Sau nghị quyết 03/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại cũng như một số chính sách khác của Nhà nước, số lượng trang trại đã tăng lên đáng kể (xem biểu 2).
Tính đến 01/10/2001, theo tiêu chí mới, cả nước có 60.758 trang trại, tăng 4.960 trang trại so với năm 2000, tăng 15.386 trang trại so với năm 1999, trong đó Đồng bằng Sông Hồng có khoảng 1.829 trang trại, so với năm 1999 tăng 21,77% (theo tiêu chí mới), trong đó các địa phương có số lượng trang trại nhiều nhất là Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình. Tốc độ phát triển bình quân của số trang trại trong thời kì 1999 – 2001 là 10,35%/năm, bằng 0, 61 tốc độ phát triển bình quân chung của cả nước (17%) nhưng với một vùng không có nhiều đất đai thì đây là một thành tích đáng khích lệ. Trong sự tăng trưởng ấy, nhóm trang trại chăn nuôi và nhóm trang trại nuôi trồng thuỷ sản có tốc độ phát triển cao nhất, chứng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn một cách tích cực. Điều này cũng nói lên hướng sản xuất theo thị trường của kinh tế trang trại
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2133 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại vùng đồng bằng sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất nhiều loại nông sản khác nhau nhưng sau đó, do sự tích luỹ về các yếu tố trên, trang trại sẽ hướng theo một vài loại sản phẩm do đó quy mô của loại sản phẩm này cũng lớn lên. Sản xuất quy mô lớn lại đòi hỏi áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất để làm ra sản phẩm với chi phí thấp, chất lượng cao và đồng đều. Vì mục đích của kinh tế trang trại là thị trường: sản xuất cái gì, khối lượng bao nhiêu, chất lượng ở mức độ nào,... đều phải bắt kịp các tín hiệu của thị trường. Và vì xu hướng của trang trại là ngày càng đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao hơn, nên cơ cấu sản xuất của trang trại cũng thay đổi, hàm lượng khoa học kĩ thuật trong sản phẩm nông nghiệp thậm chí tăng lên. Nhìn chung, kinh tế trang trại sẽ tăng tỉ lệ chăn nuôi, giảm tỉ lệ trồng trọt, một số tiểu ngành như sản xuất thực phẩm cao cấp, hoa kiểng... ngày càng phát triển, đem lại nguồn thu lớn.
Biểu 1: Cơ cấu GDP ngành nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng
(giá cố định 1994), Đơn vị: %
HẠNG MỤC
1990
1995
2000
2001
Tổng số
100
100
100
100
Nông nghiệp
94,7
94,2
92,8
92,5
- Trồng trọt
75,3
74,9
71,7
70,0
- Chăn nuôi
19,4
19,3
21,1
22,5
Lâm nghiệp
2,4
1,6
1,1
1,0
Thuỷ sản
2,9
4,2
6,0
6,5
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Tổng cục Thống kê.
2.2. Góp phần làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của vùng, và đối với cả nước trong việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho các tỉnh, thành phố trong vùng cũng như đáp ứng một phần nhu cầu của các vùng khác. Trong thời kì 1991 – 2001, sản lượng lương thực của vùng tăng hơn 2, 7 triệu tấn; giá trị sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp (theo giá cố định 1994) tăng lên từ 13.402 tỉ đồng (năm 1990) lên 24.103 tỉ đồng (năm 2001), bằng 23,8% giá trị sản lượng nông – lâm – nghiệp của cả nước, tốc độ phát triển bình quân mỗi năm là 6,02%. Sự phát triển của ngành nông nghiệp có đóng góp quan trọng của kinh tế trang trại.
Lợi thế về quy mô của các trang trại (quy mô đất đai, quy mô lao động...) giúp các trang trại tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn. Trang trại có điều kiện thuận lợi trong cả việc giảm giá thành các yếu tố đầu vào và cả trong quản lý, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là dễ dàng hơn khi áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, sử dụng máy móc, trang thiết bị hiện đại trong hoạt động sản xuất.
2.3. Góp phần vào sự phát triển của các ngành công nghiệp, dịch vụ, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn
Sản phẩm nông nghiệp là đầu vào quan trọng của các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Rõ ràng là khối lượng, chất lượng, giá cả nông sản cung cấp cho một nhà máy chế biến thực phẩm nào đó sẽ quyết định tính cạnh tranh của sản phẩm nhà máy này. Không những thế, sản phẩm của trang trại sẽ góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp cơ khí, công nghiệp năng lượng trong các mối liên hệ ngược với các ngành này. Để làm ra sản phẩm, các trang trại cần sử dụng máy móc, cần tiêu dùng năng lượng, cần được cung cấp giống, phân bón, thuốc trừ sâu... Đó là không kể những trang trại kinh doanh tổng hợp còn tự sơ chế, chế biến ngay tại chỗ. Yêu cầu này cần được sự giúp đỡ của ngành công nghệ sinh học, công nghệ thực phẩm... Mối quan hệ qua lại này chỉ ra rằng: sự phát triển của ngành này là động lực phát triển của ngành kia.
Mặt khác, khi kinh tế trang trại phát triển nó sẽ đem lại thu nhập cho một bộ phận nông dân, tiêu dùng của khu vực nông nghiệp - nông thôn tăng lên kéo theo sự khởi sắc của ngành dịch vụ theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường.
3. Tác động về mặt xã hội và môi trường
3.1. Góp phần giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Theo số liệu năm 2001, dân số nông thôn vùng Đồng bằng Sông Hồng vào khoảng 13, 77 triệu người, tổng số lao động là 10, 47 triệu trong đó lao động trong độ tuổi ở nông thôn là gần 8, 2 triệu, chiếm tới 78,17% tổng lao động của vùng. Tính chất mùa vụ của hoạt động sản xuất nông nghiệp cùng với việc mở rộng dần phạm vi ứng dụng của máy móc hiện đại càng làm tăng tỉ lệ thất nghiệp trá hình. Theo ước tính, lao động ở khu vực nông thôn mới chỉ sử dụng hết khoảng 3/4 thời gian lao động nông nghiệp. Một phần lao động dư thừa ấy sẽ được giải quyết khi các trang trại hình thành vì trang trại không chỉ giải quyết việc làm cho bản thân chủ trang trại cũng như người nhà của họ mà còn thu hút được một lực lượng đáng kể lao động làm thuê.
3.2. Phát triển lựclượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Tác động của kinh tế trang trại tới sự phát triển của lực lượng sản xuất xét ở 3 khía cạnh:
Một là, nhờ cách làm ăn hiệu quả hơn, kinh tế trang trại đem lại nguồn thu nhập cao hơn cho người lao động tham gia sản xuất và trong thực tế rất nhiều nông dân đã giàu lên thực sự bằng con đường này. Không những thế, những lao động làm thuê cũng được hưởng một mức thu nhập cao hơn trước đây, nhờ đó đời sống được cải thiện cả về mặt vật chất và tinh thần.
Hai là dựa vào ưu thế của kinh tế trang trại trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật mà trình độ kĩ thuật, trình độ thâm canh, chuyên môn hoá nông nghiệp của vùng nói chung được nâng lên rõ rệt. Trong thời đại này, máy móc là bộ phận vô cùng quan trọng của lực lượng sản xuất nông nghiệp, và sự phát triển của máy móc (xét cả về số lượng và chất lượng) chính là sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ba là, kinh tế trang trại phát triển kéo theo sự phát triển của các mối quan hệ giữa nông dân - nông dân trong việc hợp tác, hỗ trợ sản xuất, thuê nhân công, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa các khâu sản xuất - chế biến - tiêu thụ của quy trình sản xuất hàng hoá.
3.3. Phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn
Rõ ràng là để đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hoá của mình, các trang trại cần phải được đảm bảo bằng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ và hiện đại. Nhằm nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh, các trang trại có thể kết hợp với các địa phương, cùng các doanh nghiệp khác để giải quyết những vấn đề chung này (giao thông, điện, nước, thuỷ lợi, hệ thống tiêu thụ sản phẩm...), các công trình giao thông, kho tàng, bến bãi, các phương tiện vận tải được mở rộng và xây dựng mới để phục vụ cho sản xuất hàng hoá của các trang trại.
3.4. Những lợi ích về môi trường:
Đối với vùng Đồng bằng Sông Hồng, các trang trại trồng rừng gần như không đáng kể, nhưng số lượng số lượng các trang trại còn lại đã góp phần đáng kể vào công cuộc xây dựng một nền nông nghiệp đa dạng, sinh thái, bền vững.
III. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng
1. Nhóm các nhân tố tài nguyên thiên nhiên
1.1. Đất đai
Quan trọng nhất đối với sản xuất nông nghiệp là yếu tố đất đai. Ảnh hưởng của đất đai đến phát triển kinh tế trang trại quyết định bởi:
-Quy mô đất đai: tức là diện tích cần thiết để tạo ra một khối lượng nhất định sản phẩm. Nói chung, một quy mô đất sản xuất rộng lớn là một điều kiện thuận lợi cho kinh tế trang trại. Theo thống kê, đất nông nghiệp của vùng Đồng bằng Sông Hồng là 857, 6 nghìn ha, bằng 9,2% diện tích đất nông nghiệp cả nước, bình quân 497m2/người. Tuy nhiên phần lớn đất đai vẫn còn ở tình trạng manh mún, phân tán làm cản trở quá trình hiện đại hoá sản xuất nông nghiệp.
- Đặc điểm của đất đai: Đây là một yếu tố đặc biệt quan trọng cần phải tính đến khi tiến hành sản xuất, nhất là với các trang trại trồng trọt. Đồng bằng Sông Hồng vốn là một vùng châu thổ, có gần 80% đất canh tác trên loại đất phù sa màu mỡ thuộc loại tốt trong cả nước, đó là lợi thế có thể thâm canh cây trồng đạt năng suất cao. Một lợi thế hơn hẳn là vùng có tới 70% đất canh tác lúa màu được tưới bằng nước phù sa của hệ thống sông Hồng, có chất lượng nước tốt, nhiều dinh dưỡng. Tuy nhiên, theo tiến trình khai thác một cách lạc hậu và không tính đến hậu quả lâu dài cho nên đến nay, nhiều vùng đất đã trở nên bạc màu, muốn trồng trọt phải chi phí cải thiện đất rất tốn kém.
1.2. Thời tiết, khí hậu
Yếu tố thời tiết ảnh hưởng mạnh mẽ đến cơ cấu sản xuất của cả trang trại chăn nuôi và trang trại trồng trọt, bởi lẽ chúng là những “đối tượng sống” được đặt trong một “môi trường sống” ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng sinh trưởng và sinh sản. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230C, lượng bức xạ lớn. Nhờ số giờ nắng cao, tính chất nóng ẩm của mùa hè và không khí lạnh của mùa đông, trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng có điều kiện để đa dạng hoá cơ cấu cây trồng của mình, cả các loài cây nhiệt đới và cây ôn đới.
2. Các nhân tố kinh tế xã hội
2.1. Lao động của trang trại
Bao gồm lao động quản lý và lao động sản xuất trực tiếp, xét trên 2 khía cạnh: số lượng và chất lượng.
- Số lượng lao động tuỳ thuộc vào: quy mô sản xuất của trang trại, trình độ cơ giới hoá, yêu cầu về nhân công do đặc trưng của ngành sản xuất, và khả năng thuê mướn lao động của chủ trang trại. Chắc chắn, so với kinh tế hộ, số lao động của trang trại sẽ nhỏ hơn, nhưng đó là điều cần thiết để có triển
-Chất lượng lao động phụ thuộc: tuổi, giới tính, trình độ học vấn, kinh nghiệm, tay nghề, mức độ tận tuỵ của người lao động. Nhìn chung, lao động cung cấp cho các trang trại thường là nông dân (ngay cả bản thân chủ trang trại cũng thường xuất thân như vậy) nên mức độ linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường còn thấp.
2.2. Sự tích tụ vốn sản xuất:
Đây là điều kiện cần thiết để kinh tế hộ chuyển thành kinh tế trang trại. Kinh tế trang trại là một mô hình sản xuất lớn có tỉ suất hàng hoá cao, chấp nhận cạnh tranh ngày càng gay gắt và đặc biệt là luôn vận động theo các quy luật khách quan của cơ chế thị trường, nên ngày càng cần phải được tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển.
Nguồn vốn cung cấp cho các trang trại bao gồm: sự hỗ trợ từ ngân sách địa phương, từ phía nhà nước, vốn tự có của chủ trang trại, vốn vay, vốn tín dụng, trong đó chủ yếu là vốn của chủ trang trại, phần hỗ trợ từ phía nhà nước là rất hạn hẹp, vì thế khả năng tích luỹ vốn để mở rộng kinh doanh, đầu tư trang trại thiết bị công nghệ tiên tiến là rất khó khăn.
2.3. Những tác động của thị trường
Cùng với vốn, thị trường, là vấn đề sống còn của kinh tế trang trại, bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chúng tác động một cách mạnh mẽ tới tư duy và cách thức hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại, đẩy nhanh phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá ở nông thôn, nhờ đó dân cư thoát khỏi tư duy kinh tế theo lối tiểu nông.
Vì là sản xuất hàng hoá nên vấn đề cung ứng vật tư (thị trường đầu vào) là rất quan trọng. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của trang trại, và rõ ràng là một thị trường đầu vào có sự độc quyền sẽ gây ra rất nhiều điều bất lợi, chủ trang trại sẽ phải mua vật tư với giá cao mà chất lượng không đảm bảo.
Còn thị trường sản phẩm đầu ra là một trong những vấn đề các trang trại quan tâm nhất, nó phát đi các tín hiệu định hướng cho các thị trường nên sản xuất loại nông sản nào, khối lượng, chất lượng ra sao, sản xuất như thế nào thì hiệu quả...
2.4. Cơ sở hạ tầng nông thôn
Đây chính là “bầu không khí sống” của kinh tế trang trại, là yếu tố hỗ trợ cho kinh tế trang trại và trong nhiều trường hợp, nó mang tính quyết định. Một hệ thống thuỷ lợi tốt, một mạng lưới điện và thông tin liên lạc đồng bộ, đầy đủ, giáo dục đào tạo và một hệ thống thương mại đáp ứng đúng nhu cầu, là điều kiện thuận lợi như là sự thuận lợi với các yếu tố đầu vào khác. Một hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh nối vùng sản xuất - chế biến - tiêu thụ là một trong những điều kiện cần thiết để tạo ra một cơ chế sản xuất liên hoàn, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của trang trại. Về mặt này, vùng Đồng bằng Sông Hồng có nhiều lợi thế: hệ thống đường giao thông hoàn chỉnh nối liền các xã với nhau, nối liền nông thôn và thành thị, nối liền vùng nguyên liệu và chế biến; hệ thống thuỷ lợi kiên cố và không ngừng được tu bổ; đã hoàn thành điện khí hoá và nhìn chung có một hệ thống trạm, trường tương đối đầy đủ, đáp ứng những nhu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân.
Chương II: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại vùng Đồng Bằng Sông Hồng
I. Khái quát những thành tựu đạt được
Sau nghị quyết 03/2000 của Chính phủ về kinh tế trang trại cũng như một số chính sách khác của Nhà nước, số lượng trang trại đã tăng lên đáng kể (xem biểu 2).
Tính đến 01/10/2001, theo tiêu chí mới, cả nước có 60.758 trang trại, tăng 4.960 trang trại so với năm 2000, tăng 15.386 trang trại so với năm 1999, trong đó Đồng bằng Sông Hồng có khoảng 1.829 trang trại, so với năm 1999 tăng 21,77% (theo tiêu chí mới), trong đó các địa phương có số lượng trang trại nhiều nhất là Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình. Tốc độ phát triển bình quân của số trang trại trong thời kì 1999 – 2001 là 10,35%/năm, bằng 0, 61 tốc độ phát triển bình quân chung của cả nước (17%) nhưng với một vùng không có nhiều đất đai thì đây là một thành tích đáng khích lệ. Trong sự tăng trưởng ấy, nhóm trang trại chăn nuôi và nhóm trang trại nuôi trồng thuỷ sản có tốc độ phát triển cao nhất, chứng tỏ sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp – nông thôn một cách tích cực. Điều này cũng nói lên hướng sản xuất theo thị trường của kinh tế trang trại.
Tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản là 15.808 ha, chiếm 1,07% diện tích của toàn vùng, và bằng 1,84% diện tích đất nông nghiệp. Bình quân mỗi trang trại khoảng 8,64 ha, cao hơn mức trung bình chung của cả nước (6,09 ha) và cao hơn nhiều so với mức bình quân của các nước Châu Á.
Bảng 2: Tình hình phát triển số lượng trang trại Đồng Bằng Sông Hồng
LOẠI TRANG TRẠI
1999
2001
TỐC ĐỘ PHÁT TRIỂN BÌNH QUÂN /NĂM 1999 - 2001
TỈ LỆ CỦA VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG SO CẢ NƯỚC (%)
Tổng số trang trại
1.502
1.829
10.35
3.01
-Số trang trại trồng cây hàng năm
112
183
27.80
0.84
-Số trang trại trồng cây lâu năm
285
288
0.52
1.73
-Số trang trại chăn nuôi
80
153
38.3
8.68
-Số trang trại lâm nghiệp
189
41
-53.5
2.52
-Số trang trại nuôi trồng thuỷ sản
568
1.028
35.54
6.06
-Số trang trại kinh doanh tổng hợp
268
136
-28.75
6.78
Nguồn: Số liệu thống kê và kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp – thuỷ sản năm 2001.
Số trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng chỉ chiếm 3,01% tổng số trang trại của cả nước nhưng hiệu quả lại cao hơn. Tổng thu nhập của trang trại là phần thu nhập sau khi lấy tổng thu trừ chi phí vật chất, trừ tiền công thuê lao động và trừ các chi phí khác. Như vậy phần thu nhập của trang trại bao hàm: tiền công của chủ trang trại (tiền công quản lý và tiền công lao động trực tiếp), tiền công của các thành viên và tiền lãi ròng của các trang trại. Đây là một chỉ tiêu phù hợp, vừa phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh vừa là hiệu quả hoạt động kinh doanh của trang trại. Xem biểu 1 có thể thấy rằng thu nhập bình quân 1 trang trại của vùng Đồng bằng Sông Hồng là cao nhất cả nước (46, 9 triệu đồng/trang trại /năm, cao hơn mức trung bình chung 1, 49 lần và bỏ xa những vùng khác (trừ duyên hải Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ) từ 17-23 triệu /trang trại). Thu nhập bình quân của một lao động trong trang trại đạt khá: 5, 86 triệu đồng/năm, trong khi đó thu nhập trung bình của một người dân nông thôn là 1, 17 triệu đồng/năm, tức là thu nhập của lao động trang trại cao hơn 5 lần. Tổng thu của 1.829 trang trại năm 2001 là 260.393 triệu đồng, chiếm 4,85% tổng thu cả nước từ kinh tế trang trại (trong khi diện tích trang trại của vùng chỉ bằng 3,01% diện tích trang trại cả nước), trong đó giá trị hàng hoá và dịch vụ bán ra là 246.048 triệu đồng, đạt mức tỉ suất giá trị hàng hoá là 94,5%, cao hơn mức trung bình của cả nước 1, 02 lần và chỉ đứng sau vùng Đông Nam Bộ (95,3%).
Cơ cấu trang trại được thể hiện trong biểu3
Biểu 3B: Cơ cấu trang trại vùng Đồng bằng Sông Hồng năm 2001
LOẠI TRANG TRẠI
SỐ LƯỢNG (T.T)
TỈ TRỌNG (%)
Tổng số
1.829
100,0
-Số trang trại trồng cây hàng năm
183
10,0
-Số trang trại trồng cây lâu năm
288
15,7
-Số trang trại chăn nuôi
153
8,4
-Số trang trại lâm nghiệp
41
2,2
-Số trang trại nuôi trồng thuỷ sản
1.028
56,2
-Số trang trại kinh doanh tổng hợp
136
7,4
Nguồn: Số liệu thống kê và kết quả điều tra nông thôn nông nghiệp - thuỷ sản năm 2001.
Các trang trại chăn nuôi phát triển mạnh mẽ và là một thế mạnh của vùng tuy nhiên số lượng không phải là lớn nhất, trong đó chăn nuôi gia súc nhỏ và gia cầm chiếm ưu thế vì các loại này không đòi hỏi đất nhiều, thậm chí bắt đầu xuất hiện hình thức các hộ nông dân chăn nuôi gia công theo mô hình kinh tế trang trại. Trang trại chăn nuôi thường có quy mô vừa và nhỏ, chẳng hạn, với gà: 1000 - 5000 con; lợn: 50 - 100 con; 300 - 500 con; các trang trại chăn nuôi đặc sản, sử dụng từ 500 - 1000 m2 nhưng đầu tư nhiều vốn và chất xám tạo thu nhập cao. Đây là một ngành chăn nuôi chú trọng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm và có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Trong cơ cấu trang trại năm 2001, có thể nhận dễ dàng nhận thấy ưu thế của các trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Sau hai năm mà số lượng trang trại này đã tăng lên gần 2 lần, chiếm tới quá nửa số trang trại của Đồng bằng Sông Hồng trong năm 2001, chứng tỏ sức khai thác mạnh mẽ tiềm năng thuỷ sản của vùng. Trong khi đó số trang trại lâm nghiệp và trang trại kinh doanh tổng hợp lại giảm xuống chứng tỏ các trang trại đã đi theo hướng chuyên sâu và có hiệu quả.
Sự gia tăng giá trị sản xuất hàng hoá của kinh tế trang trại trực tiếp tác động đến sự gia tăng giá trị của cả ngành sản xuất nông nghiệp và do đó đóng góp vào tăng trưởng của cả nền kinh tế nói chung. Nhờ trang trại, giá trị sản xuất hàng hoá của ngành nông nghiệp được cải thiện. Năm 2001, giá trị sản xuất của toàn ngành nông – lâm – ngư nghiệp (giá cố định 1994) vùng Đồng bằng Sông Hồng đạt 22.893, 33 tỉ đồng, thì phần đóng góp của kinh tế trang trại là 260, 393 tỉ (1,13%).
III. Những hạn chế và nguyên nhân
1. Hạn chế
1.1. Kinh tế trang trại phát triển chưa tương xứng với tiềm năng
Mặc dù sự hình thành và phát triển của các trang trại đã nhanh chóng đưa được một diện tích lớn đất hoang hoá, đất chưa sử dụng và quá trình sản xuất, đem lại lợi nhuận và hình thành một môi trường sinh thái bền vững nhưng thực tế, vùng vẫn còn những diện tích đất chưa sử dụng hết, hoặc sử dụng nhưng hiệu quả không cao, việc khai thác các yếu tố nguồn lực chưa triệt để và không đồng đều.
1.2. Cơ cấu sản xuất chưa phù hợp, tình trạng độc canh còn phổ biến, mặc dù phần lớn các trang trại kinh doanh tổng hợp nhưng thực chất đó mới chỉ là một hình thức tận dụng năng lực sẵn có một cách thụ động chứ chưa chủ động chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo các tín hiệu của thị trường. Nhiều trang trại còn chưa mạnh dạn đầu tư nên không cải tạo được giống cây, con vốn đã suy giảm về cả khả năng cho sản lượng và cả chất lượng. Tỉ trọng chăn nuôi vẫn còn thấp. Ngoài ra, còn rất nhiều thế mạnh của vùng chưa được tận dụng hết.
1.3. Lãng phí vốn, trình độ sản xuất lạc hậu
Sự lãng phí vốn ở đây thể hiện ở chỗ: do không tận dụng hết khả năng sản xuất, hạn chế về năng lực kinh doanh, hoặc do cơ chế, chính sách, mà kết quả kinh doanh của trang trại thu được chưa tương xứng với đồng vốn bỏ ra. Thậm chí có những trang trại lâm nghiệp, chăn nuôi đã đầu tư vài trăm triệu đồng nhưng lại không duy trì được sản xuất cho đến lúc thu hồi vốn, đó là một sự lãng phí nhân lực, vật lực, lãng phí tài nguyên thiên nhiên.
2. Nguyên nhân
2.1. Nhận thức và tiêu chí nhận dạng trang trại mới được thống nhất.
Còn nhiều bàn cãi về vai trò của kinh tế trang trại, thậm chí cho đến nay một số cán bộ, chuyên gia còn băn khoăn có nên phát triển kinh tế trang trại ở nước ta hay không? Liệu có chệch hướng sang phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa hay không? Mấy năm trước đây khi phát triển mô hình này trở thành một nhu cầu, thì nhà nước vẫn chưa có chính sách cụ thể để hướng dẫn và hỗ trợ, cho nên kinh tế trang trại dù đã tăng trưởng đáng kể song vẫn mang tính tự phát, phân tán, manh mún, chưa thật gắn với quy hoạch các vùng sản xuất chuyên môn hoá và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
2.2. Quỹ đất của các trang trại còn hạn chế.
Quỹ đất chung dành cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp cho nhu cầu công nghiệp hoá, đô thị hoá của đất nước. Hiện nay bình quân đất sản xuất nông nghiệp đầu người chỉ còn 385 m2 /người. Những khoảnh đất, vùng đất nông nghiệp chuyển sang làm mặt bằng cho các nhà máy công nghiệp, cho hoạt động thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí, phát triển nhà ở... lại thường cũng là những mảnh đất màu mỡ. Đây là một vấn đề nan giải của vùng Đồng bằng Sông Hồng.
2.3. Trình độ sản xuất yếu kém, thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa được mở rộng.
Giá cả thiếu ổn định, rủi ro cao, mặcdù vấn đề được đề cập nhiều nhưng còn mang tính cục bộ. Nguyên nhân thì có nhiều: chất lượng nông sản thấp, trình độ chế biến, bảo quản yếu kém, chủ trang trại thiếu nghiệp vụ thị trường, sản xuất không theo quy hoạch các vùng chuyên môn hoá gắn với các cơ sở chế biến rau quả, thuỷ sản... Vài ba năm tới, hầu hết các trang trại đưa diện tích cây lâu năm, cây công nghiệp, rừng nguyên liệu vào khai thác cho sản phẩm đồng loạt thì vấn đề chế biến nông, lâm, thuỷ sản và thị trường tiêu thụ, giá cả sản phẩm sẽ đặt ra hết sức gay gắt, không chú ý giải quyết ngay từ bầy giờ chắc chắn sẽ gây ra tổn thất lớn cho các trang trại và cho nền kinh tế quốc dân.
2.4. Công nghiệp chế biến chưa phát triển tương xứng .
Không đáp ứng được nhu cầu sơ chế, chế biến các sản phẩm của trang trại. Hiện nay công nghiệp chế biến mới chiếm khoảng 20% giá trị sản xuất của vùng.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản không cao, hầu hết các dây chuyền chế biến được trang bị cách đây khoảng 30 năm. Hiện trạng thiết bị mất cân đối và xuống cấp nghiêm trọng, nên tổn thất sau thu hoạchlớn, khoảng 8-10%, chất lượng sản phẩm không cao, không đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Ngoài 4 nhà máy chế biến rau quả lớn, vùng còn cómột số xí nghiệp nhỏ thủ công nhưng lượng quả tươi mới chế bién được khoảng 6-7% sản lượng hàng năm. Chế biến thịt - sữa chủ yếu mới phục vụ nhu cầu nội tiêu, hầu hết các nhà máy mới đạt 15 - 20% công suất.
Công nghiệp chế biến thức ăn gia sức trực tiếp phục vụ cho sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn của vùng. Với 18 cơ sở (chỉ có một cơ sở có sản lượng đạt trên 50.000 tấn /năm), sản lượng thức ăn gia súc có thể đáp ứng nhu cầu trong vùng nhưng nguồn nguyên liệu nội vùng cung cấp cho các cơ sở chế biến không nhiều, chỉ đáp ứng khoảng 40%, phần nguyên liệu còn lại phải nhập khẩu, rất bất cập.
Chương III: Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại
vùng Đồng bằng Sông Hồng
I. Các giải pháp về phía nhà nước
Nhà nước đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra một môi trường thuận lợi cho trang trại cả trong khâu hỗ trợ đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra. Những sự hỗ trợ ấy sẽ tác động thông qua các giải pháp về các vấn đề sau đây:
1. Các giải pháp về đất đai
*Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài.
- Đối với những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp pháp: có thể cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng để tạo điều kiện tích tụ đất đai nhằm phát triển các trang trại lớn. Khuyến khích bằng cách giảm thuế, gia hạn hợp đồng thuê đất, sử dụng đất v.v... cho những chủ trang trại biết đầu tư khoa học kĩ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả cao nhất diện tích đang được giao quản lý sử dụng.
- Đối với những diện tích đất chưa được giao:
Đẩy mạnh việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trang trại sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên tâm đầu tư phát triển sản xuất. Những hộ gia đình cá nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà chưa được giao, chưa được thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chưa được cấp giấy chứng nhận trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-CP, sử dụng đúng mục đích và không có tranh chấp thì được xét giao, cho thuê, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại.
*Tiếp tục khai hoang
Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở các vùng đồi núi trọc rải rác trong vùng Đồng bằng Sông Hồng, các bãi bồi ven sông, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng. Hiện nay diện tích này còn khoảng 178.153 ha, nên có chế độ ưu đãi những hộ nào khai thác để làm kinh tế trang trại. Những vùng có nhiều khó khăn trong khai thác và sản xuất như là địa hình không bằng phẳng, đất bạc màu, nhiều khoáng sản, đất nhiễm lợ phải cải tạo… thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn hẳn.
*Có chính sách đồn điền đổi thửa để lập các trang trại lớn
Do tập quán sản xuất lâu đời để lại nên đất đai vùng Đồng bằng Sông Hồng ở vào tình trạng manh mún, phân tán. Muốn phát triển kinh tế trang trại phải “dồn” những diện tích nhỏ để có những vùng đất rộng hơn. Quá trình này có thể được sự chủ động tiến hành của Nhà nước nhưng vì đất đai cũng là một loại hàng hoá đặc biệt, nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ hơn của Nhà nước bằng hệ thống luật pháp hoàn chỉnh, chặt chẽ, để sự tích tụ đất đai cho việc hình thành kinh tế trang trại một cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy hoạch của nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn. Cho phép các trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc cho thuê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A5327.DOC