MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: KHÁI LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ 2
1.1) Bản chất của hoạt động Thẩm định giá: 2
1.2) Vai trò của Thẩm định giá trong nền kinh tế thị trường: 2
1.3) Cơ sở pháp lý cho hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 8
2.1) Sự cần thiết phát triển hoạt động Thẩm định giá ở nước ta hiện nay: 8
2.1.1) Xuất phát từ yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý giá phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế: 8
2.1.2) Thực tế trong thời gian vừa qua, hoạt động thẩm định giá đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường: 10
2.1.3) Xuất phát từ yêu cầu phải khắc phục những bất cập hiện tại để phát triển hoạt động thẩm định giá: 11
2.1.4) Kinh nghiệm các quốc gia khu vực và thế giới cho thấy thẩm định giá là một hoạt động cung ứng dịch vụ cho xã hội không thể thiếu của nền kinh tế thị trường: 12
2.2) Tình hình chung về hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 14
2.2.1) Hoạt động cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp thẩm định giá ( theo thời gian): 14
2.2.1.1) Giai đoạn 1997- 2002: 14
2.2.1.2) Giai đoạn 2003- 2005: 15
2.2.1.3) Giai đoạn từ 2005 đến nay: 16
2.2.2) Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá: 18
2.2.2.1) Đào tạo dài hạn: 18
2.2.2.2) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá và cấp thẻ thẩm định viên về giá: 19
2.3) Những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay: 22
2.3.1) Hạn chế về cơ sở pháp lý: 22
2.3.2) Hạn chế trong công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá: 24
2.3.3) Cơ sở vật chất, thông tin dữ liệu: 26
CHƯƠNG III: MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH GIÁ Ở VIỆT NAM 27
3.1) Tiềm năng phát triển hoạt động Thẩm định giá ở Việt Nam: 27
3.2) Mục tiêu phát triển hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam: 28
3.3) Giải pháp cụ thể: 29
3.3.1) Xây dựng hàng lang pháp lý: 29
3.3.2) Quản lý Nhà nước: 30
3.3.3) Đào tạo thẩm định viên về giá: 30
3.3.3.1) Đào tạo cử nhân thẩm định giá: 30
3.3.3.2) Về bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn: 32
3.3.4) Ngân hàng dữ liệu: 33
3.3.5) Hợp tác quốc tế: 33
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
39 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 8462 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong việc thi hành án… của các bên liên quan. Việc xác định đúng đắn giá trị của các nguồn lực, từng loại hình tài sản thuộc nguồn lực này là hết sức quan trọng, có ý nghĩa trong việc mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động giao dịch mua bán trên thị trường không phải bao giờ giá trị thị trường cũng xuất hiện và vận động đúng giá trị thị trường do các yếu tố độc quyền, móc ngoặc, đầu cơ, gian lận thương mại chi phối. Vì thế khi đầu tư, mua bán cả hai phía ( nguời mua và người bán) đều muốn có giá trị thị trường thực để ra quyết định mua bán, đầu tư. Do vậy, họ thỏa thuận cùng thuê một tổ chức thẩm định giá để xác định. Nhu cầu này đã xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng trên nhiều lĩnh vực của nước ta như: xác định giá trị tài sản mua sắm từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước, xác định giá trị tài sản để góp vốn, thế chấp, mua bán, chuyển nhượng… Điều đó đòi hỏi phải hình thành các tổ chức trung gian tài chính có đủ điều kiện cung cấp dịch vụ thẩm định giá theo quy định của pháp luật để xác định đúng giá trị thị trường của tài sản, phục vụ cho việc trao đổi giao dịch về tài sản, hàng hóa trên thị trường là hết sức cần thiết để góp phần tạo ra môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng, lãng phí, góp phần đề cao trách nhiệm và tinh thần tôn trọng kỷ cương, pháp luật của mọi người dân, mọi doanh nghiệp và làm cho kinh tế phát triển bền vững.
Những nhu cầu trên đã và đang đòi hỏi hoạt động thẩm định giá phải được phát triển cả về chất lượng cũng như số lượng, trở thành một hoạt động tư vấn dịch vụ mang tính chuyên nghiệp cao, độc lập, khách quan, trung thực, có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của Xã hội, phù hợp với chương trình hiện đại hóa ngành Tài chính và đòi hỏi của các tổ chức thẩm định giá quốc tế mà Việt Nam tham gia ( ngày 8/6/1997 Ban vật giá Chính phủ nay là Cục Quản lý giá thuộc Bộ tài chính đã gia nhập và là thành viên chính thức của Hiệp hội Thẩm định giá ASEAN; từ ngày 1/6/1998 tham gia Ủy ban tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế với tư cách là hội viên thông tấn).
2.1.2) Thực tế trong thời gian vừa qua, hoạt động thẩm định giá đã và đang trở thành yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường:
Từ khi Pháp lệnh giá ra đời, nhất là khi nghị định số 101/2005/ NĐ- CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá được ban hành, các cơ quan có thẩm quyền đã cho phép thành lập 47 công ty thẩm định giá đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá theo yêu cầu của pháp luật.
Qua quá trình hoạt động, thẩm định giá đã góp phần rất lớn vào việc xác định giá trị đất đai, tài nguyên, tài sản làm căn cứ để cơ quan có thẩm quyền phê duyệt các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, dự án đầu tư trong nước, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, dự toán cấp phát kinh phí mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước… Theo báo cáo của các doanh nghiệp thẩm định giá, kết quả thẩm định giá đã giúp tiết kiệm chi cho ngân sách Nhà nước khoảng 10- 15% giá trị thẩm định; góp phần tích cực vào việc ngăn chặn tiêu cực, lãng phí, thất thoát nguồn lực của Xã hội; làm cho hoạt động thị trường công khai minh bạch hơn.
2.1.3) Xuất phát từ yêu cầu phải khắc phục những bất cập hiện tại để phát triển hoạt động thẩm định giá:
Từ khi xuất hiện đến nay, bằng kinh nghiệm thực tiễn của các nước trong khu vực và trên thế giới đã cho thấy: để hoạt động thẩm định giá phát triển bền vững thì phải giải quyết rất nhiều vấn đề về pháp lý, tiêu chuẩn, xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin, đào tạo đội ngũ thẩm định viên chuyên nghiệp… Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, nghề thẩm định giá cũng đã ra đời và bước đầu phát triển. Hoạt động thẩm định giá đã có môi trường pháp lý thuận lợi dựa trên cơ sở một số luật quan trong như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật kinh doanh bất động sản, Pháp Lệnh giá… Đối với chuyên ngành thẩm định giá Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: quy định các phương pháp thẩm định giá phù hợp với tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế và ASEAN, xây dựng và ban hành được 12 tiêu chuẩn thẩm định giá; cho phép các loại hình doanh nghiệp nếu đủ điều kiện thì được tổ chức hoạt động thẩm định giá… Tuy nhiên trước những yêu cầu mới theo tinh thần Nghị quyết của Đảng là phải xây dựng các dịch vụ tài chính (trong đó có dịch vụ thẩm định giá) phát triển trở thành trung tâm của các nước trong khu vực thì thẩm định giá đang gặp những bất cập sau đòi hỏi phải được giải quyết đó là:
- Khung pháp lý cho hoạt động thẩm định giá còn thiếu và chưa đồng bộ, vì thế rủi ro nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá luôn có khả năng xảy ra.
- Số lượng đội ngũ thẩm định viên về giá còn ít, tính chuyên nghiệp còn hạn chế, trình độ chuyên môn nghiệp vụ chưa cao… Công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành thẩm định giá còn nhiều bất cập (chưa có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng dài hạn…).
- Số lượng các doanh nghiệp thẩm định giá thành lập theo quy định của pháp luật chưa nhiều, cơ cấu sản lượng dịch vụ thẩm định giá cung ứng chưa cân đối (chủ yếu thẩm định giá bất động sản và tài sản mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước)…
2.1.4) Kinh nghiệm các quốc gia khu vực và thế giới cho thấy thẩm định giá là một hoạt động cung ứng dịch vụ cho xã hội không thể thiếu của nền kinh tế thị trường:
Tại hầu hết các quốc gia, hoạt động thẩm định giá được quản lý theo quy định của pháp luật, các thẩm định viên về giá được hành nghề độc lập và hoạt động trong tổ chức theo mô hình Hiệp hội nghề nghiệp. Tuy tên gọi của Hiệp hội có khác nhưng về cơ bản các Hiệp hội này tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Xây dựng, ban hành và giảm sát chấp hành các quy định về thẩm định giá tài sản (trong đó có hệ thống tiêu chuẩn thẩm định giá tài sản).
- Quản lý hoạt động hành nghề của thẩm định viên và doanh nghiệp thẩm định giá.
- Đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ thẩm định viên.
- Bảo vệ quyền lợi chính đáng của hội viên; xử lý tranh chấp phát sinh trong việc thực hiện thẩm định giá của các Hội viên khi cung cấp dịch vụ thẩm định giá cho khách hàng.
- Nghiên cứu, xuất bản ấn phẩm, hội thảo.
- Hợp tác quốc tế.
Kinh nghiệm qua khảo sát thực tế ở một số nước trên thế giới (Hoa Kỳ, Úc, Trung Quốc, Anh, Canada….) và trong khu vực (Thái Lan, Singapo, Indonexia, Malaysia, Philipin…) cho thấy:
- Hoạt động thẩm định giá (đất đai, công trình kiến trúc, doanh nghiệp…) được coi là một nghề hình thành từ lâu và không thể thiếu được trong việc góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước.
- Có sự phân biệt rõ giữa thẩm định giá công (do đội ngũ công chức của chính phủ tiến hành, phục vụ Chính phủ thu thuế tài sản, đền bù thu hồi đất, xét xử của cơ quan tư pháp..) và thẩm định giá tư (do các doanh nghiệp tư vấn định giá tài sản tiến hành, phục vụ các giao dịch dân sự về tài sản công dân).
- Hoạt động thẩm định giá được quản lý theo quy định của pháp luật. Chính phủ một số nước giao Hiệp hội thẩm định giá thay mặt Chính phủ quản lý, giám sát hoạt động thẩm định giá, ban hành tiêu chuẩn thẩm định giá, thẩm định cấp giấy phép hành nghề thẩm định giá, đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá, quan hệ quốc tế về thẩm định giá, đào tạo nghiệp vụ thẩm định giá, quan hệ quốc tế về thẩm định giá…
- Thẩm định viên về giá được đào tạo bài bản, chính quy phân theo nhiều cấp trình độ khác nhau (cao học, đại học…) phù hợp với tiêu chuẩn, chuẩn mực của thế giới và khu vực. Thẩm định viên về giá thường có trình độ đại học thẩm định giá. Một số nước (Singaporre, Thái Lan…) còn đào tạo Thẩm định viên có trình độ chuyên sâu về từng lĩnh vực như: cử nhân về bất động sản, cử nhân quản lý bất động sản, cử nhân kinh tế học về bất động sản… Trong quá trình hành nghề, thẩm định viên phải thực hiện cập nhật kiến thức về thẩm định giá hàng năm theo các hình thức tổ chức lớp bồi dưỡng nghiệp vụ, hội thảo về thẩm định giá.
Tóm lại: thẩm định giá tài sản là một yêu cầu khách quan không thể thiếu được của nền kinh tế thị trường, khi nền kinh tế thị trường vận hành theo đúng các yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, các loại thị trường được hình thành đồng bộ thì nhu cầu về thẩm định giá tài sản của xã hội càng lớn…. Để đáp ứng yêu cầu của xã hội, của nền kinh tế thị trường, thẩm định giá tài sản phải trở thành một dịch vụ tư vấn mang tính chuyên nghiệp, độc lập, khách quan, đủ năng lực hoạt động.
2.2) Tình hình chung về hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam:
2.2.1) Hoạt động cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp thẩm định giá ( theo thời gian):
2.2.1.1) Giai đoạn 1997- 2002:
Cả nước có 2 trung tâm Thẩm định giá tài sản được thành lập theo quyết định của Trưởng Ban vật giá Chính phủ là: Trung tâm Thẩm định giá; Trung tâm Thông tin và Thẩm định giá Miền Nam với số lượng nhân viên gần 300 người.
Hai trung tâm này tiến hành thẩm định giá chủ yếu đối với: Tài sản Nhà nước phải thẩm định giá; tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Tổng giá trị tài sản thẩm định của 2 trung tâm này khoảng 4500 tỷ đồng.
2.2.1.2) Giai đoạn 2003- 2005:
Trung ương có 2 Trung tâm Thẩm định giá thuộc Bộ Tài chính có khoảng 18 thẩm định viên được Bộ trưởng Bộ Tài chính cấp thẻ thẩm định viên về giá.
Hoạt động của 2 trung tâm chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực: Tài sản Nhà nước phải thẩm định giá; xác định giá trị doanh nghiệp Nhà nước để cổ phần hóa; xác định giá trị tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Tổng giá trị tài sản thẩm định của 2 trung tâm này khoảng 238.400 tỷ đồng. Tăng 5,5 lần so với thời kỳ 1997-2002.
Ở địa phương, cả nước có 34 trung tâm Thẩm định giá trực thuộc Sở Tài chính; nhiệm vụ chủ yếu của các trung tâm này là thẩm định giá tài sản Nhà nước phải thẩm định giá, tài sản theo yêu cầu của khách hàng.
Trong thời kỳ 2003- 2005, tham gia thị trường thẩm định giá, ngoài các trung tâm thẩm định giá, còn có trên 40 công ty kiểm toán, kế toán trong nước và 5 công ty kiểm toán, kế toán nước ngoài làm nhiệm vụ xác định giá
trị doanh nghiệp để cổ phần hóa… các công ty này có chức năng thẩm định giá, bên cạnh chức năng kế toán là chủ yếu.
Trên thực tế, 80% hồ sơ thẩm định giá của các công ty kế toán và kiểm toán là xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phần hóa (dựa trên hành lang pháp lý là Nghị định 187/2004/NĐ-CP và Thông tư số 126/TT-BTC; ngoái ra xác định giá trị bất động sản.
2.2.1.3) Giai đoạn từ 2005 đến nay:
Thực hiện Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về thẩm định giá; Thông tư số 17/2006/TT-BTC ngày 13 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về thẩm định giá hoạt động thẩm định giá đã được tăng cường cả về chất lượng đào tạo, số lượng thẩm định viên, số lượng các tổ chức tham gia thị trường thẩm định giá.
Tính đến tháng 6 năm 2008 cả nước có khoảng 2500 người làm việc trong lĩnh vực thẩm định giá, trong đó có 216 người được Bộ Tài chính cấp thẻ thẩm định viên về giá và có 174 thẩm định viên đăng ký hành nghề tại 47 doanh nghiệp thẩm định giá được Bộ Tài chính thông báo có đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá.
Ngoài ra, còn có các tổ chức định giá xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước để cổ phẩn hóa theo quy định của Nghị định 109/2007/NĐ- CP về Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Hoạt động của các công ty thẩm định giá giai đoạn này rất đa dạng, phục vụ nhiều mục đích khác nhau.
* Đánh giá chung:
- Các trung tâm thẩm định giá đã chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Các Trung tâm không đủ điều kiện chuyển đổi theo quy định của Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 2005 của Chính phủ về thẩm định giá và Thông tư 67/2007/TT-BTC về việc chuyển đổi các trung tâm thẩm định giá sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp thì phải chuyển đổi nhiệm vụ hoạt động và không được phép hoạt động thẩm định giá. Vì vậy đã có 30 trung tâm ở các địa phương không đủ điều kiện chuyển đổi phải chấm dứt hoạt động thẩm định giá.
- Trình độ của thẩm định viên về giá đã được nâng cao do được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá một cách cơ bản, thường xuyên được cập nhật các kiến thức mới về thẩm định giá, về các quy định của Nhà nước về thẩm định giá.
- Hoạt động thẩm định giá của thẩm định viên, của các doanh nghiệp thẩm định giá đã tuân thủ các nguyên tắc, phương pháp thẩm định giá, hệ thống tiêu chuẩn.
- Thị trường về thẩm định giá có tốc độ tăng rất nhanh về nhu cầu tài sản thẩm định giá theo yêu cầu xã hội và đòi hỏi về thẩm định giá rất lớn, vì vậy xã hội phải nhanh chóng tăng cả về số lượng thẩm định viên, số lượng doanh nghiệp thẩm định giá và chất lượng của hoạt động thẩm định giá. Đây là yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường, đồng thời phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế. Các doanh nghiệp thẩm định giá đã mở rộng thị trường trong và ngoài nước, sự cạnh tranh về hoạt động thẩm định giá là rất lớn.
2.2.2) Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá:
2.2.2.1) Đào tạo dài hạn:
Việc đào tạo dài hạn học viên chuyên ngành thẩm định giá tài sản hiện đang được thực hiện ở 5 trường đại học và cao đẳng, cụ thể là:
- Hai trường Đại học Marketing và Cao đẳng quản trị kinh doanh thuộc Bộ Tài chính có khoa Thẩm định giá, bắt đầu chiêu sinh từ năm học 1998- 1999, hằng năm mỗi trường đào tạo khoảng 50- 70 học sinh. Hai trường này đã đào tạo được 4 khóa với khoảng 400 học viên tốt nghiệp bậc cao đẳng; số học viên này ra trường chỉ có 40- 50% là tìm được việc làm đúng chuyên ngành đào tạo. Năm học 2004-2005 trường đại học Marketing đã có chiêu sinh hệ đại học với 81 học viên; năm học 2006- 2007 trường đã chiêu sinh khoảng 100 sinh viên học khoa Thẩm định giá; năm học 2008- 2009 chiêu sinh hệ cao đẳng là 107 học viên và hệ dại học la 66 học viên. Trường cao đẳng tài chính- QTKD năm 2007-2008 chiêu sinh 100 học viên và năm 2008- 2009 chiêu sinh 100 học sinh khoa Thẩm định giá.
- Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội mới hình thành tổ bộ môn định giá với 4 giáo viên; năm học 2007-2008 đã chiêu sinh 50 học viên và năm học 2008-2009, 2009- 1010 đã chiêu sinh 50 học viên vào học chuyên ngành Thẩm định giá.
- Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh có tổ bộ môn Thẩm định giá thuộc khoa Kinh tế phát triển đảm nhiệm việc giảng về thẩm định giá với 7 giáo viên và đã tuyển sinh được 3 khóa, mỗi khóa 1 lớp, tổng số học viên của 3 khóa là 170 người; kết thúc khóa học đầu tiên 2005-2006 có 40 người ra trường, trường có dự kiến sẽ hình thành và phát triển bộ môn chuyên ngành Thẩm định giá, là một trong năm chuyên ngành của khoa kinh tế phát triển thuộc trường. Năm học 2006-2007; năm học 2007-2008 đã chiêu sinh 80 học viên và dự kiến năm học 2008-2009 chiêu sinh 100 học viên học chuyên ngành Thẩm định giá.
- Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) đã tuyển sinh 5 khóa đào tạo hệ đại học chuyên ngành Thẩm định giá từ năm học 2004-2005, mỗi khóa 1 lớp với 40 – 50 học viên/lớp. Năm 2007 đã có 41 học viên; năm 2008 có 45 học viên được đào tạo chuyên nghành thẩm định giá ra trường và năm 2009 sẽ có 56 học viên tốt nghiệp ra trường.
2.2.2.2) Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá và cấp thẻ thẩm định viên về giá:
Thực hiện quy định tại Điều 16 Pháp lệnh giá, để chuẩn bị cơ sở cho việc cấp thẻ thẩm định viên về giá, Ban Vật giá chính phủ ( trước đây) đã giao cho 2 trung tâm thẩm định giá thuộc Ban Vật giá Chính phủ tổ chức 3 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá tại miền Bắc, miền Trung và miền Nam vào cuối năm 2002 cho 203 học viên là cán bộ đang làm công tác quản lí giá tại cơ quan nhà nước, Sở Tài chính, doanh nghiệp, mỗi lớp thực hiện trong 2 tuần, giảng viên và nội dung bồi dưỡng do các đơn vị thuộc Ban Vật giá Chính phủ ( trước đây) biên soạn, thực hiện giảng. Sau khóa học, Trưởng ban Ban Vật giá cho các học viên và đã cấp 38 thẻ thẩm định viên về giá trong số 203 học viên tham gia học.
Ngày 24/02/2004 Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 21/2004/QĐ-BTC về việc ban hành quy chế cấp, sử dụng và quản lí thẻ thẩm định viên về giá. Đồng thời Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành Thẩm định giá; từ năm 2004 đến nay, các cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính cho phép mở lớp ngắn hạn như: Học viện Tài chính, trường Đại học Marketing thành phố Hồ Chí Minh; trường Cao đẳng Tài chính- Quản trị kinh doanh; Trung tâm Thẩm định giá miền Bắc ( nay là công ty cổ phần Dịch vụ Tài chính, thẩm định giá); Trung tâm Thông tin Thẩm định giá miền Nam (nay là Công ty Cổ phần Tư vấn dịch vụ Tài chính và Thẩm định giá Việt Nam) và Hội thẩm định giá Việt Nam đã tiến hành tổ chức các lớp học với thời gian là 120 tiết; nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá theo chương trình quy định của Bộ Tài chính. Tính đến tháng 6/2008 các tổ chức này đã cấp chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá khoảng 1.000 người đang làm việc tại các Sở Tài chính, các tổ chức Thẩm định giá, tổ chức Định giá, Ngân hàng, Kiểm toán, Chứng khoán…Trên cơ sở đó Bộ Tài chính đã tổ chức 4 kì thi (2005-2007) cấp thẻ thẩm định viên về giá cho trên 500 chuyên viên đang làm công tác định giá, thẩm định giá trong cả nước của các tổ chức, doanh nghiệp thẩm định giá và đã cấp thẻ thẩm định viên về giá cho 216 người trong đó có 174 thẩm định viên về giá đã hành nghề tại 47 doanh nghiệp thẩm định giá được Bộ Tài chính thông báo có đủ điều kiện hoạt động thẩm định giá.
Việc tổ chức các lớp học bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn vừa qua đã góp phần cập nhật, nâng cấp kiến thức, kĩ năng hành nghề cho đội ngũ những người làm công tác định giá, thẩm định viên; đồng thời tạo điều kiện cho các đối tượng tham dự lớp bồi dưỡng có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá. Đây là một trong các điều kiện để họ tham gia dự thi để lấy thẻ thẩm định viên về giá và hành nghề thẩm định giá và phát triển nghề nghiệp về sau.
Thực hiện nhiệm vụ của Bộ giao, Cục Quản lí giá Bộ Tài chính đã phối hợp với chuyên gia tư vấn nước ngoài, tổ chức thẩm định giá nước ngoài và các nhà khoa học chuyên ngành về giá, luật, thẩm định giá… tổ chức biên soạn bộ Tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá và đã được Hội đồng thẩm định của Cục Quản lí giá ( theo quyết định số 853/BTC ngày 27/02/2007 của Bộ Tài chính) thẩm định và tháng 10/2007 Bộ Tài chính mới chính thức phát hành tài liệu bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá được áp dụng thống nhất cho các trường đào tạo bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá trong phạm vi cả nước. Tài liệu này gồm 6 chuyên đề cơ bản cụ thể là:
1- Pháp luật áp dụng trong hoạt động định giá và thẩm định giá tài sản.
2- Cơ sở hình thành giá.
3- Nguyên lí căn bản về thẩm định giá.
4- Thẩm định giá bất động sản.
5- Thẩm định giá máy, thiết bị.
6- Thẩm định giá doanh nghiệp.
Với nội dung này, về cơ bản đã tạo điều kiện cho các đơn vị được phép tổ chức mở lớp bồi dưỡng kiến thức ngắn hạn chuyên ngành thẩm định giá có cơ sở để giảng dạy theo một nội dung chương trình quy định thống nhất phù hợp với thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu về nghiệp vụ chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi cho thẩm định viên không ngừng nâng cao nghiệp vụ, kĩ năng trong nghề thẩm định giá.
2.3) Những khó khăn, hạn chế đối với hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay:
2.3.1) Hạn chế về cơ sở pháp lý:
Một là, tuy một số văn bản pháp quy chủ yếu đã được ban hành, tạo điều kiện pháp lý cho việc hình thành và tổ chức hoạt động thẩm định giá nhưng:
- Việc thể chế hóa các quy định về thẩm định giá, quy định trong Pháp lệnh giá còn chậm thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế. Vì thế rủi ro nghề nghiệp trong hoạt động thẩm định giá luôn có khả năng xảy ra.
- Văn bản quy phạm pháp luật về thẩm định giá còn thiếu đồng bộ, các văn bản hướng dẫn thực hiện còn chậm ban hành, do vậy ít nhiều cũng gây khó khăn cho việc thực hiện hoạt động thẩm định giá.
- Việc hướng dẫn các tiêu chuẩn thẩm định giá (các phương pháp thẩm định giá chung, các phương pháp thẩm định giá cụ thể) chậm được ban hành.
- Việc quy định về cấp thẻ thẩm định viên về giá còn bó hẹp (công chức nhà nước không được tham dự thi cấp thẻ thẩm định viên về giá) và chưa đúng với quy định của Pháp lệnh giá. Vì vậy, dẫn đến số lượng đội ngũ thẩm định viên về giá còn ít tính chuyên nghiệp còn hạn chế, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên ngành còn nhiều bất cập…
Hai là, Pháp lệnh giá, Nghị định số 170/2002/NĐ-CP ngày 25/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điểm của Pháp lệnh giá, Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá chủ yếu mới đề cập đến nội dung điều chỉnh hành vi thẩm định giá tài sản mang tính chất tư vấn do Bộ tài chính quản lý về nghiệp vụ, chưa bao quát hoạt động thẩm định giá trị tài sản thưộc ngành khác như: thẩm định giá bảo đảm vay tiền (thuộc phạm vi hướng dẫn của ngành ngân hàng), thẩm định giá tài sản thi hành án.
Ba là, chưa xây dựng được một kế hoạch tổng thể phát triển ngành thẩm định giá dài hạn, vì vậy chưa có lộ trình cụ thể cho các bước đi. Việc hoạch định chính sách liên quan đến các nội dung xây dựng văn bản pháp quy, phát triển nguồn nhân lực, thị trường thẩm định giá… còn ở mức sơ khai, ngắn hạn.
Bốn là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về hoạt động thẩm định giá còn có sự chưa nhất quán, thậm chí còn mâu thuẫn nhau; điều đó đã gây nhiều bất cập, lúng túng trong việc chỉ đạo hoạt động thẩm định giá, cụ thể là quy định về hoạt động thẩm định giá tài sản theo quy định của Pháp lệnh giá và Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3 tháng 8 năm 2005 của chính phủ về thẩm định giá không đồng nhất với việc quy định giá bất động sản theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản và Nghị định 153/2007/NĐ-CP ngày 15/10/2007 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh Bất động sản.
2.3.2) Hạn chế trong công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá:
* Đào tạo dài hạn:
- Việc đào tạo các cử nhân đại học chuyên ngành Thẩm định giá đã được đưa vào chương trình đào tạo ở một số trường nhưng còn mang tính chất tự phát xuất phát từ yêu cầu thực tế, chưa thành một hệ thống chính quy mang tính chính thức từ quyết định từ cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ( Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính….), chưa được đưa vào chương trình đào tạo có hệ thống chính thức trong các trường đại học.
- Đội ngũ giảng viên chuyên ngành thẩm định giá còn mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu về chuyên ngành thẩm định giá.
- Nội dung, chương trình đào tạo dựa trên tài liệu đã ban hành trong nước và ngoài nước do từng trường tự thu nhập và biên soạn, chưa gắn liền với thực tiễn thẩm định giá Việt Nam, chưa có giáo trình chính thức mang tính chuẩn mực thống nhất của nhà nước ( Bộ GD&ĐT, Bộ Tài chính).
- Sinh viên tốt nghiệp khoa thẩm định giá các trường đại học là một trong các nguồn nhân lực rất quan trọng cung cấp nhân lực cho thị trường thẩm định giá tài sản trong tương lai. Tuy nhiên, số lượng sinh viên nhập học ngành này quá ít so với nhu cầu thị trường; việc đào tạo dài hạn hàng năm của các trường còn có tính chất thăm dò, chưa hình thành định hướng chung dài hạn trong việc tạo nguồn nhân lực cho hoạt động thẩm định giá trong 5-10 năm tới.
- Xã hội chưa nhận thức được vai trò của nghề thẩm định giá, sinh viên ít có xu hướng muốn vào học chuyên ngành này do tỷ lệ sinh viên xin được đúng việc làm sau tốt nghiệp thấp.
* Đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn:
- Cả một thời gian dài việc bồi dưỡng kiến thức cho thẩm định viên chưa được thường xuyên, mới chỉ thực hiện thông qua các dự án với nước ngoài trong thời gian ngắn hoặc khi chuẩn bị thi cấp thẻ thẩm định viên. Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá tại các lớp do các đơn vị được phép tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm định giá không được đồng đều và không đáp ứng được yêu cầu của Bộ Tài chính đề ra.
- Tham gia bồi dưỡng dự thi cấp thẻ gồm nhiều học viên có trình độ khác nhau, có người chưa qua đào tạo chuyên ngành Thẩm định giá nên nhận thức về chuyên môn giữa các học viên có chênh lệch lớn, trong khi nội dung bồi dưỡng lại có tính khái quát, thực hiện trong thời gian ngắn (2 tuần), dẫn đến trình độ học viên có chênh lệch lớn về nghiệp vụ.
- Việc tổ chức thi cấp thẻ thẩm định viên diễn ra nghiêm túc. Tuy nhiên, số lượng thẩm định viên được cấp thẻ còn ít quá ít nên khó đáp ứng được kịp thời cho các nhu cầu thẩm định giá của doanh nghiệp.
- Việc quy định về cấp thẻ thẩm định viên về giá còn bó hẹp (công chức Nhà nước không được tham dự kỳ thi cấp thẻ thẩm định viên về giá ) và chưa đúng với quy định của Pháp lệnh giá.
2.3.3) Cơ sở vật chất, thông tin dữ liệu:
Cơ sở dữ liệu chung phục vụ hoạt động thẩm định giá bất động sản, máy móc thiết bị, doanh nghiệp hầu như còn sơ khai và rất thiếu chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa đủ điều kiện hình thành được hệ cơ sơ dữ liệu chung về tài sản thuộc Bộ Tài chính.
Nhận xét:
+ Việt Nam chưa xây dựng được trung tâm cơ sở dữ liệu, thông tin thị trường cho hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp và tài sản toàn quốc.
+ Thông tin giá cả, cung cầu, thị trường tài sản sử dụng trong hoạt động nghiệp vụ thẩm định giá còn hạn chế về nguồn thông tin, độ tin cậy chưa cao, ảnh hưởng nhất định đến độ chính xác của mức giá tài sản cần thẩm định.
CHƯƠNG III
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng hoạt động thẩm định giá ở Việt Nam hiện nay.doc