạn ngạch được thể hiện trong quy định của Chính phủ về các mặt hàng xuất nhập khẩu. Trong đó những mặt hàng cấm xuất nhập khẩu là những mặt hàng để bảo đảm an ninh xã hội, sức khoẻ con người, bảo vệ nguồn tài nguyên quý hiểm và môi trường. Các mặt hàng có liên đến cân đối của nền kinh tế quốc dân Chính phủ sẽ quy định khối lượng được phép nhập và phân bổ hạn mức nhập khẩu như: tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng tiêu dùng không được vượt quá 20% giá trị xuất hàng năm. Ngoài ra, Chính phủ cũng đưa ra những nhóm hàng thuộc diện quản lý theo bộ chuyên ngành và những nhóm hàng quản lý bằng hạn ngạch. Cho đến nay, Việt Nam chỉ áp dụng hạn ngạch đối với 2 nhóm hàng là gạo và dệt may xuất khẩu vào EU và Canada do đó năm 2001 sẽ là năm tất cả các hàng vào phi thuế quan phải được loại bỏ đối với các sản phẩm trong Danh mục này của Việt Nam.
Vào đầu mỗi năm Việt Nam ban hành một thông tư hướng dẫn vào các hạn chế định hướng sẽ được áp dụng. Tuy nhiên, Việt Nam đã sẵn sàng đệ trình một Danh mục chính thức về các hạn chế định lượng cho ban thư ký ASEAN. Các hạn chế định lượng cần được loại bỏ ngay với một số các hàng hoá trong Danh mục giảm thuế ngay của Việt Nam đã đệ trình cho ASEAN vào năm 1995 để các mặt hàng này được hợp pháp hoá hưởng các ưu đãi theo CEPT.
Còn về các hàng rào phi thuế quan khác, việc thực hiện cam kết bãi bỏ theo CEPT sẽ rất khó về tính bảo thủ, thiếu lành mạnh của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, một bản thảo Danh sách các hàng rào phi thuế liên quan.Trong đó nhiều nhóm mặt hàng quan trọng với lịch trình cắt giảm mang tính chất bảo hộ có vẻ đã làm chậm đi tiến trình thực hiện cam kết xoá bỏ hàng rào phi thuế quan theo CEPT. Các hàng rào về tiêu chuẩn kỹ thuật về đảm bảo vệ sinh môi trường và sức khoẻ hiện nay vẫn đang được tiếp tục áp dụng cho các hàng hoá trong Danh mục giảm ngay.
Việt Nam đã cam kết đệ trình sớm danh mục các hạn chế về số lượng(QRS) và các biện pháp phi thuế quan khác(NTBS) xong do các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam đơn giản chủ yếu là các biện pháp như : giấy phép hay hạn ngạch trong khi đó các biện pháp phi thuế quan mà các nước ASEAN khác đang áp dụng lại rất đa dạng đặc biệt là các biện pháp về tổ chức kỹ thuật và chất lượng là những biên pháp phức tạp và tinh vi mà ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng, cho nên để đáp ứng được yêu cầu bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, trước mắt Việt Nam cần phải gấp rút ban hành bổ sung các biện pháp phi thuế quan tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng, nhất là các biện pháp mà trong tương lai có thể không bị loại bỏ trước khi chúng ta đệ trình danh mục các biện pháp phi thuế quan của ta cho ASEAN và tiến hành loại bỏ chúng.
Trong lĩnh vực hải quan.
Việt Nam cũng đã hợp tác và đang đàm phán với các nước ASEAN trên một loạt các vấn đề như : điều hoà thống nhất danh mục biểu thuế quan, điều hoà thống nhất trị giá hải quan, điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan, lập luồng xanh để thông qua nhanh cho các sản phẩm của CEPT, đặc biệt là tiến lới hiệp định hải quan ASEAN sẽ ký kết.
* Thống nhất biểu thuế quan
Việt Nam có nghĩa vụ xem xét lại hệ thống phân loại thuế quan của mình sao cho phù hợp với quy định của hiệp định hợp tác hải quan. Theo đó các nước thành viên khối ASEAN sẽ sử dụng biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác hải quan hệ 8 chữ số. Biểu thuế quan điều hoà ASEAN (AHTN) được hy vọng sẽ có khoảng 6400 nhóm mặt hàng khi ASEAN hoàn thành.
Việc thống nhất Danh mục phân loại hàng hoá xuất nhập khẩu năm 1992 của Việt Nam (hệ 6 chữ số) với biểu 8 chữ số được bắt đầu từ năm 1995 và được thực hiện vào năm 1996 (như một phần của quá trình chuẩn bị để trở thành thành viên ASEAN, tham gia ASEAN. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khác biệt lớn giữa hệ thống phân loại thuế hiện nay của Việt Nam và biểu thuế quan điều hoà HS 8 chữ số. Điều này là do việc phân loại một số mặt hàng của Việt Nam dựa trên việc sử dụng chứ không phải kiểu mặt hàng. Trong những trường hợp này, cần có những ghi chú, giải thích đi kèm các mã số hải quan và những vấn đề của việc giải thích đã dẫn tới các thủ tục hành chính rườm rà và mâu thuẫn nhau.
Theo các quan chức Chính phủ cho biết thì Việt Nam hiện đang làm việc trên cơ sở phân loại thuế quan được sưả đổi phù hợp với AHTN và dự định sẽ sớm đưa vào áp dụng.
* Thống nhất hệ số tính giá hải quan.
Việc tính giá hải quan (nghĩa là cách định giá trị hàng nhập khẩu của nước nhập) có 3 mục đích chính: Tính thuế nhập khẩu, thu nhập số liệu thống kê và quy định hạn ngạch, giấy phép nhập khẩu. Do vậy, để thực hiện được cải cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA các quốc gia cần thống nhất hệ thống tính giá hải quan. Hiện nay có 3 phương pháp tính giá hải quan được các nước ASEAN áp dụng: gồm chính sách giá theo giá các giao dịch GATT (GATT Transactions Value - GTV) ,theo quy định giá Brussels (BDV), theo giá tiêu dùng trong nước (HCV).
Các quốc giá ASEAN đã đồng ý thực hiện việc định giá theo GVT vào năm 1997 và Việt Nam năm 2000.
Trong khi đó, hiện nayViệt Nam đang áp dụng đồng thời phương pháp tính BDV, GTV và cả hệ thống giá tham khảo (bảng giá tối thiếu để tính thuế) cho một số nhóm hàng nhất định hệ thống giá tham khảo là giá tối thiểu sử dụng để tính trị giá thuế. Việc chuyển sang hệ thống GTV là rất khó khăn đối với Việt Nam vì sự tồn tại các hoạt động gian lận thương mại quốc tế. Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng của việc thống nhất cách tính giá hải quan, Việt Nam đã xây dựng kế hoạch áp dụng GTV. Hiện nay, Tổng cục Hải quan cũng đang trong quá trình nghiên cứu và đào tạo các nhân viên của mình về Hiệp định định giá GATT (GVT)
* Thống nhất thủ tục hải quan
Các quốc gia ASEAN gồm cả Việt Nam đã đồng ý áp dụng mẫu tờ khai hàng hoá ASEAN chung và bộ thủ tục hải quan chung dựa trên các tập quán quốc tế tốt nhất.
Ở nước ta do sự thiếu đồng nhất và việc sử dụng bảng giá tham khảo trong định giá hải quan đã làm cho việc thống nhất các thủ tục hải quan trở nên rất khó khăn. Việt Nam vẫn chưa áp dụng tờ khai hải quan chung ASEAN vì thiếu hệ thống mã số hoàn chỉnh trên toàn quốc và hệ thống quản lý thiếu hoàn thiện. Do vậy, để áp dụng mẫu này, Việt Nam đã và đang cải thiện hệ thống đánh mã số, đào tạo cán bộ hải quan và hệ thống mới và cải thiện hoạt động quản lý.
* Tham gia xây dựng hệ thống luồng xanh hải quan
Việt Nam bắt đầu tham gia hệ thống luồng xanh hải quan vào ngày 01/01/1996 như các quốc gia ASEAN khác. Mục tiêu hiện nay của Việt Nam là xem xét và rà soát lại việc thực hiện để tìm những cách thức cải thiện hệ thống. Theo nguồn tin Chính phủ, trong năm 1996 chỉ có 100 giấy chứng nhận xuất xứ được ban hành để tham gia hệ thống này. Nguyên nhân chủ yếu là do khoản lợi chênh lệch giữa thuế suất thông thường và thuế suất CEPT rất nhỏ (ở Việt Nam hiện nay hai thuế suất này hầu như bằng nhau), không đủ để khuyến khích các nhà xuất nhập khẩu tham gia hệ thống này.
* Thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật
Bộ khoa học công nghệ và môi trường chịu trách nhiệm quản lý các tiêu chuẩn đo lượng và quản lý chất lượng. Cho đến nay, Việt Nam đã ban hành hơn 5000 tiêu chuẩn hiệu quả. Việt Nam cũng đã thống nhất các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các chứng nhận tiêu chuẩn theo hướng và các tiêu chuẩn của tổ chức tiêu chuẩn thế giới (ISO). Việt Nam cũng đang trong tiến trình áp dụng những hướng dẫn của Uỷ ban cố vấn ASEAN về tiêu chuẩn và chất lượng (ACCSQ). Các điều luật quy định về tiêu chuẩn vệ sinh của Việt Nam đã được ban hành từ năm 1993.
* Phụ phí hải quan
Các nước ASEAN quyết định các quốc gia thành viên ASEAN phải có lịch trình xoá bỏ các phụ phí hải quan vào cuối năm 1996. Việt Nam có 2 nhóm hàng phải chịu phụ phí hải quan là thép xây dựng nhập khẩu và hạt điều nhập khẩu. Theo các quan chức Chính phủ, phụ phí này sẽ được loại bỏ trong tương lai.
Thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong quá trình thực hiện lộ trình AFTA-CEPT .
Tình hình kim ngạch xuất khẩu từ 1986 đến nay.
Chiến lược phát triển kinh tế hướng về xuất khẩu trong những năm qua của Việt Nam đã thu được những thành tựu đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng năm thời kỳ 1990-1999 đạt 20%, được xếp vào mức cao nhất thế giới (xấp xỉ Trung Quốc).Từ chỗ chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu nhập quốc dân (GDP) 24% năm 1991, đến nay xuất khẩu đã chiếm gần 50% (2002). Nếu như năm 1992 tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt xấp xỉ 2tỷ USD thì đến năm 2002 đã đạt 16,5 tỷ USD, gấp gần 8 lần so với năm 1992. năm 2003 đạt khoảng 20 tỷ USD nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu trong 8 năm(1996-2003) đạt 17,5%/năm; gấp 2,5 lần so với tốc độ tăng trưởng bình quân của GDP.
Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các thị trường lớn trên thế giới như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, ASEAN …
Có thể nói trong 18 năm đổi mới xuất khẩu của Việt Nam đã trở thành trụ cột của nền kinh tế và là động lực tăng trưởng kinh tế chủ yếu, xuất khẩu cũng góp phần vào việc giải quyết các vấn đề cấp bách của xã hội như : giải quyết công ăn viẹc làm, xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình chuyển sang kinh tế thi trường và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi của thị trường thế giới.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu qua các năm.
Năm
Xuất khẩu ( triệu USD)
Tốc độ tăng (%)
1991
2087,1
-13,2
1992
2580,7
23,7
1993
2985,2
15,7
1994
4054,3
35,8
1995
5448,9
34,4
1996
7255,9
33,2
1997
9185,0
26,6
1998
9360,3
1,9
1999
11541,4
23,3
2000
14482,7
25,5
2001
15027,0
3,8
2002
16705,8
11,2
2003
19880,0
19,0
Nguồn : Số liệu bộ Thương Mại
Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%).
Năm
1995
2000
2001
2002
2003
Hàng công nghiệp và khoáng sản
25,3
37,2
34,9
31,2
30,9
Hàng công nghiệp và tiểu thủ CN
28,5
33,9
35,7
38,3
40,0
Hàng nông, lâm sản
34,8
18,8
17,3
18,4
17,9
Hàng thuỷ sản
11,4
10,2
12,1
12,1
11,2
Biểu đồ 1 Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng năm 2003
Hàng công nghiệp nặng và khoáng sản
Hàng công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp
Hàng nông
lâm
sản
Hàng thuỷ sản
Tình hình xuất khẩu theo mặt hàng.
Giai đoạn trước 1989 : Việt Nam chưa có dầu thô và gạo để xuất khẩu nên tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước chưa bao giờ vượt quá 1 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu chung hàng nông-lâm-hải sản có xu hướng giảm dần, hàng công nghiệp nặng và khoáng sản có xu hướng tăng dần, hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp không thay đôi. Bắt đầu từ năm 1989, kim ngạch xuất khẩu của ta đạt trên 1 tỷ USD do các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt hàng dầu thô, điều này làm tỷ trọng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản lại có chiều hướng tăng lên trong thời kỳ này từ 0,8% năm 1986 lên 15,6% năm 1990
Giai đoạn 1991-1995: xu hướng hàng công nghiệp nặng và khoáng sản vẫn tiếp tục tăng cao nhất là năm 1992 chiếm 37% kim ngạch xuất khẩu của nước, sau đó là sự lên ngôi của mặt hàng dệt may, chế biến hải sản và giày dép xuất khẩu. Như vậy, kinh tế nước ta đang ở trong giai đoạn mở đầu để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp , giai đoạn để nền công nghiệp khởi động bằng lợi thế về địa lý, về nhân lực…làm cho nền kinh tế tăng trưởng theo hướng xuất khẩu.
Giai đoạn 1996-2000: Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam có sự thay đổi tích cực xong sự chuyển dịch này vẫn còn chậm. Năm 1996 cơ cấu mặt hàng nông lâm hải sản và công nghiệp nặng, khoáng sản chiếm 71,6% . năm 2000 tỷ trọng này là 62,%. Riêng đối với hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng nhanh năm 1997 nhưng có xu hướng trững lại ở năm 1998và 1999. Đến năm 2000 tỷ trọng này đạt tới 37,9% trong cơ cấu xuất khẩu của cả nước.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, đã hình thành một số mặt hàng chủ lực. Năm 1991 đó là 4 mặt hàng: dầu thô, thuỷ hải sản, gạo, dệt may. Năm 2000 có thêm 8 nặt hàng: cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả, chúng sẽ là các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh của Việt Nam trong những năm tới.
Năm 2001 cà fê và hạt tiêu vẫn giữ vị trí cao trên thế giới. Gạo trở lại vị trí số hai thế giới sau Thái Lan, Dệt may tăng mạnh, năm 2001 chưa tới 2 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,6 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Thuỷ sản đến tháng 10/2000 mới đạt 1 tỷ USD thì năm 2002 vượt 2 tỷ USD, năm 2003 dù gặp khó khăn vẫn đạt 2,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tôm vào Nhật dứng thứ nhì sau Indonexia…
Bảng: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong những năm qua.
Mặt hàng
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Dầu thô(nghìn tấn)
8750,0
9638,0
12145,0
14881,9
15423,5
16731,6
16879,0
17169,0
Dệt may(triệu tấn)
1150,0
1503,0
1450,0
1746,2
1891,9
1975,4
2752,0
3630,0
Giày dép(triệu USD)
530,0
978,0
1031,.0
1387,1
1471,7
1578,4
1867,0
2225,0
Thuỷ sản(triệu USD)
697,0
782,0
858,0
973,6
1478,5
1816,4
2023,0
2217,0
Gạo(nghìn tấn)
3003,0
3575,0
3730,0
4508,3
3476,7
3721,0
3241,0
3820,0
Cà fê(nghìn tấn)
284,0
392,0
382,0
482,0
733,9
931,0
719,0
700,0
Điện tử máy tính (triệu USD)
585
788,6
695,6
505,0
686,0
Thời báo kinh tế Việt Nam 2003-2004
Bảng: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu theo nhóm hàng(%)
Mặt hàng chủ lực
2000
2001
2002
2003
Dầu thô
24,2
20,8
19,6
19,0
Dệt may
13,1
13,1
16,5
18,3
Giày dép
10,2
10,6
11,2
11,2
Thuỷ sản
10,2
12,1
12,1
11,2
Gạo
4,6
4,1
4,3
3,6
Điện tử, máy tính
5,4
4,7
2,9
3,5
Sản phẩm gỗ
2,0
2,2
2,6
2,8
Cà phê
3,5
2,6
1,9
2,4
Cao su
1,1
1,1
1,6
1,9
Thủ công mỹ nghệ
2,0
2,1
2,0
1,8
Dây điện và dây cáp điện
0,0
1,2
1,1
1,5
Hạt điều
1,2
1,0
1,3
1,4
Than đá
0,6
0,8
0,9
0,9
Sản phẩm nhựa
0,7
0,8
0,9
0,9
Xe đạp và phụ tùng xe đạp
-
-
0,9
0,8
Rau quả
1,5
2,3
1,2
0,8
Hạt tiêu
1,0
0,6
0,6
0,5
Cộng 17 mặt hàng
81,3
80,1
81,5
82,4
Nguồn Thời báo kinh tế Việt Nam phần kinh tế năm 2003-2004
Tình hình xuất khẩu theo thị trường.
Tính tới thời điểm năm 2000, Việt Nam có quan hệ Thương Mại với 160 quốc gia và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định Thương Mại với 61 nước và đã có thoả thuận về đối xử tối huệ quốc(MFN) với 72 nước.
Một trong những thành tựu to lớn trong 18 năm qua là Việt Nam đã vượt qua được cuộc khủng hoảng khi từ tưởng truyền thống không còn nũa, ,đảm bảo được yêu cầu xuất khẩu hàng hoá.Thay vào thị trường liên xô -đông âu, châu á nay đã nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ,năm 1991 tỷ trọng của thị trường này chiếm 77% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong hai năm sau đó do khai thông thị trường Đông âu và Bắc mỹ, tỷ trọng của thị trường châu á có giảm xuống nhưng vẫn duy trì ở mức trên dưới 60%tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU nói riêng và châu âu nói chung tăng đều qua các năm. Năm 1991 tỷ trọng xuất khẩu vào EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng đến năm 2000 đã là 21,7%.
Quan hệ thương mại với bắc mỹ, trong đó chủ yếu là mỹ đã có bước phát triển nhanh kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1995. Lúc đó kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 170 Triệu USD đến năm 2000 đã đạt 732,44 triệu USD, chiếm tỷ trọng 5,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước hơn hẳn con số 3,1% năm 1995. Triển vọng ở thị trường này rất lớn nhất là khi Việt Nam đã ký hiệp định Thương Mại với Mỹ và được hưởng quy chế quan hệ Thương Mại bình thường. Xuất khẩu sang thị trường châu Đại Dương cũng được tăng lên khá nhanh, tỷ trọng của thị trường này từ chỗ chỉ chiếm 0,2% năm 1991 lêm 8,89% năm 2000.
Bảng:Những bạn hàng lớn của Việt Nam 10 tháng năm 2003.
Tên nước và vùng lãnh thổ
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Xuất siêu(+) nhập siêu(-)
Mỹ
3401,5
1030,0
+2371,5
Nhật
2354,3
2495,0
-140,7
CHND Trung Hoa
1331,5
2496,1
-1164,6
Australia
1159,5
221,9
+937,6
Singapore
860,1
2335,2
-1475,1
Đức
674,9
479,7
+195,2
Đài Loan
607,6
2317,5
-1709,9
Anh
604,9
177,9
+427,0
Indonesia
413,7
459,9
-46,2
Hà lan
398,7
302,6
+96,1
Nguồn số liệu bộ Thương Mại-Thời báo kinh tế Việt Nam .
Những tác động khi tham gia AFTA tới xuất khẩu của Việt Nam
Cũng giống như các nước thành viên khác, AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế tập chung quan niêu bao cấp kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu xuất khẩu chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô và thuế nhập khẩu còn là một nguồn thu quan trọng của ngân sách. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA từ 1/1/1996 bằng việc đưa ra 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT , xong tất cả các mặt hàng này đều ở khung thuế suất 0-5%. Mặt khác chúngta cũng chưa đệ trình cho ASEAN danh mục các biện pháp phi thuế quan để tiên hành loại bỏ chúng nên có thể nói thực tế đến nay AFTA vẫn chưa tác động mạnh mẽ đến Việt Nam. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó trước mắt cũng như lâu dài AFTA đã tác động tới xuất khẩu của Việt Nam như thế nào? Những thuận lợi và khó khăn trước mắt của xuất khẩu Việt Nam khi tham gia vào AFTA ?
Thuận lợi.
Việc tham gia AFTA sẽ giúp hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam san
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DATV1039.doc