MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU.1
CHƯƠNG I / MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DNNN.2
I/ Tính tất yếu khách quan.2
1. Định nghĩa về DNNN.2
2. Các bộ phận cấu thành của KTNN.2
3. Sự cần thiết phải củng cố và phát triển DNNN .3
3.1 Sự cần thiết của DNNN 3
3.2 Sự cần phải phát triển DNNN 5
II/ Vai trò then chốt của DNNN 11
CHƯƠNG II/ THỰC TRẠNG DNNN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 12
I/ Quá trình đổi mới DNNN 12
1. Giai đoạn 1980-1986 12
2. Giai đoạn 1986-1990 13
3. Giai đoạn 1990 đến nay 15
3.1 Đổi mới cơ chế quản lý DNNN 15
3.2 Sắp xếp lại DNNN 17
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua 20
1. Những thành tựu chủ yếu 20
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay 21
2.1 Về hiệu quả kinh doanh 21
2.2 Về khả năng cạnh tranh 22
2.3 Về cơ cấu DNNN 23
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN 23
3.1 Đầu tư sai 23
3.2 Tình trạng thiếu vốn phổ biến 24
3.3 Trình độ kỹ thuật, công nghệ lạc hậu 25
3.4 Số lao động dư thừa đang rất lớn 25
3.5 Doanh nghiệp không được tự chủ về tài chính 25
3.6 Không được tự chủ về nhân sự và tiền lương 25
3.7 Tổ chức quản lý không phù hợp 26
3.8 Môi trường kinh doanh chưa hoàn chỉnh 26
CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI DNNN TRONG THỜI GIAN TỚI 27
I/ Phương hướng đổi mới các DNNN trong thời gian qua 27
II/ Giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển DNNN 28
1. Định hướng sắp xếp, phát triển DNNN hoạt động kinh doanh và hoạt động công ích 28
1.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh 28
1.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích 28
2. Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách 29
2.1 Đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh 29
2.2 Đối với doanh nghiệp hoạt động công ích 30
2.3 Giải quyết lao động dôi dư và nợ không thanh toán được 31
3. Đổi mới và nâng cao hiệu quả của các tổng công ty nhà nước; hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh 31
4. Đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN 32
5. Thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê, sáp nhập, giải thể, phá sản DNNN 32
KẾT LUẬN 33
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình đổi mới kinh tế ở nước ta có thể chia thành ba giai đoạn
Giai đoạn 1980 – 1986
Giai đoạn đổi mới này gắn liền với đổi mới quan điểm của đảng và nhà nước về quản lý kinh tế nói chung và DNNN nói riêng. Cơ chế quản lý cũ đã tỏ ra kìm hãm sức sản xuất, triệt tiêu động cơ phát triển, hậu quả là nền kinh tế trì trệ, tụt dốc, khủng hoảng, đời sống nhân dân xa sút. Các DNNN ngày càng xa sút. Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ sáu khoá IV tháng 9 – 1979 đã ra nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cấp bách đánh giá tình hình thực tiễn và những yêu cầu bức thiết của xã hội, trong đó nhấn mạnh phải “ cải tiến chính sách phân phối, lưu thông ( giá, lương, tài chính, ngân hàng ). Tiếp đó Chính phủ đã ban hành các quyết định có liên quan để điều hành nền kinh tế nói chung và các DNNN nói riêng như quyết định số 25/CP tháng 1-1981 về kế hoạch ba phần, quyết định số 26 /CP tháng 2-1981 về phân phối lưu thông ... Nghị quyết trung ương 6 khoá IV và quyết định 25/CP là bước tiến đầu tiên trong việc cơ chế quản lý các DNNN từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sau đó là các quyết định quan trọng như quyết định số 146/HĐBT tháng 2-1982; nghị quyết 306 ( dự thảo ) của Bộ Chính trị và quyết định 16/HĐBT tháng 6-1986 đều đưa ra những quan điểm và biện pháp đổi mới quản lý DNNN trong điều kiện cải tiến , cơ chế quản lý nói chung.
Các biện pháp đổi mới giai đoạn này chủ yếu tập trung vào tháo gỡ những vướng mắc, rào cản vô lý của cơ chế cũ, do đó có tác dụng như cởi trói, giải phóng năng lực sản xuất của các DNNN và cùng với các biện pháp khoán trong nông nghiệp, cải cách phân phối lưu thông đã có tác dụng thúc đẩy sản xuất nói chung, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, tụt dốc. Đối với các DNNN, việc cho phép các đơn vị tự chủ bố trí các nguồn lực sản xuất theo kế hoạch ba phần đã có ý nghĩa rất quan trọng trong phát huy sáng tạo của cơ sở, từng bước đưa các yếu tố thị trường vào cơ chế quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, các biện pháp giai đoạn này vẫn mang tính nửa vời, chắp vá ( biểu hiện ở kế hoạch ba phần, cơ chế song trùng ) dẫn đến hệ quả khó hạch toán, khó kiểm soát, khó đánh giá, lợi dụng sự rối rắm của cơ chế quản lý để trục lợi, trong khi năng lực sản xuất và sức sáng tạo vẫn chưa thực sự được giải phóng.
Giai đoạn 1986 – 1990
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng năm 986 đánh dấu bước ngoặt cơ bản trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung ởt nước ta, trong đó có đổi mới DNNN. Đại hội chỉ rõ: “ phải đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho các đơn vị kinh tế quốc doanh có quyền tự chủ, thực sự chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, lập lại trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế. Sắp xếp lại sản xuất, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả. Trên cơ sở đó, ổn định và từng bước nâng cao tiền lương thực tế của công nhân, viên chức, tăng tích luỹ cho xí nghiệp và cho nhà nước”. Đại hội VI vẫn tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của DNNN nhưng đã đưa ra quan điểm coi chủ đạo không có nghĩa là phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, mọi địa phương mà thể hiện ở “ năng suất, chất lượng, hiệu quả”
Sau đại hội đảng lần thứ VI, đổi mới DNNN thực sự trở thành nội dung trung tâm của tiến trình đổi mới toàn bộ hệ thống kinh tế theo hướng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sức sản xuất xã hội. Tháng 11 – 1987 Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ ) ban hành quyết định 217/HĐBT đánh dấu bước đổi mới cơ bản DNNN theo hướng áp dụng cơ chế mới. Tiếp theo là các nghị định 50/HĐBT(3-1988) bổ sung quyết định 217, nghị định 27/HĐBT ( 3-1989 ) ban hành điều lệ xí nghiệp quốc doanh ( DNNN ) ... đã thúc đẩy tiếp quá trình đổi mới DNNN.
Giai đoạn này đối với DNNN lầ giai đoạn bước ngoặt đưa các DNNN chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh theo nguyên tắc thị trường hay gọi là quá trình thương mại hoá có tác dụng bắt buộc các doanh nghiệp phải định hướng vào thị trường, đồng thời tăng quyền tự chủ của doanh nghiệp trong các quyết định kinh doanh. Về mặt quan hệ với nhà nước, trong giai đoạn này hệ thống quan hệ kế hoạch dần dần chuyển từ kế hoạch trực tiếp sang kế hoạch gián tiếp, do đó các DNNN từ chỗ phải hoạt động theo kế hoạch với 9 chỉ tiêu pháp lệnh dần dần bãi bỏ chỉ còn 1 chỉ tiêu nộp ngân sách, xoá bỏ bao cấp từ ngân sách nhà nước, bãi bỏ chế độ 2 giá, hạch toán kinh doanh theo giá thị trường. Về quản lý, quyết định 217/HĐBT trao quyền tự chủ rất rộng rãi cho doanh nghiệp mà hầu như không có biện pháp kiểm soát tương ứng. Các doanh nghiệp lại trao quyền tự chủ cho các bộ phận, chi nhánh của mình trong tìm kiếm, ký hợp đồng và tổ chức sản xuất kinh doanh với các khách hàng dẫn đến tình trạng “trăm hoa đua nở” rất sôi động nhưng cũng rất phức tạp, khó quản lý về mặt nhà nước .
Điều đáng chú ý trong giai đoạn này là thực hiện chủ trương phân cấp, nhà nước, trung ương giao quyền cho chính quyền các địa phương ra quyết định thành lập các DNNN. Vì vậy chỉ trong vòng 4 năm số lượng DNNN tăng lên gần gấp 2 lần, đưa số DNNN của Việt nam lên 12084, trong đó đến 60% là các doanh nghiệp do địa phương quản lý. Rất nhiều DNNN do chính quyền địa phương quyết định thành lập hầu như không được cấp vốn, chủ yếu hoạt bằng vốn vay ngân hàng.
Nhìn chung, các DNNN giai đoạn này đã từng bước đổi mới. Một bộ phận doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, ngược lại một bộ phận khác không thích nghi được với thị trường, thua lỗ triền miên, trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Về tổng thể khu vực DNNN vẫn được giữ vai trò chủ đạo của mình, chiếm trên dưới 35% GDP và 60% nộp ngân sách nhà nước .
Giai đoạn 1990 đến nay
Tiếp tục đường lối đổi mới kinh tế, đại hội toàn quốc lần thứ VII năm 1991 đã chủ trương: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm vững những lĩnh vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Tập trung lực lượng củng cố và phát triển những cơ sở trọng điểm, những cơ sở làm ăn có hiệu quả và có ý nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân. Cho thuê, chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên. sắp xếp lại các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường” và “khu vực quốc doanh phải được sắp xếp lại, đổi mới công nghệ và tổ chức quản lý, kinh doanh có hiệu quả, liên kết và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác, thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước.
Đại hội VIII của đảng năm 1996 tiếp tục khẳng định: “ tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển, làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”.
Thực hiện đường lối đổi mới của đảng, Chính phủ đã ra hàng loạt quyết định về đổi mới DNNN và trên thực tế đã tổ chức thực hiện hàng loạt biện pháp rất mạnh trên cả hai mảng: sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế quản lý DNNN. Đó là quyết định 315/HĐBT(9-1990), nghị định 388/HĐBT (11-1991), các quyết định 90 và 91/TTg (3-1994), luật doanh nghiệp nhà nước (4-1995), chỉ thị 500/TTg (8-1995), nghị định 28/CP (5-1996), nghị định 56/CP ( 10-1996), nghị định 59/CP ( 10-1996), nghị định 50/CP (8-1996), chỉ thị 20/TTg (4-1998) và nghị định 44/CP (6-1998); đồng thời từng bước làm rõ thêm quan hệ quản lý giữa nhà nước và doanh nghiệp.
Đổi mới cơ chế quản lý DNNN
Theo quyết định 315/HĐBT các doanh nghiệp phải rà soát lại chức năng hoạt động kinh doanh, rà soát lại các yếu tố sản xuất kinh doanh như: thị trường, công nghệ, vốn, tổ chức lao động, tổ chức bộ máy và cán bộ, soát xét lại tình hình tài chính doanh nghiệp, chấp hành kỷ luật tài chính, kế toán, thống kê. Những xí nghiệp không tiêu thụ được sản phẩm, không thực hiện được nhiệm vụ kinh doanh, liên tiếp bị lỗ trong thời gian dài, không có khả năng thanh toán và không thể khắc phục bằng các biện pháp như chuyển hướng sản xuất, thay đổi mặt hàng, đầu tư trang bị lại, cũng như các biện pháp về chấn chỉnh và tổ chức lại sản xuất kinh doanh với sự hỗ trợ của cấp trên ... có thể bị tuyên bố giải thể.
Theo nghị định 388/HĐBT, các DNNN phải được thành lập lại, đăng ký lại để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài. Như vậy, nghị định 388 như một giải pháp hợp pháp hoá, chính thức hoá để công nhận các DNNN tồn tại được trong cơ chế thị trường; đồng thời loại bỏ những doanh nghiệp đã bị thị trường loại bỏ trên thực tế nhưng vẫn tồn tại trên danh nghĩa. Các ngành, các địa phương đã khẩn trương triển khai và coi đây là một công tác quan trọng nhằm thúc đẩy tổ chức và sắp xếp lại một bước để nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN. Điểm mới trong chủ trương này là lần đầu quy định các điều kiện tối thiểu về vốn pháp định, ngành nghề kinh doanh, luận chứng về thị trường tiêu thụ sản phẩm trong việc thành lập DNNN. Thực hiện nghị định 388/HĐBT các bộ, địa phương và từng doanh nghiệp tiến hành rà soát lại tổ chức của từng đơn vị để tổ chức theo đúng chức năng, nhiệm vụ được quy định vừa đảm bảo quyền tự chư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa đảm bảo sự kiểm tra giám sát của nhà nước
Luật doanh nghiệp nhà nước ban hành tháng 4-1995 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo ra cơ sở pháp lý tổng quát trong quan hệ giữa
DNNN và nhà nước.
Về các nội dung cụ thể của cơ chế, đáng chú ý là hai mảng: tài chính và lao động. Nghị định 59/CP ( 1996), sau đó là nghị định 27/CP (1999) bổ sung, sửa đổi nghị định 59 nhằm xác lập cơ chế tài chính đối với DNNN. Theo các nghị định này, một loạt biện pháp được áp dụng: chuyển chế độ cấp vốn sang chế độ giao nhận vốn, chuyển từ định mức vốn sang chế độ xác định vốn điều lệ cho doanh nghiệp, tăng quyền tự chủ tài chính đồng thời gắn với trách nhiệm bảo toàn vốn, áp dụng một loạt hình thức tài chính mới như bán trái phiếu, lập các quỹ dự trữ tài chính, quỹ dự phòng mất việc làm ... Về cơ chế sử dụng lao động, theo tinh thần bộ luật lao động (12-1994) đã có một loạt quyết định cho phép DNNN tăng quyền tự chủ trong sử dụng lao động và trả lương: chuyển chế độ biên chế sang hợp đồng, áp dụng cơ chế quản lý theo lương tối thiểu, cơ chế tuyển dụng, thôi việc thoả ước tập thể ...
Sắp xếp lại DNNN
Trong giai đoạn 1991-1993 theo quyết định 315/HĐBT tháng 9 năm 1990 về giải thể và tổ chức lại những DNNN yếu kém, nghị định 388/HĐBT tháng 11 năm 1991 về nguyên tắc và điều kiện là thành lập lại DNNN, quyết định số 202/CP ngày 8 tháng 6 năm 1992 thí điểm cổ phần hoá một số DNNN.
Trong giai đoạn 1994-1997, theo quyết định số 90/TTg và 91/TTg và chỉ thị 500/TTg về sắp xếp các DNNN giải thể những liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty trước đây, hình thành những tổng công ty có quy mô lớn( tổng công ty 91) va quy mô vừa(tổng công ty 90), nghị định 28/CP( 5-1996) về chuyển đổi một số DNNN thành công ty cổ phần.
Từ giữ những năm 1998 đến nay, theo chỉ thị 20/CT-TTg ( 4-1998), chỉ thị 15/CT-TTg ( 5-1999) và nghị định 44/CP về cổ phần hoá kết hợp phương án tổng thể sắp xếp DNNN. Có ba nội dung cơ bản về sắp xếp tổ chức lại DNNN được nhấn mạnh là: sắp xếp DNNN theo phương án tổng thể từng vùng, ngành,tổ chức lại tổng công ty theo hướng thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế : cổ phần hoá DNNN. Nghị định số 103/1999/NĐ-CP về giao , bán, khoán, cho thuê DNNN có vốn dưới 1tỷ đồng kinh doanh thua lỗ kéo dài thuộc ngành nhà nước không cần nắm giữ cổ phần đã được ban hành ngày 10-9-1999 để có cơ sắp xếp các DNNN nhỏ, yếu kém.
Giữa năm 2000 theo số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương, đã giảm được trên một nửa số đầu mối DNNN, tổng số từ trên 12000 doanh nghiệp giảm xuống còn 5280 doanh nghiệp, trong đó có 732 doanh nghiệp công ích và 4548 doanh nghiệp kinh doanh. Như vậy số DNNN đã giảm trên một nửa, trong đó 48% là sáp nhập vào các doanh nghiệp lớn hơn, hiệu quả hơn, 52% giải thể. Mặc dù vậy tỷ trọng DNNN trong tổng sản phẩm quốc nội vẫn tăng từ 36.5% năm 1991 lên 40.7% năm 1998, và tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước , lợi nhuận trên vốn nhà nước đều tăng lên đáng kể.
Như vậy khu vực DNNN nói chung sau khi xác lập cơ chế quản lý mới và tổ chức sắp xếp lại vẫn phát triển khá. Trong 5 năm 1991-1995 tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của kinh tế quốc doanh là 11.7%, gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng bình quân của toàn bộ nền kinh tế và gấp đôi kinh tế ngoài quốc doanh
Việc sắp xếp các DNNN đã góp phần thay đổi một bước cơ cấu vốn và lao động của doanh nghiệp, có tác động nhất định đến quá trình tích luỹ và tập trung. Và bằng những chính sách hỗ trợ phù hợp chúng ta đã giải quyết được cơ bản vấn đề trợ cấp và bảo đảm chính sách cho 600000 công nhân giảm biên chế trong hai đợt sắp xếp; đồng thời lại tuyển dụng mới một số lượng gần tương đương.
Để đẩy mạnh sắp xếp lại DNNN, theo tinh thần nghị quyết hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ tư khoá VIII, thủ tướng chính phủ đã ra chỉ thị số 20/1998/CT-TTg ngày 21 tháng 4 năm 1998 thì vấn đề trọng tâm là tổ chức phân loại DNNN dựa trên sự nắm vững và phân tích tình hình hoạt động của các doanh nghiệp trong ba năm gần đây nhất để tổ chức lại sản xuất kinh doanh cho phù hợp với từng loại, DNNN được phân thành ba nhóm: nhóm một gồm những doanh nghiệp quan trọng, cần duy trì hoạt động theo luật DNNN để phát huy vai trò nòng cốt và dẫn dắt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Những doanh nghiệp thuộc loại này duy trì 100% vốn nhà nước. Nhóm hai gồm những doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu, là những doanh nghiệp không cần duy trì 100% vốn nhà nước. Nhóm ba gồm những doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài cần được sử lý thích hợp
Theo các chủ trương, quyết định, hướng dẫn của nhà nước phương hướng xử lý các doanh nghiệp sau khi phân loại quy mô lớn và trunh bình như sau:
- Đối vớidoanh nghiệp hoạt động công ích: những doanh nghiệp nào có đủ điều kiện hạch toántheo quy mô doanh nghiệp thì tiếp tục duy trì 100% sở hữu nhà nước và thực hiện các cính sách hỗ trợ đối với những nhiệm vụ mà nhà nước giao. Doanh nghiệp có trách nhiệm bảo toàn vốn và được quyền huy động thêm các nguồn vốn khác theo quy định của nhà nước, được trích lập 3 quỹ trên cơ sở hoàn thành định mức chi phí do nhà nước quy định và thực hiện cơ chế quản lý như doanh nghiệp. Còn những DNNN công ích quá nhỏ có thể thực hiện phương thức giao khoán cho tập thể lao động hoặc cho các thành phần kinh tế khác đấu thầu quản lý thực hiện hợp đồng của nhà nước.
- Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: trừ lĩnh vực nhà nước độc quyền kinh doanh cần giữ sở hữu nhà nước, còn lại các doanh nghiệp có quy mô vừa và lớn đang hoạt động có hiệu quả sẽ mạnh dạn cổ phần hoá và cho phép doanh nghiệp tự quyết định cơ cấu sở hữu trong quá trình cổ phần hoá, không cần duy trì tỷ lệ cổ phần khống chế của nhà nước hoặc duy trì một phần giai đoạn đầu rồi có thể bán tiếp trong quá trình hoạt động sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
- Những DNNN không thuộc diện độc quyền nhà nước, đang bị thua lỗ và những DNNN quá nhỏ không thể cổ phần hoá được thì áp dụng phương thức giao, bán, khoán, cho thuê, đấu thầu doanh nghiệp theo những điều kiện quy định của nhà nước. Đối với những DNNN đang lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn 2-3 năm liên tục, sau khi đã áp dụng các biện pháp khắc phục vẫn không có chuyển biến tích cực thì kiên quyết cho giai thể hoặc phá sản.
Thực hiện củ trương sắp xếp trên, đến giữa năm 2000, các bộ, địa phương và tổng công ty đã có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN. Theo tổng hợp sơ bộ của ban đổi mới doanh nghiệp, phương án đề ra của các bộ, địa phương như sau:
Số doanh nghiệp cần duy trì 100% vốn nhà nước chiếm 49.68% tổng số doanh nghiệp
Số doanh nghiệp cần chuyển đổi cơ cấu sở hữu chiếm 42.10% tổng số doanh nghiệp
Số doanh nghiệp bị thua lỗ kéo dài, liên tục từ hai năm trở lên chiếm8.22% tổng số doanh nghiệp
Tuy nhiên trên thực tế việc sắp xếp lại DNNN gặp rất ngiều khó khăn và không thực hiện đúng như đề án của chính các bộ, địa phương và tổng công ty lập nên. Cho đến cuối năm 2000 mới chỉ sắp xếp được trên 500 doanh nghiệp, chủ yếu là cổ phần hoá, đạt chưa tới 50% kế hoạch, còn các hình thức sắp xếp khác như giao, bán, khoán, đấu thầu, giải thể, phá sản hầu như chưa được thực hiện.
II/ Kết quả đạt được về quá trình đổi mới DNNN trong thời gian qua
1. Những thành tựu chủ yếu
Về tổng thể, mặc dù số lượng DNNN giảm đáng kể, số lượng công nhân điều chỉnh mạnh khoảng 600000 người ra khỏi DNNN, đồng thời cũng bổ xung một lực lượng mới. Quá trình đổi mới vừa thay đổi cơ chế quản lý, vừa tổ chức sắp xếp lại nhiều đợt trong điều kiện chuyển đổi kinh tế, nhưng khu vực DNNN vẫn có tốc độ tăng trưởng cao và giữ vị trí đáng kể trong đóng góp ngân sách và xuất khẩu. Thành tựu tăng trưởng của khu vực DNNN càng có ý nghĩa khi đặt trong tổng thể tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế thời kỳ 10 năm qua ở mức khá cao ( GDP năm 2000 đã gấp 2 lần GDP năm 1990). Như vậy tăng trưởng của khu vực DNNN cao hơn khu vực dân doanh , cao hơn tốc độ chung của nền kinh tế quốc dân
Đã thay đổi cơ bản cơ chế tài chính đối với DNNN có tác dụng xoá bỏ bao cấp cho khu vực này từ ngân sách nhà nước. Tính chung cho cả yhời kỳ 1988-1998 tỷ lệ tài trợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước dưới tất cả các hình thức: đầu tư, cấp vốn lưu động, bù lỗ, bù giá đã giảm từ mức 8.5% GDP xuống còn 0.5%GDP. như vậy về cơ bản các DNNN đã được “ thương mại hoá” - một quá trình không dễ thực hiện ở các nước chuyển đổi. Do vậy chi ngân sách nhà nước có điều kiện tập tring cho các mục tiêu khác trong khi vẫn duy trì được hiệu quả, vai trò của các DNNN như những tổ chức kinh tế hoạch toán độc lập
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNNN về tổng thể đã được nâng lên so với trước xét trên át cả các mặt. Các chỉ số về hiệu suất vốn , lãi tuyệt đối, số nộp ngân sách, tỷ lệ nộp ngân sách nhà nước trên vốn mặc dù thấp hơn nhiều so với các khu vực khác nhưng so với thời kỳ trước đổi mới đã có sự cải thiện đáng kể
Về mặt quản lý bước đầu đã phân định chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các DNNN. Cụ thể là làm rõ các quan hệ: ai là chủ sở hữu vốn; mức độ tự chủ của doanh nghiệp đến đâu, quan hệ với cơ quan chủ quản. Nhờ xác định rõ quyền tự chủ của DNNN nên trong việc thực hiện chủ trưởng liên doanh, liên kết với nước ngoài qua hoạt động đầu tư quốc tế, các DNNN ( chiếm 96% số dự án ) đã chủ động, tích cực và thực hiện khá thành công, góp phần thu hút, đẩy mạnh vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam hơn 10 năm qua.
Trong đổi mới tổ chức quản lý, mô hình tổng công ty ( chủ yếu là các tổng công ty 91 ) đã bước đầu phát huy tác dụng là những DNNN nòng cốt của kinh tế nhà nước ( hiện nay 17 tổng công ty 91 và 76 tổng công ty 90, cộng chung là 93 tổng công ty với 1534 doanh nghiệp thành viên nắm giữ 66% vốn, 55% lao động, trên 90% kim ngạch xuất khẩu, 80% nộp ngân sách của khu vực DNNN; các tổng công ty sản xuất 94% sản lượng điện, 97% than, 64% thép, 59% xi măng, 50% giấy …) Mặc dù còn nhiều vấn đề trong tổ chức mô hình tổng công ty như đã xác lập được trên thực tế nhiều tổng công ty mạnh, có khả năng thực hiện các dự án đầu tư lớn, cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài
Trong thực hiện đa dạng hoá sở hưũ: cổ phần hoá, tư nhân hoá, giao khoán, giải thể, phá sản; mặc dù tiến hành chậm nhưng sau 6 năm thí điểm , tìm tòi, tranh luận đến năm 1998-1999 chúng ta đã tươnh đối thống nhất về quan điểm và triển khai mạnh các giải pháp chuyển đổi sở hữu, đặc biệt là cổ phần hoá đều chứng tỏ tính hiệu quả của giải pháp. Rõ ràng kết quả cổ phần hoá và đa dạng hoá hình thức sở hữu thời kỳ vừa qua vừa có tác dụng, ý nghĩa khẳng định hướng tổ chức sắp xếp lại DNNN, vừa có tác dụng tập dượt mô hình và cách làm để tiến hành ở quy mô rộng hơn đối với các doanh nghiệp khó khăn hơn ở giai đoạn sau năm 2000
2. Những yếu kém chủ yếu của các DNNN hiện nay
2.1 Về hiệu quả kinh doanh
Mặc dù đã được đầu tư và ưu đãi nhiều từ phiá nhà nước, sau nhiều lần sắp xếp tổ chức lại và đổi mới cơ chế, nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ được tính hiệu quả của mình so với khu vực dân doanh, chưa đáp ứng được mong muốn của đảng và nhà nước, chưa tương xứng với tiềm lực và ưu đãi do nhà nước dành cho
Một DNNN kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện hành do bộ tài chính quy định, phải đạt các tiêu chuẩn: bảo toàn và phát triển được vốn, phải trích đủ khấu hao tài sản cố định; lương bình quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn; trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định; có lãi, nộp đủ tiền sử dụng vốn và lập đủ các quỹ doanh nghiệp như: dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển, khen thưởng, phúc lợi. Nhưng theo số liệu năm 1997 của bộ tài chính, trong tổng số 5429 DNNN thì số kinh doanh có hiệu quả chỉ chiếm 40.44%. Số liệu này thống nhất với số liệu của ban đổi mới doanh nghiệp trung ương tháng 2-2000: số doanh nghiệp có lãi thực sự chiếm 40%, số doanh nghiệp bị thua lỗ chiếm 20% ( nếu tính đủ khấu hao giá trị tài sản cố định thì doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn lớn hơn ), số doanh nghiệp còn lại nằm trong tình trạng không ổn định, khi lỗ, khi lãi và lãi cũng không lớn. Về tốc độ tăng trưởng bình quân của DNNN: sau một thời gian dài đạt liên tục tăng 13%/năm, đến năm 1998 và đầu năm 1999 tốc độ tăng còn 8-9%. Hiệu quả sử dụng vốn giảm; năm 1995, một đồng vốn tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận; đến năm 1998 các con số tương ứng chỉ còn 2.9 và 0.14; năm1998 trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ làm ra được 0.024 đồng lợi nhuận; số doanh nghiệp bị lỗ trong ngành thương mại, dịch vụ, du lịch, khách sạn chiếm tới 41%. Công nợ trong DNNN hiện quá lớn: nợ phải thu chiếm tới trên 60% và nợ phải trả bằng 124% vốn nhà nước trong doanh nghiệp, trong đó tỷ lệ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷlệ lớn. Số này đặc biệt nhiều trong các DNNN do địa phương quản lý. Do tình hình tài chính như vậy, nhà nướcvẫn phải thường xuyên dành tiền hỗ trợ cho DNNN: trong 3 năm 1997-1999 ngân sách nhà nước đã đầu tư trực tiếp cho doanh nghiệp gần 8000 tỷ đồng trong đó có 6482 tỷ đồng cấp bổ sung cho doanh nghiệp. Ngoài ra nhà nước còn miễn giảm thuế 2288 tỷ đồng, xoá nợ 1088 tỷ đồng, khoanh nợ 3392 tỷ đồng , giãn nợ 540 tỷ đồng, cho vay vốn tín dụng ưu đãi 8685 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý là việc hỗ trợ này không mang lại hiệu quả tương ứng, số nộp vào ngân sách nhà nước ít hơn phần nhà nước hỗ trợ cho doanh nghiệp. Tình trạng không hiệu quả của DNNN trong điều kiện nước ta hiện nay có nguy cơ đe doạ tính an toàn của toàn bộ hệ thống tài chính bởi vì các DNNN là các khách hàng vay chủ yếu của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh ( chiếm 57-60% vay vốn nội tệ, trên 90% vay ngoại tệ tín dụng của các ngân hàng thương mại quốc doanh )
2.2 Về khả năng cạnh tranh
Các DNNN rất yếu kém về khả năng cạnh tranh. Có nhiều ngành, sản phẩm của DNNN đang được bảo hộ tuyệt đối hoặc bảo hộ qua hàng rào thuế quan, trợ cấp ( qua ưu đãi tín dụng và bù lỗ, miễn thuế …) nhưng các DNNN vẫn chưa chứng tỏ khả năng cạnh tranh của mình, thậm chí nhiều doanh nghiệp lại cố gắng luận chứng để nhà nước tăng cường các biện pháp bảo hộ mạnh hơn để duy trì việc làm và thị phần. Theo một số số liệu nghiêm cứu gần đây của bộ kế hoạch và đầu tư, năm 2000 cho thấy các mặt hàng như thép, xi măng, phân bón, đồ điện dân dụng, kính xây dựng, sứ xây dựng, xe đạp, động cơ nổ …đều được bảo hộ bằng cả công cụ thuế quan và phi thuế quan dẫn đến giá cả thị trường Việt nam cao hơn giá quốc tế 10-50% tuỳ mặt hàng. Khả năngcạnh tranh kém của các DNNN thể hiện ngay trên thị trường nội địa: ở những ngành có khả năng sinh lợi, thị phần của cáccó xu hướng giảm sút nhường chỗ cho khu vực đầu tư nước ngoài và khu vực dân doanh … Khả năng cạnh tranh kém của các DNNN trong điều kiện Việt nam đang và sẽ thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế có nguy cơ dẫn đến tình hình đất nước sẽ phải chịu chi phí rất lớn trong tương lai để trợ cấp, duy trì các DNNN
2.3 Về cơ cấu DNNN
Khu vực DNNN có cơ cấu còn bất hợp lý. Cơ cấu ngành, vùng, quy mô còn bất hợp lý đều chưa được chuyển dịch theo hướng sắp xếp lại. Trước hết tỷ trọng DNNN ( xét về số lượng ở khu nông nghiệp ( 25%) và thương mại, dịch vụ (40%) là quá lớn trong khi một cơ cấu hợp lý đòi hỏi DNNN, đặc biệt là công nghiệp chế biến, chế tạo. Cơ cấu cấp quản lý cũng bất hợp lý ở chỗ tỷ trọng doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý qua cao ( trên 60% về số lượng ). Về quy mô, tính đến 1-9-1999 số doanh nghiệp có quy mô dưới 5 tỷ đồng chiếm 65%, trong đó gần 3/4 là doanh nghiệp địa phương, còn có đến 1314 doanh nghiệp (23%) có vốn dưới 1 tỷ đồng. Số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 21%. Với cơ cấu bất hợp lý nêu trên DNNN khó có thể thực hiện đầy đủ các chức năng và kỳ vọng về vai trò mà đảng và nhà nước mong đợi.
3. Những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của các DNNN
3.1 Đầu tư sai
Trong xây dựng mới và cải tạo các DNNN không tính đến sự biến động của thị trư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KC176.doc