MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 2
I. Một số vấn đề về kinh tế hợp tác xã. 2
1. Khái niệm về kinh tế hợp tác xã. 2
2. Đặc điểm của kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp 6
3. Vai trò của kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp. 8
4. Phương hướng, chủ trương phát triển kinh tế hợp tác xã của Đảng và Nhà nước ta. 9
II. Thực trạng của kinh tế hợp tác xã nông nghiệp 11
1.Giai đoạn từ đầu năm 1958 đến năm 1981 11
2. Giai đoạn 1981 đến năm 1993 thời kỳ đổi mới bước cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp 21
3. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay. 26
4. Những nhận xét chung từ thực trạng. 27
III. Giải pháp phát triển kinh tế hợp tác xã. 28
1. Giải pháp từ phương hướng sản xuất kinh doanh. 28
2. Giải pháp về vốn. 30
3. Giải pháp tổ chức, quản lý hợp tác xã. 30
C. KẾT LUẬN 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
36 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3101 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế tập thể ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là đổi mới mối quan hệ giữa hợp tác xã sản xuất nông nghiệp với các hộ nông dân xã viên. Hợp tác xã giao khoán ruộng đất cho nông dân xã viên sử dụng ổn định lên dài. Hợp tác xã có chức năng làm dịch vụ phục vụ xã viên thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Sau đại hội Đảng toàn quốc khoá VII nghị quyết của hội nghị trung ương lần thứ 5 về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế xã hội nông thôn (6-1993) đã đề ra việc đổi mới kinh tế hợp tác xã, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên cụ thể là: tiếp tục đổi mới các hợp tác xã theo hướng phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị trí quan trọng lêu dài của kinh tế hộ xã viên.
Ngày 20-03-1996 Nhà nước ta ban hành luật hợp tác xã nhằm định hướng cho công cuộc chuyển đổi hợp tác xã từ kiểu cũ sang kiểu mới một cách có kết quả. Theo luật hợp tác xã, các hợp tác xã sẽ chuyển sang kinh doanh phục vụ cho sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân xã viên. Đưa hợp tác xã bước sang giai đoạn phát triên mới phù hợp hơn với điều kiện khách quan, phát huy sức mạnh của kinh tế hợp tác. Đưa kinh tế hợp tác xã thực sự trở thành một nhân tố quan trọng trong sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp nước ta.
Nghị định 42/CP của chính phủn gày 29 tháng 04 năm1997 dã ban hành điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp. Điều lệ mẫu hợp tác xã nông nghiệp ra đời là nhân tố giúp cho các hợp tác xã nông nghiệp chuyển đổi tổ chức quản lý và hoạt động hiệu quả hơn. Điều lệ mẫu ra đời còn góp phần giúp đỡ các hợp tác xã nông nghiệp đảm bảo các quyền của mình trước pháp luật.
Nghị định số 15/CP của chính phủ ra ngày 21 tháng 2 năm 1997 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã. Chính sách này tạo điều kiện cho các hợp tác xã đổi mới phát triển, nó tạo điều kiện thuận lợi cho các hợp tác xã mới hình thành. Theo nội dung chính của chính sách này thì Nhà nước dành nhiều ưu đãi về đất đai, vốn để khuyến khích các hợp tác xã hình thành và phát triển. Đặc biệt là việc hình thành và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn miền núi. Mọi thủ tục đăng ký kinh doanh và thuê đất, thuê vốn để khuyến khích các hợp tác xã hình thành và phát triển, đặc biệt là việc hình thành và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, nông thôn miền núi. Mọi thủ tục đăng ký kinh doanh và thủ tục thuê đất, thuê vốn của các hợp tác xã kinh doanh và thủ tục thuê vốn của các hợp tác xã nông nghiệp được thành lập theo luật hợp tác xã đều được nhà nước tính với mức giá ưu đãi so với các thành phần kinh tế khác.
II. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TẬP THỂ NÔNG NGHIỆP
1.Giai đoạn từ đầu năm 1958 đến năm 1981
Có thể nói đây là giai đoạn Hợp tác xã nông nghiệp được hình thành một cách mạnh mẽ. Song nó cũng bị ảnh hưởng bởi cơ chế kinh tế kế hoạch của tập trung nên các Hợp tác xã vẫn chưa thực sự phát huy được vai trò của mình và có thể phân ra làm các giai đoạn nhỏ sau:
1.1. Giai đoạn 1958 -1965 đây là giai đoạn tiến hành tập thể hoá nông nghiệp trên quy mô lớn, tốc độ cao
Sau cải cách ruộng đất xuất phát từ nhận thức muốn xoá bỏ tận gốc chế độ bóc lột, chặn đứng con đường phát triển tự phát của chủ nghĩa tư bản ở nông thôn, muốn có cơ sở để tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; muốn củng cố mối liên minh công nông trong giai đoạn mới. Đảng công sản Việt Nam trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, đã quyết định hợp tác hoá nông nghiệp trên toàn miền bắc. Coi đó là khâu then chốt trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa.
Đứng trước một sự nghiệp mới mẻ, phức tạp quan điểm chỉ đạo của đảng ta lúc đó đối với phong trào hợp tác hoá là: Thận trọng, tiến hành từng bước, từ thấp đến cao.Nhưng khi chủ trương hợp tác hoá đưa vào thực hiện đã được các tổ chức đảng, chính quyền địa phương nhận thức, triển khai với một khí thế cách mạng đặc biệt phần đông nông dân tin theo đảng đã tình nguyện gia nhập hợp tác xã, các tổ chức đảng ,chính quyền,đoàn thể quần chúng hăng hái, nỗ lực vận động, giáo dục, thuyết phục quần chúng (có những nơi còn áp dụng biện pháp cưỡng bức) vì vậy mà phong trào hợp tác hoá phát triển với tốc độ không ngờ từ 3 hợp tác xã thí điểm năm1955 đến cuối năm 1958 đã có 4.273 hợp tác xã nông nghiệp. Sự phát triển ồ ạt, với một số lượng hợp tác xã nông ngiệp lớn hơn nhiều lần so với dự tính đã làm cho Đảng đi đến kết luận: "hợp tác hoá nông nghiệp là yêu cầu phát triển khách quan của nông thôn."
Tuy nhiên trước sự phát triển bất bình thường của phong trào hợp tác xã hoá nông nghiệp, đã nảy sinh những ý kiến đánh giá khác nhau: có người cho rằng hợp tác hoá sản xuất nông nghiệp đã trở thành phong trào quần chúng rộng rãi.
Có người cho rằng: quần chúng chưa có yêu cầu hợp tác hoá. mỗi ý kiến như vậy đều có điểm đúng và chưa đúng do chủ quan nóng vội mà Đảng ta nhấn mạnh tới ý kiến thứ nhất và do đó Đảng ta tiếp tục cho phong trào hoá nông nghiệp phát triển mạnh mẽ đưa ra mô hình hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xác bậc cao, hợp tác xã toàn xã.
Như vậy đến cuối năm 1960 toàn miền bắc đã căn bản hoàn thành xây dựng Hợp tác xã bậc thấp, thu hút 2,4 triệu hộ nông dân chiếm 85,8% số hộ, với 76% diện tích ruộng đất đi vào làm ăn tập thể.
Nhưng đằng sau những con số đáng phấn khởi đó, trong đời sống thực tế ở nông thôn lúc này, Hợp tác xã nông nghiệp đã mang trong mình những yếu tố bất ổn: Năm, 1958 - 1959 có 20 Hợp tác xã tan rã, 5500 hộ xã viên xin ra Hợp tác xã.
Trước tình hình như vậy Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm tăng cường và củng cố Hợp tác xã nông nghiệp tuy vậy trong qúa trình củng cố nhiều địa phương vẫn sa vào khuynh hướng mệnh lệnh gò ép một chiều thậm chí trù dập những người khác chính kiến.
Mặc dù, phong trào hợp tác hoá đã bỏ được chế độ bóc lột, lao động tập thể thay thế lối làm ăn cá thể nhưng do quản lý yếu kém mà biểu hiện là chưa có phương hướng sản xuất, không lập được kế hoạch dẫn tới cấy sau, cấy muộn làm cho năng suất thấp. Quản lý tài chính không minh bạch tệ nạn tham ô lãng phí phổ biến ở nhiều nơi vốn ít, sản xuất kém, mất dân chủ .Đối với dân như gò ép dân vào Hợp tác xã, xã viên xin ra khỏi Hợp tác xã không trả lại ruộng. Từ lý do trên làm cho hoạt động sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm, thu nhập của hộ nông dân, xã viên sa sút.
1.2. Giai đoạn từ năm 1965 đến năm 1975 Hợp tác xã nông nghiệp trong thử thách của chiến tranh.
Từ đầu năm 1965 đế quốc mỹ đã huy động một lực lượng lớn không quân, hải quân đánh phá miền bắc nhằm tiêu diệt tiềm lực kinh tế quốc phòng của miền bắc, chặn đứng sự tiếp viện từ hậu phương lớn vào tuyền tuyến lớn. Để đối phó với đế quốc mỹ và đánh bại âm mưu của địch. Đảng và Nhà nước ta có chủ trương tiếp tục củng cố hợp tác xã và tăng cường chi viện sức người, sức của cho cách mạng miền nam.
Trong năm chiến tranh, các Hợp tác xã tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật cùng với việc áp dụng thành tựu giống mới, cùng với sự đầu tư của Nhà nước sự hỗ trợ của công nghiệp trung ương, công nghiệp địa phương mà các Hợp tác xã nông nghiệp đã đạt được những thành quả nhất định như có: 2.555 Hợp tác xã đạt năng xuất 5 tấn/ha/2vụ.
Chiến tranh, một mặt đã gây cho sản xuất nông nghiệp nhiều khó khăn. làm đảo lộn và giảm sút sức lao động ,tàn phá cơ sở vật chất, mặt khác chiến tranh đã khuyến khích sự phát triển mãnh liệt của truyền thống cộng đồng làng xã. Mô hình Hợp tác xã tập thể hoá ở một khía cạnh nào đó đã tỏ ra thích ứng với điều kiện thời chiến phương thức tổ chức quản lý theo kiểu tập trung cho phép Hợp tác xã dành bớt lực lượng lao động để phục vụ các yêu cầu của chiến tranh. Với nguyên tắc phân phối bình quân và các chính sách hậu phương quân đội đã làm yên lòng người ra đi và người ở lại. Hợp tác xã trở thành chiếc nôi thích hợp để nuôi dưỡng phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau vốn có ở làng quê những yếu tố tích cực nàyđã làm dịu bớt hoặc che mờ đi những khuyết tật của Hợp tác xã.
Tuy nhiên ở một mặt khác qúa trình mở rộng quy mô hợp tác xã và cơ chế quản lý tập trung với phương thức điều hành ngày càng mang nặng tính chất hành chính đã làm nảy sinh những hạn chế cố hữu của Hợp tác xã như hiện tượng độc đoán, mệnh lệnh, vi phạm nặng nề nguyên tắc quản lý dân chủ.
Trong bối cảnh chế độ ba khoán đang được mở rộng ở nhiều địa phương thì năm 1966 ở vĩnh phú xuất hiện hình thức khoán hộ. Trên thực tế hình thành khoán hộ đã làm cho nông dân địa phương phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất một số mặt yếu kém và tiêu cực của Hợp tác xã có chiều hướng giảm sút. Nhưng đến tháng 12 năm 1968. Ban bí thư đã ra thông tư "Chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng rất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở các địa phương" Thông tri đã nhắc nhở các địa phương quán triệt và thực hiện nghiêm túc nội dung, nguyên tắc, chế độ ba khoán trong các Hợp tác xã đồng thời phân tích và phê phán sai lầm của hình thức khoán hộ. Thông tin nhấn mạnh hợp tác xã là một đơn vị kinh tế tập thể xã chủ nghĩa cách quản lý Hợp tác xã phải tập trung vào chế độ lao động tập thể nhằm sử dụng tốt tài nguyên và lao động một cách có tổ chức để phát triển sản xuất tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống xã viên và làm tốt nghĩa vụ đối với nhà nước.
Để tiếp tục củng cố hợp tác xã tháng 4 năm 1969 điều lệ Hợp tác xã bậc cao được ban hành. Điều lệ này gồm 10 chương 33 điều, nêu rõ chức năng, nhiệm vụ, nguyên tắc dân chủ, nội dung quản lý và vấn đề phân phối thu nhập của Hợp tác xã bậc cao.
Điều lệ Hợp tác xã bậc cao được ban hành cùng với việc triển khai cuộc vận động dân chủ tuy có tạo ra được sự phấn khởi của nông dân xã viên lúc ban đầu, nhưng về cơ bản vẫn chưa giải quyết được khuyết tật chính của Hợp tác xã.
Bước vào những năm 70 trước yêu cầu ngày càng lớn của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước ta đề ra những chủ trương quan trọng nhằm tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong hậu phương lớn miền bắc.
Đầu năm 1971 hội nghị ban chấp hành trung ương 19 khoá III đã đánh giá toàn diện những mặt tích cực và hạn chế của phong trào hợp tác hoá; đề ra chủ trương tổ chức lại sản xuất đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Hội nghị đề ra phương hướng mở mang nông nghiệp trên cả ba vùng: Đồng Bằng, Trung Du, Miền Núi, tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung , chuyên canh, mở thêm các vùng kinh tế mới, đưa chăn nuôi trở thành một ngành sản xuất chính.
Trong hai năm 1972 - 1973, tư tưởng chỉ đạo của hội nghị trung ương 19 đã được thể hiện trong đời sống. Các Hợp tác xã đã tập trung bố trí lại cơ cấu sản xuất, quy hoạch và xây dựng các vùng chuyên canh; tập trung xây dựng các chuồng trại chăn nuôi tập thể. Các ngành ở trung ương và địa phương đã đầu tư vốn, Kỹ thuật để xây dựng một số vùng kinh tế mới ở các tỉnh trung du và miền núi. Tuy vậy sản xuất nông nghiệp vẫn phát triển chậm, cục diện kinh tế miền bắc vẫn chưa có những chuyển biến tương xứng với sự quan tâm dầu tư vốn của Đảng và Nhà nước.
Sau đó Đảng ta nhấn mạnh tới vấn đề tổ chức lại sản xuất tiến hành phân vùng quy hoạch lại đất đai, xây dựng vùng chuyên canh tiến hành quy hoạch thuỷ lợi cải tạo đồng ruộng, giao thông, đưa cơ khí vào nông nghiệp. Một chủ trương lớn tiếp theo đó là: Quy hoạch lại Hợp tác xã, hợp nhất các Hợp tác xã thành quy mô lớn chủ yếu là quy mô toàn xã, tiến hành trang bị cơ khí, xây dựng cơ sở vật chất Kỹ thuật trên địa bàn xã.
Và như vậy đến cuối giai đoạn 1965 đến 1975 mô hình Hợp tác xã nông nghiệp dã được đẩy tới đỉnh cao, hoàn chỉnh nhất sự phân công lao động trong các hợp tác xã đã được mô phỏng theo hình mẫu chuyên môn hoá, tập trung hoá trong sản xuất đến cuối năm 1975 có 97% số hộ nông dân đã vào hợp tác xã trong đó 88% số hộ nông dân tham gia lập Hợp tác xã bậc cao. Quy mô Hợp tác xã không ngừng mở rộng. Tuy nhiên Hợp tác xã có quy mô càng lớn, quản lý càng tập trung thì hiệu quả kinh tế càng thấp, các hộ xã viên thu nhập từ kinh tế tập thể ngày càng thấp, chủ yếu phải tìm nguồn sống ở đất 5%. Từ cuối năm 1973 đến đầu năm 1975 tiếp tục có 1098 Hợp tác xã bị giaỉ thể nhiều hợp tác xã phải chấp nhận nới lỏng cho người nông dân như là cho hộ xã viên mượn đất, khoán trắng cho đội quản lý, ăn chia theo đội, cơ chế lợi ích giữa Nhà nước, hợp tác xã và xã viên ngày càng bộ lộ rõ sự bất hợp lý.
Nhìn chung từ năm 1965 - 1975 phong trào hợp tác hoá, tập thể hoá vẫn có bước tăng trưởng. Tỉ lệ nông hộ vào hợp tác xã ngày càng cao, quy mô hợp tác xã ngày càng lớn, cơ sở vật chất Kỹ thuật của hợp tác xã ngày càng được tăng cường. Trong những năm này Nông thôn hợp tác hoá đã gửi đến các chiến trường trong cả nước hơn 2 triệu lao động trẻ, khoẻ, đã đóng góp hàng chục triệu ngày công phục vụ quốc phòng đã giải quyết có hiệu quả chính sách hậu phương quân đội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ tổ quốc và đặc biệt là sự nghiệp chống mỹ cứu nước . Mặc dầu vậy nếu xét về hiệu qủa kinh tế quản lý thì các hợp tác xã chưa phát huy được các tiềm năng sẵn có, diện tích gieo trồng bị giảm sút trông thấy, chi phí tăng vọt, sản xuất lương thực trong các Hợp tác xã dẫm chân tại chỗ, bình quân lương thực tính theo đầu người giảm đi, thu nhập của xã viên ngày càng thấp. Tệ nạn tham ô, lãng phí, hư hao, thất thoát tiền vốn của hợp tác xã tăng nhanh.
1.3. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1980 thời kỳ mở rộng hợp tác hoá tập thể hoá nông nghiệp trên phạm vi cả nước
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã đưa dân tộc ta bứơc vào kỷ nguyên mới: cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời với quá trình xúc tiến thống nhất đất nước về mặt Nhà nước và Đảng. Thì chúng ta cũng chú trọng tới việc xây dựng đất nước thống nhất về mặt kinh tế xã hội. Trong giai đoạn này song song với việc mở rộng cuộc vận động tổ chức lại sản xuất cải tiến quản lý nông nghiệp được triển khai trên địa bàn phía nam.
Với miền bắc, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục chỉ đạo tổ chức lại sản xuất cải tiến quản lý nông nghiệp
Về tổ chức lại sản xuất vấn đề trước hết là nắm lại tư liệu sản xuất đặc biệt là ruộng đất, kiên quyết thu hồi những tư liệu sản xuất bị lấn chiếm, khắc phục tình trạng sử dụng tuỳ tiện lãng phí, triệt để khai thác ruộng đát hoang hoá đưa vào sản xuất.
Tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung xoá bỏ kiểu tổ chức sản xuất và ăn chia theo đội thực hiện việc quản lý sử dụng ruộng đất tập trung, thống nhất trên quy mô hợp tác xã. Các Hợp tác xã phân phối lại ruộng đất cho các độ trên nguyên tắc tiện cư tiện canh với quy mô lớn, tránh phân tán, chia sẻ ruộng đất manh mún.
Các hợp tác xã tuỳ theo đặc điểm, điều kiện tự nhiên, cơ cấu cây trồng cần xây dựng thực hiện chế độ canh tác và quy trình Kỹ thuật chặt chẽ, chuyển sản xuất tập thể từ kiểu làm ăn phân tán, tự cấp , tự túc sang sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch.
Mở rộng quy mô Hợp tác xã từ vài trăm hecta trở lên, đồng thời cố gắng mở rộng diện tích gieo trồng.
Về cải tiến quản lý , cần tổ chức lao động theo hướng tập trung , chuyên môn hoá. Hợp tác xã bao gồm các đội sản xuất cơ bản, các đội chuyên khâu, thực hiện phân công, hiệp tác thông qua hợp đồng tập thể dưới sự điều hành của ban quản trị.
Trong hợp tác xã, đội là tổ chức chuyên môn .Ban quản trị là cơ quan thống nhất quản lý mọi công việc của Hợp tác xã, điều phối các yếu tố sản xuất, chỉ huy lịnh canh tác và toàn bộ quy trình sản xuất.
Theo hướng phát triển như vậy tính đến năm 1980 toàn miền bắc có 4154 Hợp tác xã với quy mô toàn xã, một số nơi đã hợp nhất 2 - 3 xã thành một Hợp tác xã liên xã với quy mô trên 1000 hecta. Quy mô các đội sản xuất cũng được mở rộng tương ứng.
Nhưng ở giai đoạn này mô hình Hợp tác xã ở miền bắc đã được đẩy tới trình độ cao nhất và cũng bộc lộ rõ rệt, đẩy đủ nhất tính phi lý. phi hiệu quả của nó.
Tình trạng thất thoát, mất mát, hư hao tiền vốn, tài sản cố định trong các Hợp tác xã trở thành phổ biến ở mức trầm trọng.
Bộ máy quản lý hợp tác xã phình ra qúa lớn, trở nên cồng kềnh ngày càng xa với thực tiễn sản xuất. Sự điều hành sản xuất nông nghiệp ngày càng trở lên cứng nhắc, nặng nề do sự chỉ đạo áp đặt từ cấp huyện xuống và sự can thiệp quá sâu của các tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở.
Hiệu quả kinh tế của các hợp tác xã giảm sút đến mức báo động. Diện tích ruộng đất bỏ hoang ngày càng nhiều. Chi phí sản xuât tăng vọt, các ngành nghề làm ăn thua lỗ. Năng suất, sản lượng suy giảm, thu nhập của xã viên ngày càng thấp.
Thực trạngđó đã làm cho nông dân xã viên trễ nải công việc tập thể, dồn sức vào mảnh đất phần trăm. Kinh tế hộ gia đình tuy bị thu hẹp tối đa, song nó lại là nguồn thu nhập chủ yếu quan trọng nhất của nông dân. Sự khủng hoảng, rệu rã đã trở thành phổ biến trong các hợp tác xã. Mô hình hợp tác xã, tập thể hoá đứng trước nguy cơ tan rã.
Còn ở miền Nam sau ngày giải phóng sản xuất nông nghiệp ở các tỉnh phía nam đã từng bước được phục hồi và cải tạo theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa những mô hình và kinh nghiệm hợp tác xã, tập thể hoá ở miền bắc đã được áp dụng vào quá trình này, trong khi hoàn cảnh, điều kiện nông thôn nông dân nông nghiệp các tỉnh phía nam có nhiều điểm khác nhau so với nông thôn, nông nghiệp ở các tỉnh phía bắc.
Sự biểu hiện khác biệt đó là trình độ sản xuất nông nghiệp nam bộ đã hội tụ các điều kiện và môi trường của một nền sản xuất hàng hóa.
Nền nông nghiệp miền nam đã cơ giới hoá với trình độ khá cao. Trung bình trên một hecta đát canh tác đã có 1,2 sức ngựa do các hộ nông dân đầu tư, quản lý và sử dụng. Khối lượng phân hoá học được sử dụng gần 1 triệu tấn/năm; 31,8% diện tích được gieo trồng giống lúa mới, có sự phân công lao động đa dạng, hệ thống cung ứng dịch vụ máy móc, xăng dầu, phụ tùng, cơ khí; phân bón thuốc sâu mở rộng đến các vùng các tụ điểm kinh tế, các đầu mối giao lưu từ sự bất cập trong việc vận dụng mô hình Hợp tác xã ở miền nam dã làm cho sản xuất nông nghiệp có chiều hướng suy giảm so với năm 1978 thì năm 1980 diện tích canh tác giảm đi 9,45 vạn ha, sản lượng lương thực tụt mất 4,1 vạn tấn. Cuối năm 1980 hàng loạt Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã toàn miền chỉ còn lại 3732 tập đoàn sản xuất và 173 Hợp tác xã quy mô vừa.
Nhìn chung trên phạm vi cả nước, trong những năm 1976 -1980 đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng lên nhưng năng suất lúa, sản lượng lương thực giảm đến mức thấp Nhà nước trong tình trạng vốn ít đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Đến lúc này sự khủng khoảng không chỉ diễn ra trong các Hợp tác xã Nhà nước và ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Thực tiễn khắc nghiệt đòi hỏi nông nghiệp phải tìm một hướng đi mới.
2. Giai đoạn 1981 đến năm 1993 thời kỳ đổi mới bước cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp
2.1. Giai đoạn từ 1981 đến năm 1988
Đứng trước những thử thách khắc nghiệt của đời sống, Đảng ta đã đề ra một số giải pháp nhằm điều chỉnh chủ trương như: thừa nhận sự tồn tại của kinh tế nhiều thành phần, nới lỏng cơ chế quản lý tập trung trong các Hợp tác xã nông nghiệp, cho phép các hộ xã viên được mượn đất của Hợp tác xã để sản xuất ổn định mức nghĩa vụ giao nộp lương thực, sửa mức thuế, ổn định giá mua nông sản, bãi bỏ chế độ phân phối lương thực theo định mức, thừa nhận sự tồn tại của kinh tế gia đình xã viên như là một bộ phận hợp thành của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tư tương cởi mở này đã tạo điều kiện thuận lợi để cơ chế khoán hộ ngày càng mở rộng. Cơ chế khoán cho phép các hộ xãc viên được bỏ vốn, sức lao động đầu tư thâm canh trên ruộng đất tập thể và được phần vượt mức khoán mà Hợp tác xã quy định. Từ chế độ quản lý tập trung, phân phối thống nhất theo kiểu bình quân đến chỗ cho phép xã viên đầu tư sản xuất và được quyền hưởng trọn phần vượt khoán là một bước chuyển theo yêu cầu thực tế và sát hợp với đặc điểm và vai trò của Hợp tác xã trong nông nghiệp và mối quan hệ giữa kinh tế hộ gia đình và kinh tế hợp tác. Tư duy mới này đã thay đổi và phát triển hơn so với giai đoạn trước khi không hoà tan kinh tế gia đình trong kinh tế Hợp tác xã.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình thực tiễn ngày 13 tháng 1 năm 1981 chỉ thị 100 CT/TW của ban bí thư trung ương ra đời chính thức thừa quyết định chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động. Chỉ thị này nêu rõ mục đích của việc thực hiện cơ chế khoán mới trong các hợp tác xã nông nghiệp là nhằm đảm bảo phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất, lôi cuốn được mọi người lao động hăng hái tham gia sản xuất, kích thích tăng năng suất lao động, sử dụng tốt đất đai, tư liệu sản xuất hiện có, áp dụng tiến bộ Kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn nâng cao thu nhập xã viên tăng tích luỹ cho hợp tác xã, tăng khối lượng nông sản cho nhà nước với mục đích như vậy chỉ thị 100 có thể coi là cái mốc khởi đầu cho một quá trình đổi mới từng bước cơ chế quản lý nông nghiệp và cơ chế quản lý hợp tác xã ở nước ta. Sau hơn 4 năm thi hành chỉ thị 100 và hệ thống các chỉ thị tiếp đó của ban bí thư trung ương thì sản xuất nông nghiệp nước ta có những bước tiến đáng kể. Từ 1981 tới năm 1985 sản lượng lương thực quy thóc tăng 27%, năng suất lúa tăng 23,8% diện tích cây công nghiệp hàng năm tăng 62,1%, đàn bò tăng 33,2% đàn lợn tăng 22,1% tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp trong giai đoạn này cao hơn hẳn các giai đoạn trước. Tổng sản phẩm nông nghiệp tăng 6%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,5% sản lượng lương thực tăng 5%, lương thực bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước. Đây là xu hướng mới lành mạnh không thể có được trong thời kỳ 1980 trở về trước.
Nhưng từ năm 1986 đến năm 1988 thì cơ chế khoán sản phẩm theo tinh thần chỉ thị 100 sau một thời gian phát huy tác dụng đã bộc lỗ rõ những hạn chế. Cơ chế khoán sản phẩm tuy đã tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp, làm thay đổi bước đầu cơ chế quản lý trong hợp tác xã, song về cơ bản mô hình hợp tác xã vẫn dựa trên sở hữu tập thể, quản lý tập trung, phân phối thống nhất theo chế độ công điểm. Hợp tác xã nông nghiệp vẫn bị ràng trói trong tổng thể cơ chế tập trung, quan liêu của Nhà nước, thu nhập của hộ nông dân từ kinh tế tập thể vẫn thấp, mức khoán, Hợp tác xã giao cho xã viên không ổn định, nông dân tiếp tục phải đóng góp thêm nhiều khoản cho Hợp tác xã, lợi ích của người lao động bị vi phạm. Thực trạng này đã làm cho động lực vượt khoán vừa được tạo ra đã dần bị triệt tiêu, tình trạng nông dân nợ sản phẩm tăng lên xã viên trả bớt ruộng khoán, lương thực nhà nước huy động được ngày một giảm Năm 1987 do tác động của thiên tai những mặt yếu kém trong sản xuất nông nghiệp ngày càng bộc lộ rõ sản xuất lương thực giảm gần 1 triệu tấn, dần đến tình trạng nhân dân bị nạn đói hoành hoành từ tháng 3 năm 1987 đến tháng 3 năm 1988 ảnh hướng đến đời sống hàng triệu người. Thực trạng này đỏi hỏi phải có những chủ trương, biện pháp tháo gỡ kịp thời.
2.2. Giai đoạn từ năm 1988 tới năm 1993
Ngày 5 tháng 4 năm 1988 Bộ chính trị trung ương đảng đã họp để đánh giá tình hình và ra nghị quyết "về đổi mới trong quản lý kinh tế nông nghiệp" đó chính là nghị quyết số 10. Trong nghị quyết này Bộ chính trị đã đưa ra những quan điểm mới: Hợp tã xã là đơn vị kinh tế tự chủ, tự quản: hộ gia đình xã viên là đơn vị nhận khoán với hợp tác xã. Theo tư tưởng chi đạo này, cơ chế quản lý hợp tác xã nông nghiệp đã đổi mới trên 3 nội dung chủ yếu.
Về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất có một bước điều chỉnh quan trọng: giao khoán ruộng đất ổn định, dài hạn trong khoảng 10 năm - 15 năm; chuyển nhượng, bán ,hoá giá trâu bò và những tài sản cố định mà hợp tác xã quản lý, sử dụng kém hiệu quả cho hộ xã viên.
Về quan hệ quản lý, khẳng định một bước vai trò tự chủ của hợp tác xã; thực hiện chế độ khoán hộ, hộ được quyền tự chủ đầu tư thâm canh phát triển sản xuất theo kế hoạch, định hướng của hợp tác xã.
Về quan hệ phân phối, xoá bỏ chế độ hạch toán và phân phối theo công điểm; xã viên chỉ có nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước và đóng góp xây dựng quỹ của hợp tác xã. Các hoạt động dịch vụ sản xuất giữa hợp tác xã và xã viên đều thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ. Hộ xã viên được quyền làm chủ về kinh tế; được hưởng trên dưới 40% sản lượng khoán.
Đồng thời với những nội dung đổi mới cơ chế quản lý hợp tác xã, nghị quyết 10 còn nhấn mạnh việc sử dụng và phát huy các thành phần kinh tế trong nông thôn, xây dựng nông thôn mới.
Từ đây Đảng ta đã đi đến hoàn thiện nhận thức về hợp tác xã. Hợp tác xã là đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
Kinh tế hợp tác xã có nhiều hình thức từ thấp tới cao. Mọi tổ chức sản xuất, kinh doanh do người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức và được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất đều là hợp tác xã.
Từ đây hộ gia đình xã viên trở thành đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán với hợp tã xã còn chủ động phát triển sản xuất, kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích hộ gia đình xã viên làm giàu đồng thời có chính sách cụ thể giúp đỡ những hộ nghèo túng có thêm điều kiện để vươn lên làm ăn khá.
Hộ gia đình nông thôn từng bước được phục hồi chức năng một đơn vị kinh tế trọng yếu ở nông thôn, người nông dân, xã viên dần dần được phát huy vai trò chủ thể và chủ động trong quá trình sản xuất nông nghiệp. Những thành tố lỗi thời của mô hình hợp tác xã, tập thể hoá đã từng bước được ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLKT157.doc