MỤC LỤC
Lời nói đầu. 1
Chương I: Bản chất, đặc trưng, vai trò, tiêu chí của kinh tế trang trại. 3
1. Khái niệm và bản chất kinh tế trang trại. 3
2. Đặc trưng kinh tế trang trại. 5
3. Vai trò của kinh tế trang trại. 8
4. Tiêu chí để nhận dạng trang trại. 9
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta.
I. Quá trình phát triển kinh tế trang trại ở nước ta. 11
1. Sự phát triển kinh tế trang trại ở một số nước trên thé giới. 11
2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam. 15
II. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay. 17
1. Các loại hình kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay. 17
2. Tình hình về chủ trang trại. 19
3. Các yếu sản xuất của trang trại ở nước ta. 21
4. Tình hình tiêu thụ sản phẩm. 23
5. Khoa học công nghệ. 25
6. Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại. 26
III. Đánh giá kết quả của trang trại nước ta. 27
Chương III: Phương hướng và những giải pháp nhằm phát triển trang trại trong thời gian tới.
I. Phương hướng phát triển. 31
II. Các giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế trang trại trong thời gian tới. 33
1. Giải pháp về đất đai. 33
2. Giải pháp về lao động. 34
3. Giải pháp về vốn. 34
4. Giải pháp về khoa học công nghệ. 35
5. Giải pháp về thị trường và phát triển khoa học công nghệ chế biến. 36
6. Giải pháp về thuế. 37
7. Chính sách bảo hộ tài sản. 37
8. Giải pháp về đầu tư xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng nông thôn. 37
9. Nâng cao trình độ dân trí và trình độ chuyên môn của các chủ trang trại. 38
Chương IV: Kết luận và kiến nghị.
1. Kết luận. 39
2. Kiến nghị. 39
Tài liệu tham khảo 41
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1622 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao nhất.
- Cơ cấu thu nhập của trang trại thay đổi theo chiều hướng giảm thu từ nông nghiệp, trong khi đó thu từ các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng.
- Các chủ trang trại ngày càng chú trọng hơn vào việc đầu tư ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh và tổ chức quản lý của trang trại nhằm đáp ứng tốt hơn mục tiêu sản xuất hàng hoá của loại hình tổ chức sản xuất hàng hoá này.
- Trong chính sách của Chính phủ các nước đều có xu hướng thống nhất là kích thích, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để kinh tế trang trại thực sự phát huy được nội lực và ưu thế của nó trong quá trình phát triển hướng tới một nền nông nghiệp văn minh.
2. Tình hình chung về phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam.
Mặc dù đã xuất hiện từ rất lâu nhưng kinh tế trang trại ở Việt Nam chỉ phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, có thể xem thực hiện chỉ thị 100 Ban bí thư TW khoá IV, NQ10 của Bộ chính trị về phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân và đặc biệt sau khi luật đất đai ra đời năm 1993 thì kinh tế trang trại thực sự có bước phát triển khá nhanh và đa dạng.
Nếu theo quy định của tổng cục thống kê về tiêu chuẩn trang trại (Quyết định số 359/1998/QĐ-TCTK ngày 01/07/1998) thì cả nước có 45372 trang trại, năm 2000 có 55685 trang trại. Trong đó chia theo hướng sản xuất có 37949 trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm và cây hàng năm, chiếm 83,6%; 1306 trang trại nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 3,8%; 2559 trang trại kinh doanh tổng hợp đa ngành, chiếm 5,6%.
Chia theo vùng kinh tế: Vùng Đông Bắc có 3491 trang trại, chiếm 7,7%; vùng Tây Bắc có 238 trang trại chiếm 0,5%; vùng Đông Bằng Sông Hồng có 1394 trang trại chiếm 9,2%; vùng duyên hải miền Trung có 2706 trang trại chiếm 4,6%; vùng Tây Nguyên có 6333 trang trại chiếm 13,6%; vùng Đông Nam Bộ có 8402 trang trại chiếm 18,5%; vùng Đồng Băng Sông Cửu Long có 19259 trang trại chiếm 42,4%.
Số lao động bình quân 1 trang trại là 2,8 người, lao động thuê ngoài theo thời vụ là 11,5 người. Bình quân 1 trang trại trồng trọt có 5,3 ha đất nông nghiệp, lâm nghiệp có 26,8ha, nuôi trồng thuỷ sản có 10,7ha, chăn nuôi có 528 con trâu, bò, 530 con gia cầm. Vốn sản xuất bình quân của một trang trại là 60,2 triệu đồng; thu nhập bình quân 1 trang trại là 22,6 triệu đồng (thu nhập đã trừ chi phí).
Về quy mô diện tích của mỗi trang trại ở nước ta theo điều tra của cục thống kê cho thấy: trang trại < 1ha chiếm 15%; từ 1-5ha chiếm 28%; từ 5-10ha chiếm 34%; từ 10-20ha chiếm 16%; từ 20-50ha chiếm 4% và trên 50ha chiếm 3%.
Ngoài việc góp phần làm giàu cho các chủ trang trại, phát triển kinh tế trang trại ở Việt Nam trong những năm qua đã giải quyết việc làm tại chỗ cho hơn 50000 lao động làm thuê thường xuyên và 520000 lao động làm thuê theo thời vụ tạm thời ở nông thôn. Tổng số vốn huy động đầu tư phát triển kinh tế trang trại ước tính là 2730,8 tỷ đồng, thu nhập hàng năm từ các hoạt động kinh tế của trang trại là 1023,6 tỷ đồng. Ngoài ra các trang trại còn đóng góp đáng kể vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao mức độ che phủ của rừng từ 22% lên 28%. Kinh tế trang trại đã tự khẳng định vai trò của mình trên hầu khắp các vùng kinh tế: đồi núi, đồng bằng, ven biển.
Vùng đồi núi nước ta từ Bắc Bộ đến Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ có lợi thế về quỹ đất phát triển nông- lâm nghiệp với 9,3 triệu ha đất rừng và 9,6 triệu đất trống đồi núi trọc, có thời tiết khí hậu thuận lợi cho phát triển trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi đại gia súc theo mô hình kinh tế trang trại. Trong những năm gần đây đã xuất hiện ngày càng nhiều các mô hình kinh tế trang trại của các hộ gia đình từ miền xuôi lên trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây cà phê, chè, tiêu, điều, cao su..., chăn nuôi trâu bò với quy mô nhỏ, vừa và lớn.
Vùng ven biển: nước ta có chiều dài bờ biển trên 2000 km với các eo biển, bãi biển, đầm phá, rừng ngập mặn. Diện tích của vùng địa lý này ước tính vào khoảng 400000 ha là vùng lãnh hải rộng lớn có điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng, khai thác thuỷ sản. ở các vùng ven biển từ Bắc đến Nam đã xuất hiện các mô hình trang trại nuôi tôm, cua, cá, ngao... với đủ mọi quy mô. Đến năm 1997, vùng ven biển có 15666 trang trại có quy mô từ 5-20 ha.
Vùng Đồng Bằng: Đồng Bằng là nơi sản xuất ra 70-80% sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước và là nơi xuất khẩu toàn bộ lúa gạo. Đồng Bằng là nơi đất chật, người đông, lao động dồi dào, cơ sở hạ tầng phát triển, gần thị trường, có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Đồng Bằng Sông Cửu Long có quỹ đất tương đối dồi dào nên nhiều hộ nông dân đã thực hiện sản xuất theo mô hình trang trại với đủ quy mô từ 1-30 ha. Có trên 50% tổng số 1,8 triệu hộ nông dân Đồng Bằng Sông Cửu Long sản xuất nông sản hàng hoá, trong đó có khoảng 400000 hộ nông dân là trang trại gia đình với nhiều dạng khác nhau thông qua đấu thầu đất đai, mặt nước hoang hoá, nhận khoán thâm canh, phát triển chăn nuôi, kinh doanh tổng hợp, nuôi trồng các loại cây con đặc sản như: hoa, cây cảnh, ba ba, rùa.
II. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay.
1. Các loại hình kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay.
Là hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp, nhưng trang trại có những loại hình với các nội dung tổ chức quản lý khác nhau. Xét về tính chất sở hữu có các loại hình trang trại:
- Trang trại gia đình độc lập: là loại hình trang trại chủ yếu trong nông, lâm, ngư nghiệp với các đặc trưng được hình thành từ hộ nông dân sản xuất hàng hoá nhỏ, mỗi gia đình là chủ thể kinh doanh có tư cách pháp nhân do chủ hộ hay người có uy tín, năng lực trong gia đình đứng ra làm quản lý.
Ruộng đất tuỳ theo từng thời kỳ có nguồn gốc khác nhau (từ địa chủ, thực dân chuyển cho nông dân, từ Nhà nước giao, do thừa kế, mua bán chuyển nhượng). Quy mô ruộng đất khác nhau giữa các trang trại ở các nước và ngay trong một nước, nhưng so với các loại hình trang trại khác, trang trại gia đình thường có quy mô ruộng đất nhỏ hơn.
Vốn của trang trại do nhiều nguồn vồn tạo nên, như vốn của nông hộ tích luỹ thành trang trại, vay vốn, vốn cổ phần, vốn liên kết, vốn trợ cấp khác, nhưng trong trang trại gia đình nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng lớn chủ yếu do tích luỹ theo phương châm “lấy ngắn nuôi dài”. Điều tra 3044 trang trại năm 1999 cho thấy, vốn tự có của trang trại chiếm 91,03%, có nơi như Đắc Lắc chiếm tới 96%, nơi có tỷ trọng vốn tự có nhỏ cũng chiếm 79,9% như Sơn La.
Sức lao động của các trang trại cũng do nhiều nguồn, của trang trại và thuê mướn, nhưng trong trang trại gia đình, lao động chủ yếu từ nguồn lao động của trang trại, lao động thuê mướn chủ yếu là lao động thời vụ, lao động thuê thường xuyên chỉ ở trang trại gia đình quy mô lớn, kinh doanh sản phẩm mang tính liên tục (trồng hoa, chăn nuôi bò sữa...).
Quản lý trang trại tuỳ theo quy mô khác nhau có các hình thức quản lý khác nhau, nhưng trang trại gia đình do chủ thể gia đình trực tiếp quản lý, nếu chủ thể gia đình không có điều kiện trực tiếp quản lý tì giao cho một thành viên trong gia đình có năng lực và uy tín quản lý.
- Trang trại uỷ thác cho người nhà, bạn bè quản lý sản xuất kinh doanh từng việc theo từng vụ hay liên tục nhiều vụ. Các trang trại loại này thường có quy mô nhỏ, đất ít nên đã chuyển sang làm nghề khác, nhưng không muốn bỏ ruộng đất vì sợ sau này muốn trở về khó đòi, hay chuộc lại ruộng đất. ở nhiều nước, hình thức này trở nên phổ biến, đặc biệt là các nước châu á như Đài Loan 75% chủ trang trại gia đình áp dụng hình thức này.
Xét về loại hình sản xuất có các loại hình trang trại:
- Trang trại sản xuất cây thực phẩm, các trang trại loại này thường ở vùng sản xuất thực phẩm trọng điểm, xung quanh đô thị, khu công nghiệp, gần thị trường tiêu thụ.
- Trang trại sản xuất cây công nghiệp (chè, cà phê, cao su, mía...) thường phát triển ở vùng cây công nghiệp gần với hệ thống chế biến.
- Trang trại sản xuất cây ăn quả nằm ở vùng cây ăn quả tập trung, có cơ sở chế biến và thị trường tiêu thụ thuận lợi.
- Trang trại nuôi trồng sinh vật cảnh thường phát triển ở gần các khu đô thị, các khu du lịch lớn, thuận tiện cho việc tiêu thụ.
- Trang trại nuôi trồng đặc sản (hươu, trăn, rắn, ba ba, dê, cây dược liệu...) nằm ở những nơi thuận lợi cho nuôi trồng và tiêu thụ.
- Trang trại chăn nuôi đại gia súc (trâu, bò...), gia súc (lợn) hoặc gia cầm (gà, vịt...) có thể chăn nuôi tổng hợp hoặc chuyên môn hoá theo từng loại gia súc.
- Trang trại kinh doanh nông nghiệp tổng hợp, thường phát triển ở các vùng trung du và miền núi có điều kiện về đất đai và hạn chế về thị trường tiêu thụ.
- Trang trại kinh doanh nông, công nghiệp và dịch vụ đa dạng, nhưng hoạt động nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
2. Tình hình về chủ trang trại.
Kinh tế trang trại đã và đang là nhân tố mới cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn, là những hộ nông dân ưu tú trong hàng triệu hộ nông dân trong cả nước. Sau một thời gian trao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh theo tinh thần những chủ trương, chính sách mà Đảng và nhà nước đã ban hành họ đã từng bước vươn lên, nhận thầu đất mở rộng sản xuất kinh doanh với quy mô lớn, hiệu quả cao góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Như ta đã biết vai trò của kinh tế trang trại là hình thức tổ chức nông nghiệp chủ yếu của nền sản xuất hàng hoá. Từ hộ sản xuất tự cung tự cấp để chuyển sang sản xuất hàng hoá là cả một quá trình, ngoài việc tác động của tự nhiên, xã hội, môi trường, nhất là chính sách đường lối của Đảng thì chủ trang trại đóng một vai trò hết sức to lớn trong việc quyết định sản xuất kinh doanh của mình. Chủ trang trại phải có hai điều kiện sau:
- Chủ trang trại phải là người có ý chí, quyết tâm làm giàu từ nghề nông.
- Chủ trang trại phải có sự tích luỹ nhất định về kinh nghiệm sản xuất, vef tri thức và năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh. Đây là những đặc trưng phân biệt trang trại với hộ sản xuất tự cung tự cấp. Tuy nhiên những đặc trưng trên không được hội tụ ngay từ đàu mà được hoàn thiện dần cùng với quá trình sản xuất.
Hiện nay trong quá trình phát triển trang trại thì chủ trang trại có cơ cấu xuất thân rất đa dạng. Trong đó các chủ trang trại xuất thân từ hộ nông dân làm ăn giỏi là chủ yếu. Theo thống kê năm 1999 thì chủ trang trại là nông dân chiếm 62,35% làm ruộng sống bằng nghề nông, hiện nay chiếm 71,19%. Ngoài ra chủ trang trại còn là các thành phần xuất thân khác: công chức 4,73%, cán bộ xã 8,84%, công nhân đang làm việc 3,42%, bộ đội công an trở về 8,4%, cán bộ công nhân 9,36% còn các đối tượng khác 3,19%.
Nhìn chung chủ trang trại có độ tuổi chủ yếu từ 25-50, trong đó chủ trang trại có độ tuổi 30-40 chiếm nhiều nhất. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trang trại ở nước ta tại vì các chủ trang trại muốn thành công trong sản xuất kinh doanh ngoài kinh nghiệm sản xuất, khả năng tổ chức quản lý còn rất cần thiết đến sức khoẻ, tính giám chấp nhận rủi ro và sự nhanh nhẹn của tuổi trẻ.
Về trình độ văn hoá. Do các chủ trang trại xuất thân chủ yếu là nông dân cho nên trình độ văn hoá của các chủ trang trại rất thấp, thường thì các chủ trang trại có trình độ văn hoá ở bậc phổ thông chiếm đại đa số. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của nền nông nghiệp hàng hoá. Bởi vì khả năng nắm bắt thông tin, khoa học công nghệ, thích nghi với thị trường rất thấp.
Như ta đã nghiên cứu ở trên, xuất thân của chủ trang trại từ nông dân. Trước công cuộc đổi mới của Đảng và nhà nước, cuộc sống của họ gặp rất nhiều khó khăn, họ luôn khao khát vươn lên môth cuộc sống no đủ hơn về mặt vật chất lẫn tinh thần. Sau nghị quyết 10 của Bộ chính trị năm 1988 thì kinh tế hộ gia đình được thừa nhân là kinh tế tự chủ, từ đó đến nay cuộc sống của nông dân được nâng cao và cải thiện hơn. Nước có truyền thống sản xuất nông lâm nghiệp từ rrất lâu đời, tuy nhiên sản xuất vẫn còn mang tính thuần nông cao, tuy có bước phát triển nhưng quy mô và tỷ trọng không cao, do vậy kinh nghiệm sản xuất hàng hoá của hộ nông dân và của trang trại còn rất hạn chế, nhất là khâu tổ chức sản xuất và khâu tiêu thụ sản phẩm. Qua nghiên cứu đã cho ta thấy kinh nghiệm phổ biến của các chủ trang trại là:
- Các chủ trang trại đều tiến hành sản xuất kinh doanh theo hướng sản xuất tổng hợp với cơ cấu chính là cây ăn quả, cây công nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi đại gia súc...
- Phương thức sản xuất là “lấy ngắn nuôi dài” được tận dụng một cách phổ biến ở từng trang trại vì đã tận dụng hết khả năng vốn, lao động, đất đai...
- Các chủ trang trại sử dụng lao động gia đình là chủ yếu.
3. Các yếu sản xuất của trang trại ở nước ta.
a. Thực trạng về đất đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế đối với sản xuất nông nghiệp nói chung và sản xuất kinh tế trang trại nói riêng. Nguồn tài nguyên đất đai là có hạn nên quy mô đất đai của chủ trang trại là khác nhau, nhưng quy mô đất đai của trang trại lại phản ánh sự khác biệt giữa kinh tế trang trại với kinh tế hộ nông dân. Sự hình thành và phát triển của kinh tế trang trại gắn liền với sự tích tụ và tập trung ruộng đất của chủ trang trại. Quy mô ruộng đất của trang trại quyết dịnh phương hướng sản xuất kinh doanh của chủ trang trại, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguên đất đai là yêu cầu hết sức quan trọng của trang trại.
Theo số liệu thống kê, các trang trại cả nước khai thác và sử dụng khoảng 270 ngàn ha mà trước đây đa phần là đất xấu, đất hoang hoá chiếm 3,2% đất nông nghiệp cả nước. Bình quân đất đai của trang trại là 6,57 ha trên một trang trại. Trong đó đất nông nghiệp chiếm 3,9 ha, đất lâm nghiệp là 1,91 ha, đất mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 0,76 ha. Trong các loại đất đai này có một tỷ lệ khá lớn đất chưa được giao chiếm 30%. Phần chưa được giao này thường là phần cho thuê.
Nhìn chung đất đai của các trang trại có quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, điều này là vì quá trình tích tụ và tập trung ruộng đất ở nước ta chậm, đất đai nông nghiệp ở nước ta là hộ sản xuất manh mún, phân tán, mặt khác mặc dù nhà nước ta đã có chính sách giao đất lâu dài cho nông dân nhưng tiến trình diễn ra chậm, một phần lớn là đất chưa được giao (chưa có sổ đỏ).
b. Vốn và nguồn vốn trong trang trại.
Ngoài đất đai và lao động thì vốn là yếu tố quan trọng tạo nên quy mô sản xuất và góp phần quyết định đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại.
Theo kết quả điều tra thì các trang trại của cả nước ta huy động trên 2700 tỷ đồng để phát triển sản xuất. Vốn bình quân cộng với giá trị tài sản hiện có có khoảng 291,43 triệu đồng một trang trại trong đó vốn tự có là chủ yếu chiếm 265,18 triệu đồng, vốn vay 22,13 triệu đồng, vốn khác 2,13 triệu đồng. Vốn cao nhất ở Đăc Lắc 619,52 triệu đồng sử dụng sản xuất cà phê, thấp nhất là một số tỉnh phía Bắc 95,9 triệu đồng, vốn tự có chiếm 90,9%, vốn vay chiếm 9,1%.
Qua số liệu trên cho ta thấy việc chủ động vốn của chủ trang trại đều dựa vào nguồn vốn tích luỹ là chính. Điều đó chứng tỏ phát triển kinh tế trang trại chưa được thu hút, nhà nước còn chưa có chính sách phù hợp khuyến khích trang trại phát triển, các chủ trang trại chưa mạnh dạn, thiếu tự tin trong việc mở rộng quy mô sản xuất. Mặt khác vốn vay chiếm tỷ trọng thấp một phần là do chính sách vay vốn còn nhiều bất cập, thủ tuc rườm rà gây khó khăn cho người cần sử dụng vốn. Cụ thể thời gian vay vốn ở ngân hàng là quá ngắn, vay từ 3-10 triệu đồng không quá 5 năm. Một mặt khác quan trọng nhất là đầu ra tiêu thụ nông sản ở nước ta còn kém, thị trường nhỏ hẹp, tiêu thụ nội địa là chính.
c. Lao động và sử dụng lao động trong trang trại.
Lao động là nhân tố quan trọng quyết định kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Vì trong sản xuất lao động luôn gắn liền với đất đai, tài nguyên, điều kiện tự nhiên, cây trồng, vật nuôi, công cụ lao động... tác động tới các đối tượng đó làm ra sản phẩm do đó lao động có tầm quan trọng quyết định chất lượng và số lượng sản phẩm làm ra. Theo số liệu thống kê năm 2001 thì các trang trại của cả nước ta tạo thêm việc làm cho 52,8 ngàn lao động thường xuyên, 520 ngàn lao động thời vụ/ 1năm. Mỗi một trang trại bình quân có 5,82 nhân khẩu thuê, số lao động bình quân của gia đình 2,86 người, số lao động thuê thường xuyên là 2 lao động, thuê theo thời vụ 269,5 ngày công. Tiền công bình quân lao động một tháng là 434 nghìn thuê một lao động thường xuyên, còn tiền công thuê lao động thời vụ là 18 nghìn trên một ngay công.
Nước ta với dân số gần 80 triệu người, với lực lượng lao động dồi dào, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho trang trại thuê lao động làm thuê, tạo điều kiện cho trang trại phát triển. Hầu hết các lao động làm thuê ở các trang trại đều là những người thất nghiệp không có việc làm, trình độ văn hoá thấp chiếm chủ yếu là trình độ văn hoá cấp tiểu học. Về trình độ chuyên môn kĩ thuật đào tạo thấp, được đào tạo rất ít, tỷ lệ lao động có chuyên môn 10% hầu hết là lao động gia đình. Trang bị công cụ lao động cơ bản đang còn ở mức độ thấp.
Vậy qua số liệu trên cho ta thấy lao động thuê mướn chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhiệm những công việc đơn giản, những công việc đòi hỏi có trình độ chuyên môn, kĩ thuật thì lao động thường xuyên và lao động gia đình đảm nhiệm. Việc sử dụng lao động làm thuê đã góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lao động dư thừa trong xã hội. Đồng thời lao động cũng là một tiềm năng to lớn cần phải nâng cao sử dụng có hiệu quả hơn nữa.
4. Tình hình tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm và phân phối tổng hợp sản phẩm là một khâu của quá trình tái sản xuất. Quá trình tái sản xuất sẽ được diễn ra thông qua việc phân phối nghĩa là bù đắp các chi phí tham gia vào quá trình sản xuất và đầu tư để tái sản xuất mở rộng.
Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. Đó chính là quá trình thực hiện giá trị của sản phẩm, là giai đoạn làm cho sản phẩm ra khỏi quá trình sản xuất và bước vào quá trình lưu thông, đưa sản phẩm từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh vực tiêu dùng. Tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm ra là tín hiệu tốt nhất cho trang trại điều chỉnh kế hoạch sản xuất tiếp theo.
Sản xuất kinh doanh của trang trại mang nặng tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp lại dễ ôi thiu hư hỏng, do đó việc tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm làm ra là một yêu cầu quan trọng đối với trang trại.
Kinh tế trang trại nước ta đã từng bước vượt qua vòng “cương toả” của tự cung tự cấp tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá chiếm 87% sản phẩm hàng hoá cả nước là do trang trại cung cấp, là nhân tố quyết định, tiên phong và là xu hướng để nước ta chuyển qua sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp nông thôn.
Tuy vậy những vấn đề tiêu thụ nông sản vẫn đang còn là vấn đề rất khó khăn, cụ thể thị trường tiêu thụ và hoạt động nông sản nước ta còn có một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, hầu hết các sản phẩm nông nghiệp thường bị tồn đọng. Có tình trạng là chưa đến thời vụ thì thiếu hàng nghiêm trọng và dẫn đến đột biến giá cả, nhưng khi vào thời vụ thu hoạch thì lại “thừa hàng”, tồn đọng, giá cả nông sản giảm mạnh gây thiệt hại cho người sản xuất và người kinh doanh. Theo số liệu của bộ thương mại, 6 tháng đầu năm 1999 tồn đọng một lượng hàng hoá lớn các loại nông sản chưa có cách nào để tiêu thụ, trong đó nổi lên ba mặt hàng có lượng tồn đọng lớn nhất là lúa hàng hoá, đường mía và cà phê. Nhà nước đã buộc phải chỉ đạo cho các doanh nghiệp mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo, 100000 tấn đường và hỗ trợ đơn vị xuất khẩu cà phê để chờ lên giá trên thị trường thế giới.
Thứ hai, trong tất cả các kênh phân phối liên quan đến sản xuất sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân ở các trang trại đều có sự tham gia rất phổ biến của tư thương. Hệ thống tiêu thụ nông sản chủ yếu là dành cho nội địa và một phần dành cho xuất khẩu cũng có sự tham gia phổ biến của tư thương trong các khâu mua gom, chế biến. Điểm nổi bật trong phân phối là qua nhiều khâu trung gian làm chậm quá trình lưu thông sản phẩm, thậm chí gây ách tắc dẫn đến tồn đọng giả tạo.
Thứ ba, hệ thống kinh doanh thương mại nhà nước đang lâm vào thế lúng túng, bị động, thị trường đầu ra không ổn định, bấp bênh, chủ yếu do tư thương điều tiết, thương mại quốc doanh bỏ trống thị trường gây khó khăn thường xuyên cho nông nghiệp nói chung và trang trại trong việc bao mua sản phẩm và bao cung tư liệu sản xuất. Do không đủ sức mạnh điều tiết nên trong nhiều trường hợp phó mặc cho tư thương và không tránh khỏi tình trạng nông sản bị ép giá.
Thứ tư, có thể nói rằng đối với nông dân nói chung và trang trại nói riêng chưa đáp ứng được nông sản cho người tiêu dùng bởi vì hầu hết sản xuất nông nghiệp phổ biến vẫn là “bán cái mình có chứ chưa phải là bán cái thị trường cần”, hoạt động chủ yếu cái có sẵn chứ chưa chủ động khai thác các yếu của nền kinh tế thị trường.
5. Khoa học công nghệ.
Phát triển khoa học công nghiệp là khâu then chốt trong quá trình chuyển đổi nền nông nghiệp nước ta thành nền nông nghiệp hàng hoá và góp phần đưa trang trại nước ta phát triển thật sự là sản xuất hàng hoá.
Cụ thể theo nhiều đánh giá, thì khoa học công nghiệp góp vào tăng trưởng nông nghiệp nông thôn 27% giai đoạn 1976-1980, 35% giai đoạn 1981-1985, 30% giai đoạn 1986-1990 và khoảng 30-35% giai đoạn 1991-1995. Từ năm 1996 đến nay nước ta có một số kết quả khoa học công nghệ nông nghiệp nông thôn như sau:
- Đã chọn tạo được nhiều giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt.
Trong nghiên cứu chọn giống, nhờ có những nghiên cứu có tính đột phá về sử dụng khai thác ưu thế lai, kết hợp với phương pháp chọn giống cổ truyền với phương pháp hiện đại. Các nhà khoa học đã chọn 37 giống lúa, 12 giống ngô, 9 giống khoai, 6 giống rau, 8 cây công nghiệp dài ngày... Chúng ta đã chọn được 171 giống cây trồng vật nuôi.
Trong lâm nghiệp, đã áp dụng nhiều thành công các tiến bộ mới trong việc tạo giống và nhân giống như nuôi cấy mô, giâm hom và cho phép nhân nhanh giống có nhiều triển vọng như keo lai, phi lao, tràm úc, v.v...
Trong nghiên cứu chọn tạo giống vật nuôi đã tạo ra giống lợn lai có tỷ lệ nạc trên 50%, tăng trọng nhanh 650-670 gam/ngày, ít thức ăn. Đối với bò thịt đã thành công lai bò nhập nột với bò vàng Việt Nam nâng cao hiệu quả kinh tế cao.
Với gia súc gia cầm đã công nhận các giống gà thả vườn có nguồn gốc từ Trung Quốc như Tam Hoàng, Lông Phượng, v.v..., với vịt tạo ra nhiều vịt siêu trứng và siêu thịt.
- Nghiên cứu và đề xuất, ứng dụng nhiều thành tựu tiến bộ kĩ thuật mới vào sản xuất.
Cùng với giống, các biện pháp thâm canh tổng hợp cũng phát triển như khai thác quy trình bón phân hợp lý v.v..., thú y thì đưa ra nhiều loại vắc-xin, nhiều loại thuốc mới và quy trình phòng và trị bệnh cho gia súc gia cầm...
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học phân tử và kĩ thuật gen:
Như vậy khoa học công nghệ trong những năm qua có rất nhiều thành tựu, từ nghiên cứu cơ bản chuyên sâu đến đến nghiên cứu ứng dụng. Nhiều kết quả ngay từ trong quá trình sản xuất chấp nhận và chuyển giao. Tuy nhiên khoảng cách từ nghiên cứu đến công nghệ vẫn còn khoảng cách, cần có những điều chỉnh thích hợp trong định hướng, tổ chức, chính sách... để khoa học thực sự đến với đời sống nông dân nói chung và trang trại nói riêng. Muốn vậy thì tổ chức công tác khuyến nông là công tác đặc biệt quan trọng trong việc đưa khoa học đến với nông dân, trang trại.
6. Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại.
Kết quả sản xuất của các trang trại là thước đo trong quá trình sản xuất của trang trại. Kết quả sản xuất của trang trại đánh giá hiệu quả của việc phối hợp các yếu tố đầu vào: đất đai, vốn, lao động, khoa học kĩ thuật...
Kết quả sản xuất kinh doanh của các trang trại cụ thể như sau:
- Tổng chi phí sản xuất kinh doanh bình quân 69,722 triệu/1 trang trại.
- Tổng thu nhập 105,42 triệu/1 trang trại.
Qua số liệu trên cho ta thấy thu nhập bình quân một trang trại là 35,704 triệu/1 trang trại và trung bình một người thu nhập 500 nghìn đồng/1 tháng. Như vậy thu nhập
so với nông dân tự cung tự cấp cao hơn 2-3 lần.
Sản xuất hàng hoá là đặc trưng cơ bản để phân biệt và đánh giá hiệu quả kinh tế trang trại. Thực trạng hiện nay, tỷ suất hàng hoá trong các trang trại ở nước ta chiếm khoảng 86-90% tổng sản phẩm làm ra. Như vậy trang trại nước ta đã và đang từng bước đi vào sản xuất chuyên môn hoá sản phẩm hàng hoá, nâng cao dần giá trị tổng sản phẩm và giá trị tổng sản phẩm hàng hoá, nâng cao mức sống của các thành viên và lao động của trang trại, góp phần tạo thu nhập cho người dân.
Nhìn chung trang trại nước ta phát triển từ những năm 1990 đến nay, tuy mới phát triển nhưng đóng vai trò hết sức to lớn đối với việc phát triển kinh tế - xã hội thể hiện ở những mặt sau:
- Một là, góp phần to lớn vào việc khai thác thế mạnh, lợi thế của nước ta, góp phần đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn.
- Hai là, đã tạo ra hàng nghìn việc làm mới, thu hút lao động dư thừa trong xã hội và tăng thu nhập cho người lao động.
- Ba là, phát triển kinh tế trang trại tạo điều kiện sử dụng quỹ đất tốt hơn như khai phá được đất hoang hoá, bảo vệ môi trường, nguồn nước.
- Bốn là, phát triển kinh tế trang trại giúp cho ứng dụng khoa học công nghệ tốt hơn, giúp cho phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn phù hợp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28752.doc