Đề án Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào công ty con ở Việt Nam và một số kiến nghị

MỤC LỤC

Trang

LỜI NÓI ĐẦU 1

I.Những vấn đề chung về các khoản đầu tư vào công ty con. 2

1. Những khái niệm cơ bản. 2

1.1) Khái niệm công ty mẹ. 2

1.2) Khái niệm công ty con. 4

1.3) Tập đoàn. 4

1.4) Báo cáo tài chính hợp nhất. 4

2) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty mẹ, công ty con. 5

2.1) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty mẹ. 5

2.2) Quyền hạn, trách nhiệm của công ty con. 6

3. Những vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất. 6

II. Hạch toán các khoản đầu tư vào công ty con theo chế độ hiện hành. 7

1.Tài khoản sử dụng. 7

1.1) Tài khoản sử dụng. 7

1.2) Kết cấu và nội dung của tài khoản 221- Đầu tư vào công ty con. 8

1.3) Hạch toán Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con cần tôn trọng một số quy định sau 9

2. Phương pháp hạch toán một số các nghiệp vụ đầu tư vào công ty con. 9

III. Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào công ty con ở Việt Nam và một số kiến nghị. 11

1. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công ty con. 11

2. Thực trạng công tác hạch toán đầu tư vào công ty con. 15

3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ hạch toán các khoản đầu tư vào công ty con. 20

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2369 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào công ty con ở Việt Nam và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vốn đầu tư mà công ty mẹ đầu tư vốn trực tiếp hoặc gián tiếp vào các công ty con. Các khoản đầu tư này được phản ánh ở TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (2) Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con a) Đổi tên Tài khoản 221 “Đầu tư chứng khoán dài hạn” thành Tài khoản 221 “Đầu tư vào công ty con”. b) Nội dung, kết cấu, phương pháp kế toán của Tài khoản 221 “Đầu tư vào công ty con”. Tài khoản 221 dùng để phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động khoản đầu tư vốn vào công ty con. Khoản đầu tư vào công ty con bao gồm: (1). Cổ phiếu doanh nghiệp là chứng chỉ xác nhận vốn góp của công ty mẹ vào công ty con hoạt động theo loại hình công ty cổ phần. Cổ phiếu có thể gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Công ty mẹ là chủ sở hữu cổ phiếu thường tại Công ty con có quyền tham gia Đại hội cổ đông, có thể ứng cử và bầu cử vào Hội đồng quản trị, có quyền biểu quyết các vấn đề quan trọng về sửa đổi, bổ sung điều lệ, phương án kinh doanh, phân chia lợi nhuận theo quy định trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp. Công ty mẹ là chủ sở hữu cổ phiếu được hưởng cổ tức trên kết quả hoạt động kinh doanh của công ty con, nhưng đồng thời chủ sở hữu cổ phiếu cũng phải chịu rủi ro khi công ty con thua lỗ, giải thể (hoặc phá sản) theo điều lệ của doanh nghiệp và Luật phá sản doanh nghiệp. (2). Khoản đầu tư vốn vào công ty con hoạt động theo loại hình công ty Nhà nước, công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác. 1.2) Kết cấu và nội dung của tài khoản 221- Đầu tư vào công ty con. Bên Nợ: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con tăng. Bên Có: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con giảm. Số dư bên Nợ: Giá trị thực tế các khoản đầu tư vào công ty con hiện có của công ty mẹ. Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con, có 2 tài khoản cấp 2: - Tài khoản 2211 - Đầu tư cổ phiếu: Phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại cổ phiếu đầu tư vào công ty con của công ty mẹ. -Tài khoản 2212 - Đầu tư khác: Phản ánh giá trị hiện có và tình hình biến động của các loại đầu tư khác vào công ty con của công ty mẹ. 1.3) Hạch toán Tài khoản 221 - Đầu tư vào công ty con cần tôn trọng một số quy định sau (1). Vốn đầu tư vào công ty con phải được phản ánh theo giá gốc, bao gồm giá mua cộng (+) các chi phí mua (nếu có), như: Chi phí môi giới, giao dịch, lệ phí, thuế và phí Ngân hàng... (2). Kế toán phải mở sổ chi tiết theo dõi khoản đầu tư vào từng công ty con theo mệnh giá, giá thực tế mua cổ phiếu, chi phí thực tế đầu tư vào các công ty con... (3). Phải hạch toán đầy đủ, kịp thời các khoản thu nhập từ công ty con (lãi cổ phiếu, lãi kinh doanh) của năm tài chính vào báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ. Cổ tức, lợi nhuận được chia từ công ty con được hạch toán vào doanh thu hoạt động tài chính hàng năm của công ty mẹ. 2. Phương pháp hạch toán một số các nghiệp vụ đầu tư vào công ty con. (Theo thông tư hướng dẫn thực hành chuẩn mực số 21) (1) Khi công ty mẹ mua cổ phiếu hoặc đầu tư vào công ty con bằng tiền theo cam kết góp vốn đầu tư, hoặc mua khoản đầu tư tại công ty con, căn cứ vào khoản tiền thực tế đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 111 - Tiền mặt; hoặc Có TK 112 - Tiền gửi Ngân hàng Có TK 341 - Vay dài hạn. Đồng thời mở sổ chi tiết ngoài Bảng cân đối kế toán để theo dõi từng loại cổ phiếu theo mệnh giá (nếu đầu tư vào công ty con bằng mua cổ phiếu của công ty con). (2) Nếu có chi phí phát sinh về thông tin, môi giới, giao dịch mua, bán trong quá trình mua cổ phiếu, hoặc thực hiện đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có các TK 111, 112, ... (3) Trường hợp chuyển khoản đầu tư vào công ty liên kết, liên doanh, công cụ tài chính thành khoản đầu tư vào công ty con, ghi: Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 222 - Vốn góp liên doanh, hoặc Có TK 223 - Đầu tư vào công ty liên kết Có TK 228 - Đầu tư dài hạn khác Có TK 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn khác. (4) Cuối năm tài chính nhận được thông báo chia cổ tức, lãi kinh doanh, hoặc nhận được tiền về các khoản lãi được chia từ công ty con, ghi: Nợ TK 111, 112 Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng; hoặc Nợ TK 221 - Đầu tư vào công ty con (Trường hợp lãi được chia để lại tăng vốn đầu tư vào công ty con - nếu có) Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính. (5) Khi chuyển đổi khoản đầu tư vào công ty con thành khoản đầu tư vào công ty liên kết, hoặc trở thành khoản đầu tư là công cụ tài chính, ghi: Nợ TK 121 - Đầu tư chứng khoán ngắn hạn Nợ TK 223 - Đầu tư vào công ty liên kết Nợ TK 228 - Đầu tư dài hạn khác Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (6) Khi thu hồi, thanh lý vốn đầu tư vào công ty con, phát sinh lỗ về thu hồi vốn đầu tư, ghi: Nợ các TK 111, 112 Nợ TK 131 - Phải thu khách hàng Nợ TK 635 - Chi phí tài chính (đối với các khoản lỗ đầu tư không thể thu hồi) Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con. (7) Khi thu hồi, thanh lý vốn đầu tư vào công ty con, phát sinh lãi về thu hồi vốn đầu tư, ghi: Nợ các TK 111, 112 Nợ TK 138 - Phải thu khác Có TK 221 - Đầu tư vào công ty con Có TK 515 - Doanh thu hoạt động tài chính (đối với các khoản chênh lệch lãi đầu tư thu hồi) III. Thực trạng hạch toán hoạt động đầu tư vào công ty con ở Việt Nam và một số kiến nghị. 1. Thực trạng hoạt động đầu tư vào công ty con. Hiện nay, trên thế giới, mô hình công ty mẹ - con không phải là điều gì mới mẻ. Nhiều tập đoàn đa và xuyên quốc gia lớn đều áp dụng mô hình này do những ưu điểm của nó. Các nước trên thế giới áp dụng theo 2 dạng mô hình về công ty mẹ - con: Thứ nhất là, công ty mẹ chỉ đầu tư cho công ty con về tài chính (holding company). Theo dạng này thì mối liên hệ giữa công ty mẹ và công ty con chỉ thông qua đầu tư tài chính. Tuy nhiên phải thấy rằng sự sản sinh của mô hình công ty mẹ và con không phải do luật pháp hoặc những quyết định hành chính, dựa trên ý muốn chủ quan của nhà nước hay một yêu cầu quản lý duy ý chí. Một doanh nghiệp kinh doanh ở một mức độ chín muồi nào đó thường có nhu cầu mở rộng kinh doanh hoặc phát triển theo chiều sâu nào đó. Nó hoặc là có nhu cầu mở rộng mặt hàng, mở rộng thị trường, hoặc muốn tham gia nhiều hơn vào các công đoạn tạo ra giá trị của một mặt hàng (như khai thác nguyên liệu, vận tải hoặc phân phối). Có những ví dụ rất thực tế về vấn đề này.  Lấy nước Mỹ làm thí dụ. Những năm từ 1880 trở đi ở đó đã có rất nhiều công ty hoạt động trong những ngành công nghiệp khác nhau. Họ là nguồn cung trong nền kinh tế. Khi số cung nhiều thì giá hàng sẽ giảm và lợi tức sẽ ít đi. Để chống lại mối nguy này, các công ty sản xuất các công đoạn khác nhau của một sản phẩm (dầu khí) kết hợp lại với nhau theo các loại hợp đồng để lập nên một sự phối hợp hành chính hầu giảm phí tổn và mở rộng sản xuất. Đó là sự tập trung theo hàng dọc mà mục đích cuối cùng là dẹp bớt các doanh nghiệp khác. Riêng các công ty khác nhau cùng kinh doanh một mặt hàng (thực phẩm, thuốc lá) họ cũng ký kết hợp đồng nhằm kiểm soát giá cả và lượng hàng bán ra. Đó là sự tập trung theo chiều ngang. Xin hình dung hai loại kết hợp này như những đường thẳng và chúng dính với nhau như những chữ “T” mà sẽ được áp đặt trên nền kinh tế. Tập trung như thế là “hạn chế kinh doanh” và luật pháp của Mỹ bèn đánh vào chúng. Khi bị đánh, các đường thẳng kia, mỗi loại, bèn uốn cong lại thành một hình tròn và trở thành công ty mẹ con. Vậy là sự phát triển sản xuất tạo nên các công ty mẹ con. Quá trình từ đường thẳng thành đường tròn đã diễn ra như  thế này : một người có uy tín trong các công ty thẳng hàng lập ra một công ty mới, hay là chính họ biến đổi đi, họ rủ các công ty khác đứng trong hàng bán cổ phần cho nó; nó thành mẹ; sau đó nó bỏ tiền mua cổ phần của các công ty đã góp vốn vào; thế là có con. Điều diễn ra thực sự là sự chuyển dịch tài sản trên giấy tờ, còn mỗi công ty vẫn hoạt động như cũ nhưng với một tên mới. Công ty mẹ chỉ có tiền bỏ vào các công ty con; không có máy móc gì, chẳng sản xuất chi, nên luật pháp không thể đánh nó được. Thế nhưng nó phối hợp được công việc kinh doanh của các công ty con. Một kỳ tích của sự lách luật! Và công ty mẹ được gọi là “holding company”. Về sau luật lệ cho phép loại công ty này ra đời. Ngày nay, công ty holding được lập theo hai cách. Một là thành lập ngay từ đầu theo luật, với chức năng là góp vốn vào các công ty khác. Hai là một người đầu tư mua lại một công ty sản xuất đang hoạt động; sau đó sáp nhập nó với một công ty cùng ngành để mở rộng ra. Khi có thừa tiền, thay vì trả cổ tức cho cổ đông thì công ty bỏ tiền vào các công ty hoạt động trong các ngành khác. Tiếp theo nó có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán để có tiền mua vốn của nhiều công ty khác nữa, biến tất cả thành công ty con. Lúc này công ty mẹ vừa sản xuất, vừa bỏ tiền đầu tư. Một ngày nào đó, nó bán phần sản xuất đi và trở thành công ty holding. Đây là trường hợp của Công ty Berhshire Hathaway của ông Warren Buffet ở Mỹ. Giống như Vinamilk đang làm hiện nay. Khi công ty mẹ góp vốn vào thì có quyền quản trị ở công ty con. Quyền kia nhiều hay ít tùy theo số tiền bỏ vào. Mẹ có thể bỏ theo hai cách: một là trên 51% số vốn của con; hai là khoảng 5-49%. Để phân biệt hai cách bỏ vốn, hoặc  nắm quyền này, thì người ta gọi công ty con mà có 51% vốn của mẹ là “subsidiary” còn loại kia là “associate”. Do nhu cầu phát triển nhanh của nền kinh tế thị trường, phục vụ cho việc chuyên môn hoá sâu, hợp tác rộng ở Việt Nam hiện nay đã hình thành khá nhiều công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ-con, tuy vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Mô hình công ty mẹ- công ty con ở Việt Nam rất đa dạng về hình thức. Có thể là công ty mẹ sở hữu 100% vốn của công ty con, hoặc công ty mẹ có quyền chi phối ở công ty con thông qua cổ phấn hoặc vốn góp… ngoài ra ở Việt Nam hiện nay có nhiều tổng công ty nhà nước đang chuyển đối sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ- công ty con và đã đạt được những kết quả ban đầu rất khả quan, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Điển hình là sự thành công của các Tổng công ty chuyển đổi sang mô hình công ty mẹ- công ty con như: Công ty Dệt May Hà Nội (Hanosimex), Tổng công ty hoá chất Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất (VINACHEM), Tổng Công ty Bia-Rượu- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco)… Ở Tổng Công ty Bia-Rượu- Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco). Sau một năm chuyển sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con, Sabeco đã đạt kỷ lục cả về doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách Nhà nước; các chỉ tiêu này đều tăng bình quân từ 15,52% đến 18,65% so với kế hoạch. Theo ông Văn Thanh Liêm, Phó Tổng giám đốc phụ trách kinh doanh của Sabeco, tính ưu việt của mô hình này là chuyên ngành hơn. Trước kia, mạnh ai nấy sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ nên dẫn đến cạnh tranh lẫn nhau trong nội bộ. Nay công ty mẹ quản lý đầu ra; các công ty con tự chủ, bình đẳng trong kinh doanh, giảm được phí trung gian, chất lượng sản phẩm ổn định... Công ty Xây lắp điện 3, sau khi chuyển sang hoạt động theo mô hình mẹ-con, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 23,8%, doanh thu các hoạt động kinh doanh khác tăng 78%; hoàn thành đúng tiến độ, yêu cầu các công trình lớn như đường dây 500 KV Phú Mỹ-Nhà Bè-Phú Lâm, Pleiku-Phú Lâm... Vinamilk, sau hơn một năm cổ phần hóa có hiệu quả, đã được bán tiếp 15% phần vốn Nhà nước tại DN, dự kiến huy động thêm được 500 tỉ đồng vốn; thí điểm thành công mô hình phân phối mới, sản lượng sản phẩm bán ra tăng 30%... Chính phủ đã ban hành những nghị định 111/2007/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty Nhà nước, công ty nhà nước độc lập, công ty mẹ là công ty nhà nước hoạt động theo hình thức công ty mẹ-công ty con hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Nghị định này thay thế Nghị định 153/2004/NĐ-CP ngày 9/8/2004 của Chính phủ về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình công ty mẹ- công ty con. Một trong những điểm mới của Nghị định 111/2007/NĐ-CP là không quy định công ty liên doanh là đơn vị thành viên do tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối. Theo đó, khoản 3 Điều 6 quy định, các đơn vị thành viên do tổng công ty nắm giữ cổ phần, vốn góp chi phối chỉ gồm: công ty cổ phần, công ty TNHH có cổ phần, vốn góp chi phối của tổng công ty hoạt động theo Luật Doanh nghiệp và các doanh nghiệp do tổng công ty giữ cổ phần, vốn góp chi phối được thành lập ở nước ngoài, tổ chức và hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. So với Nghị định 153/2004/NĐ-CP, Chương III của Nghị định 111/2007/NĐ-CP quy định rõ hình thức công ty mẹ-công ty con đối với công ty mẹ là công ty nhà nước (mục 1) khác với công ty mẹ là công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (mục 2). Cụ thể, quy định về hình thức công ty mẹ-công ty con với công ty mẹ là công ty nhà nước chỉ áp dụng đối với các tổng công ty nhà nước, công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập đã chuyển đổi sang hình thức công ty mẹ-công ty con theo Nghị định 153/2004/NĐ-CP. Các quy định tại mục này chủ yếu không thay đổi so với các quy định tại Chương III, Nghị định 153/2004/NĐ-CP. Theo đó, công ty mẹ có cơ cấu quản lý gồm Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc. Khác với quy định cũ, căn cứ vào đặc điểm, quy mô, số lượng công ty con hoạt động tại các địa bàn trong và ngoài nước, chủ sở hữu công ty quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của công ty mẹ theo mô hình Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc), Kiểm soát viên hoặc mô hình Chủ tịch công ty, Giám đốc, Kiểm soát viên (Mục 2, Chương III, Nghị định 111/2007/NĐ-CP). Theo quy định cũ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án chuyển đổi của các Tổng công ty, công ty sau khi có ý kiến đề nghị của Hội đồng thẩm định (Điều 35, Nghị định 153/2004/NĐ-CP). Khác với quy định trên, Điều 41, Nghị định 111/2007/NĐ-CP quy định: người quyết định thành lập tổng công ty, công ty nhà nước độc lập, công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc tổng công ty là người phê duyệt đề án chuyển đổi, quyết định lộ trình, việc chuyển đổi tổng công ty, công ty và phê duyệt điều lệ công ty mẹ. 2. Thực trạng công tác hạch toán đầu tư vào công ty con. Trước hết phải nói đến phương pháp kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên báo cáo tài chính của công ty mẹ, vì báo cáo tài chính (BCTC) là báo cáo quan trọng của công ty mẹ, công ty con trong mô hình này. Trên thực tế luôn luôn tồn tại một số phương pháp kế toán các khoản đầu tư vào công ty con, đó là phương pháp giá vốn và phương pháp vốn chủ sở hữu. Theo phương pháp giá vốn, giá phí hợp nhất kinh doanh được phản ánh trên tài khoản đầu tư vào công ty con và giữ nguyên không thay đổi cho đến khi thanh lý toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư vào công ty con hoặc khi có sự giảm giá (tổn thất) đáng kể đối với khoản đầu tư này. Doanh thu hoạt động tài chính do đầu tư vào công ty con trên BCTC của công ty mẹ được xác định trên cơ sở số cổ tức được công ty con chính thức công bố phân phối và tỷ lệ quyền lợi kinh tế của công ty mẹ trong vốn chủ sở hữu của công ty con. Như thế, số lợi nhuận thuần hoặc số lỗ trong kỳ của công ty con không ảnh hưởng trực tiếp đến số doanh thu của hoạt động đầu tư vào công ty con được ghi nhận trên sổ sách kế toán của công ty mẹ trong kỳ đó. Theo phương pháp vốn chủ sở hữu, giá vốn hợp nhất kinh doanh được phản ánh trên tài khoản đầu tư vào công ty con. Sau đó, tài khoản này được điều chỉnh tăng lên hoặc giảm xuống tuỳ thuộc vào số lợi nhuận thuấn hoặc số lỗ của công ty con trong kỳ, số phân bổ chênh lệch giữc giá hợp lý và giá ghi sổ tài sản-nợ phải trả của công ty con tại thời điểm hợp nhất, số phân bổ lợi thế thương mại phát sinh, số lợi nhuận hoặc lỗ chưa thực hiện phát sinh từ những nghiệp vụ nội bộ trong tập đoàn phân bổ cho công ty mẹ và số cổ tức công ty mẹ được hưởng trong kỳ. Như thế, phương pháp này ghi nhận doanh thu hoạt động tài chính do đầu tư vào công ty con theo số lợi nhuận được công ty con thực hiện chứ không phải số cổ tức được công ty này phân phối hay công bố phân phối trong kỳ; do đó, phương pháp vốn chủ sở hữu phù hợp với phương pháp kế toán dồn tích. Ưu, nhược điểm của các phương pháp. Phương pháp giá vốn dựa tên cơ sỏ mối quan hệ pháp lý giữa công ty mẹ và công ty con. Cả công ty mẹ và công ty con là những thực thể pháp lý riêng biệt, doanh thu hoạt động đầu tư vào công ty con được ghi nhận trên sổ kế toán của công ty mẹ chỉ khi công ty con công bố chính thức phân phối cổ tức. Điều đó có nghĩa là khi gắn trách nhiệm pháp lý về việc phân phối cổ tức của công ty con đối với công ty mẹ thì doanh thu hoạt động tài chính đầu tư vào công ty con mới được công ty mẹ ghi nhận. Ngoài ra, phương pháp này đơn giản, giảm bớt công việc ghi chép trên sổ kế toán của công ty mẹ do loại bỏ các bút toán điều chỉnh theo yêu cầu của phương pháp vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, phương pháp giá vốn tồn tại hai nhược điểm cơ bản. Thứ nhất, phương pháp này không phản ánh thực chất kinh tế của công ty con vì số lợi nhuận thuần hoặc lãi trong kỳ của công ty con không được phản ánh trực tiếp trên BCTC của công ty mẹ trong kỳ đó. Do công ty mẹ có khả năng kiểm soát hoạt động kinh doanh và cả chính sách tài chính của công ty con nên công ty mẹ có thể phóng đại doanh thu tài chính từ hoạt động đầu tư vào công ty con bằng nhiều cách khác nhau; chẳng hạn, công ty mẹ có thể tạo sức ép với công ty con trong việc phân phối số cổ tức lớn cho dù lợi nhuận thuần trong kỳ của công ty này nhỏ hoặc công ty mẹ không phản ánh số lỗ mà công ty con phải gánh chịu trong kỳ. Nhược điểm này của phương pháp giá vốn bị chỉ trích ở chỗ nó không cung cấp cho các nhà đầu tư những thông tin kinh tế để đánh giá khả năng sinh lời và bức tranh tài chính có liên quan đến khoản đầu tư vào công ty con. Thứ hai, khi BCTC hợp nhất được lập rất nhiều thủ tục kế toán liên quan phải được thực hiện để xác đính số lợi nhuận theo phương pháp vốn chủ sở hữu. Phương pháp vốn chủ sở hữu cho phép các nhà đầu tư đánh giá được khả năng sinh lời và bức tranh tài chính có liên quan đến khoản đầu tư vào công ty con. Phương pháp này còn cho phép nhân viên kế toán lập BCTC hợp nhất tự kiểm tra số liệu được lập có chính xác hay không. Tuy nhiên, phương pháp vốn chủ sở hữu không thể hiện được mối quan hệ có tính pháp lý giữa công ty mẹ và công ty con trong một tập đoàn. Số lợi nhuận của công ty con được công ty mẹ phản ánh trên BCTC của công ty mẹ chưa chắc đã thực sự thu được nếu như công ty con phá sản. Ngoài ra, phương pháp này còn đòi hỏi nhiều bút toán điều chỉnh trên sổ kế toán của công ty mẹ. Áp dụng trong thực tế và yếu tố ảnh hưởng. Trong thực tế, việc áp dụng phương pháp vốn chủ sở hữu hay phương pháp giá vốn để kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC của công ty mẹ giữa các nước trên thế giới không giống nhau. Các doanh nghiệp Mỹ áp dụng cả hai phương pháp giá vốn và phương pháp vốn chủ sở hữu, còn các quốc gia như Nhật, Pháp chỉ áp dụng phương pháp giá vốn. Và Việt Nam áp dụng cả hai phương pháp trên. Mỗi một quốc gia lựa chọn phương pháp kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC của công ty mẹ căn cứ vào ưu, nhược điểm của mỗi phương pháp cũng như môi trường kế toán của quốc gia đó. Ở Mỹ, nền kinh tế chủ yếu là do các công ty cổ phần được đông đảo các cổ đông sở hữu, thị trường chứng khoán phát triển mạnh. Với đặc điểm trên, các BCTC của các công ty của Mỹ hướng tới và chủ yếu cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Với mục đích đó, BCTC hợp nhất được đặt ở vị trí đầu tiên, sau đó mới đến BCTC cá thể. Thực tế, Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ chỉ yêu cầu các tập đoàn phải nộp BCTC hợp nhất. Do các phương pháp kế toán khoản đầu tư vàp công ty con trên BCTC của công ty mẹ không ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng phản ánh trên BCTC hợp nhất của cả tập đoàn nên các công ty mẹ có thể tự do lựa chọn một trong hai phương pháp kế toán khoản đầu tư vào công ty con. Ngược lại, ở Nhật và Pháp hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự chi phối mạnh của Luật Thương mại, Luật thuế hơn là Luật Chứng khoán. Vì vậy, thông tin kế toán ở những quốc gia này phục vụ chủ yếu cho các nhà đầu tín dụng hơn là các nhà đâu tư. Nói cách khác, ở những quốc gia này, quan hệ gữa các công ty trong một tập đoàn về mặt pháp lý được nhấn mạnh. Chính vì vậy, phương pháp giá vốn được sử dụng ở những quốc gia này để kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC của công ty mẹ. Tóm lại, mỗi một phương pháp kế toán đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Ở mỗi một quốc gia, yêu cầu thông tin kế toán phục vụ cho các mục đích cũng khác nhau. Phương pháp kế toán khoản đầu tư vào công ty con trên BCTC cá thể của công ty mẹ cũng không nằm ngoài nhận định này. Điều đó khẳng định sự tồn tại của hai phương pháp kế toán khoản đầu tư trên BCTC của công ty mẹ là cần thiết. Hiện nay, trong chuẩn mực cũng như những văn bản pháp luật có liên quan chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa công ty mẹ-con là độc lập hay phụ thuộc về tài chính,nên một số công ty đã lợi dụng sơ hở này để kiếm lợi. Do một số chính sách ưu đãi về thuế đối với công ty mới thành lập nên công ty mẹ đã chuyển lợi nhuận về công ty con nhằm tránh thuế thu nhập doanh nghiệp tính trên khoản lợi nhuận đó. Nhiều doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng việc đầu tư vào công ty con để kiếm lợi nhuận siêu ngạch. Trong thời gian vừa qua, nhiều nhà đầu tư tổ chức (CTCK và các quỹ đầu tư) đã lên tiếng than phiền về vấn đề mở rộng mô hình tập đoàn liên quan đến việc góp vốn thành lập công ty con của những công ty mẹ mà họ đang đầu tư. Nhà đầu tư cá nhân có thể không nhìn thấy, nhưng các tổ chức đầu tư thì đã thấy “vấn đề” khi công ty mẹ (mà họ góp vốn) chia xẻ quá nhiều lợi ích đang có (hoặc sẽ có) cho công ty con (mới thành lập). Hãy xem ví dụ sau: bạn chọn cổ phiếu X với mong muốn đầu tư dài hạn (3-5 năm) vì được giới thiệu là Công ty X có 5 - 6 dự án trong lĩnh vực kinh doanh chủ chốt trong 5 - 7 năm tới. Tất cả những dự án này tạo nên kỳ vọng đẹp cho tương lai của DN với giả sử, bình quân mỗi dự án mang về khoảng 100 tỷ đồng lợi nhuận. Thế nhưng, sau khi bạn mua cổ phiếu, công ty X đưa ra một sáng kiến để giải quyết cho khó khăn về tài chính và nhân sự trong việc phải đáp ứng cả 5 - 6 dự án, đó là cùng một số đối tác góp vốn thành lập công ty con (Công ty X thường nắm 51% vốn). Hoạt động đầu tiên của công ty con chính là triển khai “giúp” công ty mẹ một vài dự án tốt nhất trong số những dự án mà công ty mẹ có. Như thế, toàn bộ chi phí phát sinh xây dựng dự án thì công ty mẹ hứng chịu, còn lợi ích trong các dự án mà công ty mẹ dày công xây dựng thì được chuyển sang công ty con một cách dễ dàng. Những cổ đông nhỏ đôi khi không để ý đến câu chuyện: liệu việc thành lập công ty con có thực sự cần thiết, hay chỉ là cách để công ty mẹ tạo điều kiện cho các đối tượng khác chen chân vào cùng hưởng lợi? Trở lại với con số lợi nhuận giả định trên, công ty mẹ sẽ chỉ còn thu được 51% lợi nhuận cho mỗi dự án, trong khi đó, toàn bộ chi phí ban đầu vẫn phải hứng chịu. Điều bất bình đẳng là những cổ đông mới tham gia góp vốn vào công ty con cũng được hưởng lợi ích ngang bằng với công ty mẹ, trong khi những gì mà công ty con có, ngoài việc đóng góp về tài chính, còn lại đều dựa vào uy tín, kinh nghiệm và kỹ thuật của “mẹ”. Nếu chỉ “chuyển” một hoặc hai dự án còn đỡ, nhưng khi nhiều dự án tốt được công ty mẹ tìm cách chia cho công ty con (ở công ty con có thêm nhiều đối tượng góp vốn mới) hoặc chuyển dự án về tổng công ty lớn hơn để “Tổng” quản lý giúp thì thật là thiệt thòi cho cổ đông gốc. Sự thiệt thòi này đã được một số nhà đầu tư nhận diện và bày tỏ bức xúc, nhất là khi những cổ đông sáng lập của công ty con có mối quan hệ mật thiết với một số thành viên của HĐQT công ty mẹ. Trong thời gian vừa qua, một vài mã cổ phiếu có hiện tượng rớt giá mạnh mà nếu nhìn vào những diễn biến thông thường, nhà đầu tư không thể giải thích được. Đại diện một số quỹ và CTCK cho biết, họ tẩy chay loại cổ phiếu mà CTCP phát hành thành lập công ty con rồi chuyển dự án tốt sang cho công ty mới, gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Theo ý kiến của các vị này, việc thành lập mới và chuyển dự án sang công ty con sẽ dễ được chấp nhận hơn nếu công ty mẹ góp vốn đến 70% hoặc cao hơn. Lập luận này dựa trên cơ sở những dự án mà công ty con tiếp nhận hoàn toàn dựa trên công sức của công ty mẹ, nên công ty mẹ phải được chia sẻ đa số lợi ích từ công ty con. Theo một số nhà phân tích tài chính, hiện tượng lập công ty con để tạo kênh hợp pháp chia sẻ lợi ích của công ty mẹ cho các đối tượng khác đang xảy ra ngày càng nhiều trên TTCK Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chính là tại nhiều DN, vốn Nhà nước vẫn chiếm tỷ lệ chi phối, cộng thêm kiến thức của nhà đầu tư cá nhân chưa đầy đủ, nên cứ thấy mở rộng hoạt động kinh doanh là đồng loạt ủng hộ. Kinh nghiệm của các quỹ đầu tư nước ngoài cho thấy, khi đầu tư vào các CTCP mô hình tập đoàn, các quỹ này phải yêu cầu trong thời hạn 5 đến 10 năm hoặc lâu hơn, công ty không được phép thành lập công ty con nếu công ty con có cùng hoạt động kinh doanh với công ty mẹ. Việc thành lập công ty con phục vụ hoặc hỗ trợ cho công ty mẹ là rất cần thiết, nhưng sẽ là p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36111.doc
Tài liệu liên quan