Đề án Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN. 2

I. Đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản. 2

1. Khái niệm về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản. 2

2. Đặc điểm của đầu tư xây dựng cơ bản. 3

3. Các nguồn vốn huy động vốn đầu tư xây dựng cơ bản. 4

3.1. Vốn đầu tư cơ bản. 4

3.2. Các nguồn vốn huy động. 5

II. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam. 6

1. Vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản. 6

2. Kinh nghiệm của các nước vể huy động vốn để đầu tư xây dựng cơ bản. 9

2.1. kinh nghiệm của singapore. 9

2.2. kinh nghiệm của trung quốc. 9

3. Sự cần thiết phải tăng cường và nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở Việt Nam. 10

3.1.Thực trạng đầu tư chung ở Việt Nam những năm gần đây. 10

3.2. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực đầu tư: 11

3.3. Một số tồn tại trong đầu tư 12

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN VIỆT NAM NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY 16

I. Thực trạng đầu tư xây dựng cơ bản Việt Nam nhưng năm gần đây. 16

1. Tổng mức vốn đầu tư và tốc độ phát triển qua các năm. 16

2. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện theo nguồn vốn đầu tư. 17

2.1. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước. 17

2.2. Nguồn vốn tư nhân. 19

2.3. Theo nguồn vốn nước ngoài. 20

3. Qúa trình sử dụng vốn trong các giai đoạn đầu tư. 22

3.1. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. 23

3.2. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư 25

3.3. Trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư 26

3.4. Trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư 27

 

II. Đánh giá chung về đầu tư xây dựng cơ bản 29

1. Những thành tựu đạt được 29

2. Tồn tại và nguyên nhân 30

2.1. Tồn tại 30

2.2. Nguyên nhân 33

2.3. Tình trạng phân tán giàn trải trong đầu tư 35

2.5. Thiếu một cơ chế giám sát chặt chẽ 36

2.4. Vòng tròn khép kín trong đầu tư 37

2.5. Không công khai minh bạch trong quy trình đầu tư 38

2.6. Trình độ năng lực yếu kém và sự thoái hoá về đạo đức của một số không ít các chủ đầu tư và ban quản lý dự án. 38

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP 40

1. Các giải pháp vĩ mô 40

1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong đầu tư 40

1.2. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư 41

1.3. Công khai, minh bạch trong hoạt động đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước 42

1.4. Loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư 42

1.5. Tiếp tục rà soát, cập nhật và nâng cao chất lượng quy hoạch 43

1.6. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án 45

1.7. Hoàn thiện phân cấp trong quản lý đầu tư 46

2. Các giải pháp vi mô 47

2.1. Nâng cao ý thức trách nhiệm của người người tham gia vào hoạt động đầu tư 48

2.2. Nâng cao trình độ đạo đức của cán bộ quản lý đầu tư. 49

2.3. Thực hiện nghiêm túc các công việc trong suốt quá trình đâu tư ở từng đơn vị. 50

2.4. Phổ biến rộng rãi văn bản pháp luật cho từng cá nhân trong mỗi

đơn vi. 51

2.5.Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra trong từng đơn vi. 51

2.6. Những vùng, địa phương được đầu tư cần tích cực tham gia vào hoạt động giám sát. 51

KẾT LUẬN 53

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 54

 

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8092 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư Xây dựng cơ bản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này có đặc điểm là không có gắn với các ràng buộc về chính trị, xã hội, thủ tục cho vay thường tương đối khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cho vay cao. Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh doanh ngân hàng (tính rủi ro ở nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất quốc tế), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu để đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu trong ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này dùng để đầu tư phát triển. 3. Qúa trình sử dụng vốn trong các giai đoạn đầu tư. Quá trình sử dụng vốn trong giai đoạn đầu tư vẫn còn nhiều yếu kém được thể hiện qua việc sử dụng các nguồn vốn không hiệu quả. Quá trình thất thoát và lãng phí liên tục diễn ra trong qúa trình thự hiện đầu tư, các dự án liên tục bi chậm tiến độ như: Năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm. Năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1%. Năm 2007 có 3.979 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,9%. Nhà máy xử lý nước thải khu đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì hoàn thành bàn giao từ tháng 10-2005 với giá trị 65,55 tỷ đồng và 1.255 triệu yên nhưng không thể vận hành do chưa được cung cấp nguồn điện, nhà máy cấp nước giai đoạn 1 khu đô thị Bắc Thăng Long - Vân Trì thực tế công suất mới đạt 22,32% làm chậm phát huy hiệu quả và lãng phí vốn đầu tư... Dự án cầu Thanh Trì và tuyến phía Nam vành đai 3 Hà Nội với số vốn đầu tư 7.660 tỷ đồng chậm trễ nhiều tháng, tính toán sơ bộ mỗi ngày chậm phải trả 1,5 tỷ đồng tiền lãi vay... 3.1. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. a. Trong khâu khảo sát thiết kế Theo điều tra của bộ xây dựng, rất nhiều các công trình xây dựng xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí và sử dụng vốn không hiệu quả. Trong 31 dự án đã được thanh tra, kiểm tra thì có tới 40% dự án sai sót ở khâu thiết kế, riêng tại Hòa Bình 100% dự án được thanh tra kiểm tra đều có biểu hiện sai phạm về thực tế, về thiết kế. Điển hình có thể kể đến dự án khôi phục và cải tạo quốc lộ 1 đoạn đường Hà Nội - Lạng Sơn do khâu khảo sát không kỹ dẫn đến tình trạng phải thay đổi thiết kế, dẫn đến thất thoát, lãng phí. Các dự án xây dựng cầu Non Nước (Ninh Bình), cầu Tân Đệ (Thái Bình) do tài liệu kỹ thuật về địa chất nền móng không đúng thực tế khiến cho các nhà thầu phải khoan thăm dò lại, lập lại bản vẽ thi công, thời gian thi công phần ngầm bị kéo dài gấp đôi thời gian đã xác định ban đầu. Như vậy, việc sủ dụng vốn không hiệu quả trong khâu khảo sát chủ yếu là do chất lượng của công tác khảo sát, khảo sát sơ sài, khảo sát sai sót không đúng quy chuẩn tiêu chuẩn… dẫn đến thiết kế sai, chất lượng thiết kế không đảm bảo an toàn, phương án thiết kế không hợp lý, sử dụng tiêu chuẩn thiết kế không phù hợp làm cho chất lượng công trình không đảm bảo, phải khắc phục, sửa chữa, trong nhiều trường hợp phải thay đổi cả thiết kế làm phát sinh chi phí. b. Trong khâu đền bù giải phóng mặt bằng và chậm tiến độ thi công trong khâu này thường biểu hiện dưới dạng bớt xén tiền đền bù của dân, đền bù không thỏa đáng, khai khống số lượng hộ được đền bù, và chi phí đền bù để rút tiền của Nhà nước hoặc móc ngoặc với người được đền bù, nâng giá trị đền bù cho dân, khai khống diện tích, khối lượng cần được giải tỏa để ăn chia chênh lệch, điển hình như công trình dự án khôi phục và cải tạo quốc lộ 1 đoạn Hà Nội - Lạng Sơn: ban giải phóng mặt bằng tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh để xảy ra 3 vụ án tham nhũng với số tiền thất thoát (khoảng 0.09% tổng mức đầu tư). Trong khi đó, do tài sản đền bù trên mặt đất là cây cối, hoa màu, nhà của khi giải tỏa phải phá bỏ hoặc dỡ bỏ không còn cơ sở để kiểm tra nên giữa hai bên (bên đền bù và bên được đền bù) thường móc ngoặc khai khống, định giá đền bù khống để tham ô tiền của Nhà nước. Do đó, cần có biện pháp để ngăn chặn tình trạng trên, có như thế mới có thể sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Hay như ở dự án ở Dung Quất, do thiếu một tầm nhìn mang tính chiến lược, lại không dứt khoát trong khâu đền bù nên mới có chuyện dân thì cù cưa, còn tỉnh thì lúng túng, trong khi các nhà đầu tư lại thúc bên lưng, phải giao mặt bằng để họ triển khai dự án. Việc thiếu dứt khoát trong công tác đền bù này đã dẫn đến một tiền lệ xấu mà tỉnh Quảng Ngãi đang "gánh". Dự án Nhà máy thép Tycoons (thuộc khu công nghiệp Dung Quất) chiếm trên 300ha, số vốn lên đến 3,3 tỉ USD, nhưng chỉ "đụng" có trên 70 hộ dân tại hai xã Bình Thuận và Bình Đông. Sau nhiều lần ra "trát" buộc tháo dỡ, đa số hộ dân thuộc hai xã nói trên cũng phải ra đi. Chỉ riêng 7 hộ dân ở thôn Tân Hy, xã Bình Đông thì vẫn cố thủ. Tỉnh Quảng Ngãi đành "nhún" một bước nữa là chi thêm tiền! 7 hộ này, do "cù cưa" nên được nhận thêm hàng chục triệu đồng. Thấy các hộ kia ở ráng thì được thêm tiền, 69 hộ đã di dời trước đó lục tục kéo về dựng lều ở tạm để đòi thêm đền bù! Tại xã Bình Trị, nơi có dự án nhà máy polypropylen 200 triệu USD đang triển khai, việc "cù cưa" của dân ngày càng phức tạp hơn. Cứ tưởng "bài học Tycoons" nói trên sẽ giúp những nhà quản lý ở Quảng Ngãi "tỉnh ra", ai ngờ lại lặp y chang như ở Bình Đông. Giải phóng mặt bằng có 19ha, chuyển 69 hộ dân, nhưng ông Chủ tịch tỉnh đã hứa với Thủ tướng đến lần thứ 6 mà vẫn chưa "xeo" được 21 trường hợp còn lại tại đây! Những ngày áp Tết, tỉnh lại "nhún" một nước: Ai dỡ dọn nhà, ngoài tiền đền bù theo quy định sẽ được hỗ trợ thêm (tránh dùng từ "thưởng") 6 triệu đồng. Một số hộ đã dỡ dọn để được 6 triệu đồng, dù Tết cận kề. Thấy "đi sau mà được thêm 6 triệu", hàng chục hộ dân đã đi trước bèn quay về và đòi thêm tiền! Dự án nhà máy polypropylen đã có phương án cách nay đã 10 năm, địa điểm thì cũng đã chọn. Nếu lúc giải phóng mặt bằng cho nhà máy lọc dầu (NMLD) hiện nay mà làm luôn cho nhà máy polypropylen này thì dân hết khiếu kiện. Đằng này, đất mỗi ngày một giá, giá đất vọt lên thì tỉnh mới... triển khai đền bù! Nếu đền bù ngay thời điểm áp giá năm 2006 thì toàn bộ 19ha của nhà máy polypropylen này chỉ mất có 11 tỉ, năm 2007 đã lên 22 tỉ và tiền đền cho dân vẫn chưa xong. Giờ đất năm 2008 đã khác trước rồi mà đền theo giá 2007 là dân không chịu dỡ dọn! Như vậy, bàn giao mặt băng xây dựng không đúng thời hạn quy định làm chậm tiến độ thi công của công trình gây lãng phí trong xây dựng. Dự án đầu tư xây dựng số 5 sử dụng vốn JBIC của Nhật Bản do bàn giao mặt bằng chậm so với tiến độ của hợp đồng nên Nhà nước đã phải đền bù cho nhà thầu 570.595.797 yên Nhật. Tiến độ xây dựng chậm công trình diễn ra phổ biến ở rất nhiều dự án. Một nửa các dự án thanh tra bị chậm tiến độ, thậm chí có tỉnh 100% dự án được thanh tra đều bị chậm tiến độ xây dựng (tỉnh Vĩnh Long). Các Bộ có nhiều công trình có thời gian thi công kéo dài là: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn có 60/135 dự án nhóm B kéo dài trên 4 năm, (chiếm 44.4), có 171/197 dự án nhóm C (chiếm 87.0%) kéo dài hơn 2 năm, trong đó có 86 dự án nhóm C kéo dài hơn 3 năm, một số công trình nhóm B kéo dài trên 6 năm, 10 năm… c. Trong công tác quy hoạch Quy hoạch là một trong những khâu quan trọng để đảm bảo đầu tư có hiệu quả và phát triển bền vững. Nó là căn cứ để định hướng phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hằng năm, kế hoạch sử dụng đất đai trong cả nước, đồng thời là căn cứ kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và hỗ trợ phát triển ODA. Tuy nhiên công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, cần nhanh chóng khắc phục như quy hoạch đi trước một bước, tầm nhìn ngắn thiếu tính chiến lược, chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chất lượng quy hoạch thấp thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; ý thức chấp hành quy hoạch chưa nghiêm. 3.2. Trong giai đoạn thực hiện đầu tư Giai đoạn thực hiện đầu tư gồm các khâu khảo sát, thiết kế, thi công xây dựng và tiến hành đền bù, giải phóng mặt bằng, kí kết hợp đồng giữa các bên, thanh toán quyết toán công trình. Thì ở đây, thất thoát, lãng phí cũng xảy ra ở tất cẩ các khâu trên. Trong việc bố trí và sử dụng vốn: Bất cập trong việc bố trí kế hoạch vốn ở một số địa phương. Năm 2002, tỉnh Lào Cai phê duyệt kế hoạch đầu tư xây dựng trong khi không có kế hoạch vốn, phải nợ khối lượng xây dựng cơ bản 178 tỷ đồng. Trong khi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước đã bố trí tương đối đầy đủ, nhưng việc bố trí vốn ở một số địa phương không phù hợp dẫn đến nhiều công trình khởi công không được bố trí vốn. Do đó, khối lượng xây dựng cơ bản hoàn thành không có nguồn vốn để thanh toán dứt điểm. Có một nghịch lý là trong khi Nhà nước đang thiếu vốn đầu tư thì có những dự án ở những địa phương, ngành, vốn đầu tư lại chờ khối lượng thanh toán, gây thất thoát. Việc năm sau cấp phát kế hoạch cho năm trước là khá phổ biến. Việc triển khai kế hoạch giải ngân hàng năm thường bị chậm, đồng thời với việc chậm và thiếu vốn sẽ gây hiện tượng tiêu cực là đi chạy chỉ tiêu kế hoạch, chạy vốn. Đây là một trong những nguyên nhân gây thất thoát và lãng phí và làm cho đồng vốn sử dụng kém hiệu quả vì đã có tiêu cực trong việc phân cấp vốn, dẫn tới việc phân phối kém khách quan, không đúng quy định, không đúng nhu cầu, dẫn tới bố trí kế hoạch phân tán, dàn trải không theo tiến độ của dự án, kéo dài thời gian xây dựng, làm tăng chi phí không cần thiết, chậm đưa công trình vào sử dụng gây thất thoát, lãng phí. Việc thực hiện quy chế đấu thầu Thanh tra nhà nước trong 2 năm 2002 - 2003 đã tiến hành thanh tra kiểm tra 31 dự án thì có tới 40% dự án sai sót trong việc thực hiện quy chế đấu thầu. Điển hình như tỉnh Quảng Ninh 70% các dự án được thanh tra kiểm tra có vi phạm, những sai sót trong việc thực hiện quy chế đấu thầu là một trong nhưng nguyên nhân gây thất thoát và sai sót về kinh tế có liên quan đến việc thục hiện quy chế đấu thầu như thu phí của phụ thầu sai chế dộ, điểu chỉnh giá dự thâu sai quy định, hưởng lợi từ việc nhượng thầu sai phép... đã làm thất thoát tổng cộng 81,81 tỷ đồng năm 2003, chiếm gần 1% tổng mức đầu tư của dự án được thanh tra kiểm tra. Khâu tuyển chọn nhà thầu và hợp đồng trong xây lắp còn những vấn đề như quy định giá gói thầu, giá bỏ thầu giá trúng thầu, thẩm dịnh kết quả đấu thầu, hợp đồng xây lắp có điều chỉnh giá, phương thức liên doanh nhà thầu… đang gặp khó khăn và là nguyên nhân dẫn đến thất thoát lãng phí. 3.3. Trong giai đoạn vận hành kết quả đầu tư Sự lãng phí thể hiện rõ nhất khi hàng loạt công trình xây dựng xong đưa vào sử dụng không đạt hiệu quả kinh tế - xã hội do không khai thác hết công suất, thiếu nguyên liệu, nguyên nhân là do quy hoạch kém, không đồng bộ, không gắn kết với quy hoạch phát triển ngành, vùng. Sau khi đầu tư xong mới thấy chưa tính hết quy hoạch vùng nguyên liệu cung cấp. Yếu tố đầu vào, đầu ra của sản phẩm không có nên nhà máy không hoạt động được. Theo kết quả kiểm tra của Bộ xây dựng, có tới 6 trong tổng số 43 công trình xây xong rồi đóng cửa. Trong đó có 2 dự án nằm trong số 4 công trình có mức đầu tư lớn nhất. Công trình Nhà máy gạch Granit Thiên Thạch của Công ty Xây lắp I Nam Định xây dựng xong và đã sản xuất nhưng sản phẩm không tiêu thụ được do chất lượng kém và giá thành sản phẩm cao, thị trường không chấp nhận nên nhà máy phải ngừng hoạt động. Tương tự như vậy, nhà máy chế biến cà chua 200 tấn/ngày của Tổng công ty Xuất nhập khẩu rau quả (Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn) đặt tại Công ty Xuất khẩu rau quả Hải Phòng hoàn thành từ năm 2001 nhưng mỗi năm chỉ hoạt động 5-6 ngày (đạt 4,5% công suất) do không có nguyên liệu. Hậu quả là công ty không có khả năng trả nợ và cũng không có biện pháp giải quyết. Cũng tại Hải Phòng, công trình công viên nước Rồng Biển (thuộc cụm công trình khách sạn - du lịch và công viên của thành phố) do lựa chọn địa điểm không phù hợp với loại hình và quy mô đầu tư, lựa chọn thiết bị không phù hợp nên không thu hút được khách. 3.4. Trong khâu thanh quyết toán vốn đầu tư Thực hiện giám sát thi công không đúng với thiết kế dẫn đên tính trạng lãng phí còn khá phổ biến. Theo kết quả thanh tra ở Hà Nội thì phần lớn các công trình xây dựng của Hà nội trong năm 2002 - 2003 đều có sai sót này. Về chi phí nhập vật tư tại các công trình cũng gây lãng phí, thất thoát trong quá trình thực hiện như nhập thừa vật liệu, thiết bị tại các công trình. Khi nghiệm thu, thanh quyết toàn thì chưa đúng quy trình, chế độ bảo hành công trình không nghiêm. Thất thoát do lập quyết toán sai so với thực tế đã thi công nguyên nhân do tính toán nhầm lẫn, quên loại trừ những khối lượng phải trừ ram tính thừa thành phần công việc, tính sai chênh lệch giữa giá vật tư thực tế trên thị trường và giá vật tư trong quyết toán công trình. Thất thoát do quyết toán khống như không làm vẫn quyết toán, quyết toán sai chủng loại vật tư, áp dụng định mức sai, đơn giá, vi phạm chứng từ hóa đơn tài chính. Ví dụ như Dự án tăng cường năng lực quản lý giao thông đô thị Tp.HCM. Dự án này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 2- 1998 với tổng vốn đầu tư 20,7 triệu USD (vay Ngân hàng Thế giới 18,63 triệu và ngân sách thành phố cấp 2,07 triệu USD). Trong quá trình thực hiện, UBND TP đã 6 lần ra quyết định điều chỉnh dự án và tổng mức đầu tư được điều chỉnh cuối cùng là 16,293 triệu USD, tương đương 248,459 tỉ đồng. Dự án có bốn mục tiêu chính: xây dựng hệ thống điều khiển giao thông và cải tạo đèn tín hiệu khu vực trung tâm TP; cải tạo bốn hành lang và 14 nút giao thông độc lập; nâng cao năng lực thi hành công cụ cho CSGT; tăng cường năng lực cho bộ phận quản lý giao thông của Sở Giao thông công chính. Theo kết luận thanh tra, công tác quản lý và thực hiện dự án đã xảy ra nhiều sai phạm. Điển hình như công tác thiết kế và phê duyệt thiết kế kỹ thuật có nhiều bất cập; việc phải thay đổi, điều chỉnh thiết kế nhiều lần làm kéo dài thời gian, tăng chi phí dự án. Cụ thể, gói thầu tư vấn thiết kế hành lang I đã áp dụng đơn giá lát gạch vỉa hè không đúng với bản vẽ thiết kế làm giá dự toán tăng trên 847 triệu đồng, gây thiệt hại cho ngân sách trên 815 triệu đồng. Ở hạng mục này, Công ty Xây dựng công trình giao thông Sài Gòn (XDCTGT SG) trúng thầu nhưng sau đó lại khoán gọn cho các đội xây dựng thuộc công ty, để các đội này lập hóa đơn thanh toán vượt quá định mức trên 484 triệu đồng. Gói thầu cung cấp và lắp đặt hệ thống tín hiệu giao thông được điều chỉnh từ 124 nút đèn tín hiệu xuống còn 118 nút, làm dôi dư vật tư thiết bị, gây lãng phí chi phí lắp đặt 1.573 Euro và trên 34,7 triệu đồng; một số hạng mục xây dựng tiểu đảo, lắp con lươn giao thông xong phải phá bỏ, làm tăng chi phí trên 332,8 triệu đồng. Số lượng thiết bị vật tư dự phòng và vật tư dư dôi do thay đổi thiết kế tổng trị giá trên 120.569 Euro, không đưa vào công trình nhưng người ta lại dùng kinh phí của dự án để thanh toán cho nhà thầu theo hợp đồng. Từ những sai phạm trên, Thanh tra Chính phủ đã kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo UBND TP tổ chức kiểm điểm, chấn chỉnh công tác quản lý Nhà nước trong việc phê duyệt dự toán chi phí sai quy định, vượt định mức trên 7,4 tỉ đồng, dẫn đến việc sử dụng kinh phí cho BQL dự án tăng, gây lãng phí ngân sách Nhà nước trên 5,9 tỉ đồng; điều chỉnh dự án nhiều lần dẫn đến lãng phí chi phí tư vấn. II. Đánh giá chung về đầu tư xây dựng cơ bản 1. Những thành tựu đạt được Về việc thực hiện pháp luật về quy hoạch, kế hoạch đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước: Trong 3 năm từ 2005 - 2007, việc thực hiện pháp luật về quy hoạch đã có chuyển biến. Chất lượng công tác quy hoạch được nâng lên so với trước, các bản quy hoạch dần hoàn chỉnh, có tính khoa học và thực tiễn cao hơn. Kế hoạch đầu tư XDCB nhìn chung đã bám sát quy hoạch, phân kỳ đầu tư phù hợp với quy hoạch chung. Đã hoàn thành việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2010 và đang triển khai xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH đến năm 2020 của 6 vùng kinh tế; lập quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của 58 tỉnh, thành phố đến năm 2020, xây dựng quy hoạch phát triển một số hành lang kinh tế, 102 quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực cũng được các bộ, ngành lập, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt. Việc huy động, phân bổ vốn đầu tư tại các bộ, ngành, địa phương về cơ bản đã tuân thủ các quy định pháp luật, thực hiện phân bổ vốn cho các D.A có đủ thủ tục đầu tư trong danh mục kế hoạch hàng năm. Việc bố trí vốn đầu tư tập trung hơn cho các công trình trọng điểm, ưu tiên cho công trình thiết yếu phục vụ dân sinh (giao thông, thuỷ lợi, bệnh viện, trường học,...). Nhiều D.A không có trong quy hoạch được duyệt đã bị đình hoãn khởi công; những D.A chưa thật sự cấp bách đã được ngừng triển khai để bố trí vốn giải quyết nợ đọng XDCB và điều chuyển vốn cho những D.A sắp hoàn thành, D.A cấp bách, có hiệu quả. Năm 2007, bình quân vốn cho 1 D.A nhóm A là 207 tỷ đồng, gấp 2,13 lần năm 2005, trong đó 79% D.A là chuyển tiếp, 21% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm B là 11,9 tỷ đồng; 71,4% là chuyển tiếp, 28,6% là khởi công mới; bình quân vốn 1 D.A nhóm C là 3,65 tỷ đồng; 62,5% là chuyển tiếp, 37,5% là khởi công mới. Việc bố trí vốn để trả nợ đọng đã có những chuyển biến. Năm 2004, số nợ đọng XDCB trên 11.000 tỷ đồng, hiện nay các Bộ, cơ quan trung ương về cơ bản không còn nợ đọng XDCB. Tính đến tháng 6/2008, số nợ đọng các công trình nguồn vốn NSNN đã hoàn thành do địa phương quản lý khoảng 3.800 tỷ đồng.     Chủ trương, quyết định đầu tư đã được cân nhắc, xem xét kỹ lưỡng hơn, bám sát quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Hầu hết các D.A bố trí trong kế hoạch đều có quyết định đầu tư theo pháp luật. Việc thông qua chủ trương và quyết định đầu tư đã dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, ở địa phương danh mục các D.A XDCB từ nguồn vốn Nhà nước đều được trình HĐND xem xét, thông qua. Giám sát của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội cũng cho thấy đã có những chuyển biến và tiến bộ rõ từ việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch đến quản lý và tổ chức thực hiện... Vốn đầu tư XDCB từ NSNN đã được quan tâm bố trí và tăng đều qua các năm, bố trí tập trung hơn, hiệu quả kinh tế hơn, đã cơ bản giải quyết nợ đọng XDCB của các bộ, ngành. Công tác chỉ đạo, điều hành của các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung, quyết liệt hơn. Công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giám sát đã được quan tâm và tiến hành thường xuyên hơn, qua đó đã phát hiện những sai phạm trong đầu tư XDCB và kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý. Tuy nhiên, nhìn chung ở mức độ khác nhau, một số hạn chế, yếu kém của công tác đầu tư XDCB sử dụng vốn Nhà nước đã được nêu trong Báo cáo kết quả giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội Khóa XI và trong Nghị quyết số 36/2004/QH11 của Quốc hội khóa XI chậm được khắc phục, tình trạng bố trí dàn trải các nguồn vốn vẫn còn, hiệu quả đầu tư thấp. Hệ thống văn bản pháp luật vẫn còn tình trạng mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, còn nhiều thủ tục phức tạp trong công tác đầu tư XDCB... 2. Tồn tại và nguyên nhân 2.1. Tồn tại Đầu tư còn dàn trải chậm chưa được khắc phục, lãng phí và thất thoát lớn. Nhiều công trình, dự án chất lượng không đảm bảo, vừa đưa vào khai thác đã tốn kém nhiều tỷ đồng để sửa chữa. Công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, vốn vay cho đầu tư, đặc biệt là vốn ODA còn bị buông lỏng, hiệu quả sử dụng chưa cao. Tình trạng XDCB và sử dụng vốn Nhà nước vi phạm chậm tiến độ ngày càng gia tăng. năm 2005 có 1.882 dự án vi phạm, chiếm 14,5% dự án thực hiện đầu tư trong năm; năm 2006 có 3.173 dự án vi phạm, chiếm 18,19%; năm 2007 có 4.763 dự án, chiếm 16,6%. Tiến độ thi công các dự án sử dụng vốn nhà nước rất chậm, thủ tục đầu tư xây dựng rườm rà, hiệu quả đầu tư của nhiều dự án thấp, còn thất thoát, lãng phí so với đầu tư bằng nguồn vồn khác, đầu tư thiếu đồng bộ. Tình trạng bố trí vốn dàn trải vẫn còn khá phổ biến”. Năm 2005 có 2.280 dự án chậm tiến độ, chiếm 9,2% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong năm (trong đó có 48 dự án nhóm A). Con số này tăng nhanh trong 2 năm tiếp theo, năm 2006 có 3.595 dự án chậm tiến độ, chiếm 13,1% (25 dự án nhóm A); 3.979 dự án chậm tiến độ trong năm 2007, chiếm 13,9% (19 dự án nhóm A). Nhiều dự án nhóm B, C thi công kéo dài vượt quá thời gian quy định (nhóm B không quá 3 năm, nhóm C không quá 2 năm), trong đó Bộ Giao thông Vận tải có tới 196 dự án thuộc 2 nhóm này phải kéo dài thời gian so với quy định. Tình trạng không tuân thủ quy định về trình tự, thủ tục quản lý đầu tư XDCB chậm được khắc phục; nhiều công trình đã hoàn thành đưa vào sử dụng trong thời gian dài vẫn chưa chược phê duyệt quyết toán. Công tác quản lý các dự án đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA vẫn chưa có chuyển biến rõ nét. Đặc biệt một số bộ, ngành thành lập nhiều ban quản lý dự án và được giao quá nhiều quyền, nhưng không xác định rõ trách nhiệm, buông lỏng thanh ra, kiểm tra nên mắc nhiều sai phạm như: Ban quản lý PMU18 của Bộ Giao thông Vận tải tồn tại trong nhiều năm là điển hình về buông lỏng quản lý, nhiều vi phạm nghiêm trọng chậm được phát hiện và khắc phục. Vẫn diễn ra tình trạng sử dụng vốn đầu tư không đúng mục đích, trái pháp luật như Bộ Giao thông Vận tải sử dụng vốn đầu tư XDCB giao thông lại để xây dựng trụ sở, mua ô tô, thiết bị điều hành dự án không đúng quy định đến 143, 6 tỷ đồng; quyết định đầu tư 28 dự án không có trong danh mục của kế hoạch 5 năm với tổng mức đầu tư 1.460,7 tỷ đồng. Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Võ Hồng Phúc trong báo cáo về sử dụng nguồn vốn ODA cũng thừa nhận chất lượng các công trình xây dựng thấp, công tác quản lý xây dựng chưa được chú ý. Năng lực trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của các tổ chức tư vấn kỹ thuật, giám sát thi công và lực lượng thi công xây dựng còn yếu kém. Việc giám sát thi công thiếu chặt chẽ, chưa trung thực, có sự thông đồng giữa người giám sát với bên nhà thầu để thay đổi, bớt xén vật liệu, làm sai thiết kế, dẫn đến chất lượng thấp. Các khuyết điểm, tồn tại này có phần trách nhiệm của các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương; chưa kiên quyết xóa bỏ cơ quan chủ quản, loại bỏ tình trạng khép kín trong đầu tư và xây dựng, chưa có một chương trình toàn diện, có hiệu quả trong việc chống lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng gắn với chống tham nhũng. - Chưa đánh giá hết thất thoát và lãng phí trong đầu tư XDCB "Lĩnh vực xây dựng cơ bản là lĩnh vực khó khăn, phức tạp đòi hỏi sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, nhất quán và sự phối hợp đồng bộ, trong khi đó chúng ta rất thiếu sự phối hợp đồng bộ". Một trong những nguyên nhân khiến việc giải ngân vốn và tiến độ dự án chậm là do thủ tục hành chính phiền hà, năng lực, trách nhiệm của chủ đầu tư, các Ban quản lý dự án, các cơ quan tư vấn rất yếu. Để khắc phục hạn chế này, cần hệ thống hóa pháp luật về đầu tư xây dựng cơ bản. Trên cơ sở đó xây dựng dự án Luật quản lý đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn Nhà nước, hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, minh bạch, dễ áp dụng, tiện kiểm tra và giám sát. Cần xem xét lại và cải cách thủ tục đầu tư, đặc biệt là thủ tục giải ngân, thủ tục thanh quyết toán và trình độ giải quyết công việc của cán bộ dự án. Thực tế, phần lớn các dự án đã hoàn thành bàn giao từ rất lâu nhưng vẫn không giải ngân được và vẫn chưa quyết toán được công trình, làm cho doanh nghiệp tăng cao chi phí, lãi vay ngân hàng do thiếu vốn, nợ ngân hàng tăng cao, trong khi đó ngân sách nhà nước lại chuyển nguồn cao, tồn dư kho bạc lớn kết quả giải ngân chậm, quay vòng vốn trong xã hội chậm, hiệu quả sử dụng đồng vốn chung của xã hội kém hiệu quả. "Thực tế hoạt động đầu tư xây dựng trong thời gian qua cũng cho thấy những vấn đề về phương diện pháp luật chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lý đầu tư xây dựng hiện nay, cụ thể là thứ nhất hệ thống pháp luật về quản lý đầu tư không được thiết kế để đảm bảo sự thống nhất luật pháp về đầu tư được tiếp cận theo những cách riêng rẽ, chấp vá". Chúng ta đang thiếu một quan niệm thống nhất về đầu tư xây dựng cơ bản, không phân định rõ quản lý đầu tư và quản lý xây dựng, không phân định rõ những nội dung và yêu cầu quản lý chung đối với mọi hoạt động đầu tư và hoạt động xây dựng các yêu cầu riêng đối với từng ngành, từng lĩnh vực, từng nguồn vốn... chính vì vậy cần sớm hoàn thiện, ổn định và đồng bộ cơ chế, chính sách về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản, sự khớp nối giữa các văn bản quy phạm pháp luật phải thống nhất, hạn chế đến mức tối đa những mâu thuẫn chồng chéo trong các quy định cùng điều chỉnh một lĩnh vực, một nhóm vấn đề. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạch, chưa xác định đúng tính bức thiết và lợi thế của từng vùng, địa phương đã phát sinh lãng phí. Thể hiện việc chi đầu tư XDCB năm 2004 từ nguồn vốn trong nước vượt dự toán 7.539 tỷ đồng. Trong thời gian qua, vẫn còn nhiều đơn vị, địa phương lập quy hoạch chỉ để đủ thủ tục xin đầu tư, quyết định kế hoạch đầu tư thì không được chuẩn bị trước, thiếu căn cứ khoa học, thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch xây dựng các đô thị.  Thêm vào đó, chất lượng các dự án quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn hạn chế, các dự án quy hoạch chưa có tầm nhìn dài hạn và chưa có đủ căn cứ vững chắc, các thông tin dự báo, nhất là thông tin dự báo về thị trường, đời sống, nhu cầu xã hội vẫn chưa cập nhật. 2.2. Nguyên nhân 2.2.1. Chất lượng quy hoạch. Tình trạng đầu tư không theo quy hoạc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22450.doc
Tài liệu liên quan