MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch Việt Nam 2
I. Khái quát chung về ngành du lịch Việt Nam 2
1. Khái niệm,vai trò của ngành du lịch 2
1.1. Khái niệm 2
1.2.Vai trò của ngành du lịch 3
2.Nội dung đầu tư vào du lịch 6
2.1. Đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật 6
2.2. Đầu tư vào nguồn nhân lực 7
2.3. Đầu tư vào quảng bá xúc tiến du lịch 9
2.4. Đầu tư vào cải thiện môi trường tự nhiên 9
II. Thực trạng thu hút đầu tư vào phát triển ngành du lịch Việt Nam giai đoạn (2003-2007). 10
1. Thực trạng ngành du lịch Việt Nam 10
1.1. Tình hình đầu tư vào sản phẩm du lịch ở Việt Nam 10
1.2.Tình hình về nguồn nhân lực trong ngành du lịch 12
1.3. Thực trạng về đầu tư quảng bá du lịch Việt Nam 15
2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch 17
2.1. Những thành quả đạt được 17
2.1.1 Giai đoạn 2003-2005 17
2.1.2 Giai đoạn 2006-2007 19
2.2. Những mặt tồn tại 25
Chương II: Giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch 29
1. Giải pháp về cơ chế chính sách 29
2. Hoàn thiện quy hoạch 34
3. Tăng cường mở rộng thị trường 36
4. Cải tiến và nâng cao chất lượng quản lí đầu tư xây dựng, khai thác, kinh doanh tại các khu du lịch 37
KẾT LUẬN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2200 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với cac nước đứng đầu khu vực, góp phần thiết thực để sớm đưa nước ta ra khỏi nền kinh tế kém phát triển.
Muốn làm được như vậy cần phải tích cực huy động các nguồn lực cho sự phát triển, trong đó nguồn lực quan trọn nhất mang tính quyết định nhất là nguồn lực con người Chỉ có thể phát triển du lịch nhanh và bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện nếu có một đội ngủ lao động chất lượng cao, số lượng đủ, cơ cấu hợp lý và có trách nhiệm với đất nước gồm đông đảo những công nhân, nhân viên lành nghề, những nhà khoa học,công nghệ du lịch tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa trông rộng.
Vì vậy phải thấy rõ là phải nổ lực cao độ trong đầu tư phát triển nguồn nhân lực du lịch.Hội nhập sâu và toàn diện trong và ngoài WTO sẽ kéo theo sự thay đổi rất lớn từ phía cầu du lịch cả quy mô và chất lượng, nên cung du lịch nước ta mà trước tiên là nhân lực ngành du lịch phải thay đổi và thích ứng.Thành quả trong phát triển nguồn nhân lực du lịch trong những năm qua phải được phát huy, những hạn chế , bất cập trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch phải được giải quyết khẩn trương.Những quyết tâm chính trị trong công tác phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch hơn lúc nào hết phải biến nhanh thành hành động cụ thể mới theo kịp diễn biến của tình hình, mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi về phát triển du lịch của đất nước trong khuôn khổ WTO.
Hơn một nửa lao động còn phải được đào tạo(khoảng 1/3 vạn) và nửa non lao động đã được đào tạo (trên 10 vạn) phải được đào tạo lại, cùng với đào tạo mới cho 15 vạn lao động là nhu cầu rất “khổng lồ”. Vì vậy, phải chấp nhận cơ chế thị trường, phải xã hội hoá mạnh và mở cửa thu hút các nguồn lực cho đào tạo du lịch các cấp, từ đại học, cao đẳng, đến trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.Có như vậy mới tạo nhanh được một đội ngủ lao động đủ năng lực chiếm lĩnh được những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung cấp dịch vụ du lịch của khu vực và toàn cầu .Phải gấp rút trang bị cho đội ngủ lao động đủ năng lực chiếm lĩnh được những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao trong chuỗi cung cấp diạch vụ du lịch của khu vực và toàn cầu.Phải gấp rút trang bị cho đội ngủ lao động du lịch am hiểu các cam kết đa phương và song phương, các hệ thông luật lệ, cac kỹ nămg đàm phán, tranh tụng quốc tế, hiểu biết văn hoá của ta và của bạn, giỏi tin học,ngoại ngữ, để nắm được thông tin nhanh, chính xác, biết mình biết người hiểu được yêu cầu của khách hang và đối tác làm ăn, quản lý nhà nước tốt và quản trị doanh nghiệp đạt trình độ quốc tế.Chưa hội nhập sâu và toàn diện đã phải làm việc này, hội nhập sâu và toàn diện thì càng cần phải làm khẩn trương hơn, nhưng thận trọng và kỹ lưỡng hơn. “Ăn xổi ở thì” trong đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch chắc chắn không thể trụ được khi hội nhập sâu và toàn diện sẽ thua ngay trên sân nhà.
Thực tế ở Việt Nam nguồn nhân lực cho du lịch chưa được đào tạo một cách có hệ thống về chuyên môn kỹ năng nghề nghiệp. Năng lực ngoại ngữ, kỹ năng công nghệ thông tin và khả năng giao tiếp còn hạn chế.Các cơ sở đào tạo du lịch phân bổ không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù có sự bùng nổ về số lượng các công ty du lịch lữ hành trong nước, song các công ty này cạnh tranh thiếu lành mạnh về giá, giảm chất lượng dịch vụ, vi phạm các yêu cầu về giấy phép hành nghề.
1.3. Thực trạng về đầu tư quảng bá du lịch Việt Nam
Trong thời gian qua, hoạt động xúc tiến du lịch của nước ta đã có những tiến bộ đáng kể, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đã để lại ấn tượng tốt đối với du khách trong và ngoài nước.Kết quả đó là dịp nhà nước đưa ra chính sách mở cửa, hội nhập, cùng với những nổ lực của ngành du lịch trong việc quảng bá hình ảnh đất nước với bạn bè quốc tế.Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào chúng ta có thể phát huy thế mạnh vốn có để nâng nghành công nghiệp không khói lên một tầm cao hơn qua việc tạo dựng, phát triển và quảng bá thương hiệu du lịch Việt Nam ra khắp thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu hội nhập toàn diện của đất nước, đã đặt ra một vấn đề mà nhiều doanh nghiệp trước đây hầu như chưa quan tâm, đó là thương hiệu.Những vụ kiện tụng gần đây đã khiến chúng ta nhận thức rõ hơn về thương hiệu. Đối với ngành du lịch - một trong những ngành vốn được coi là mang lại nhiều ngoại tệ cho đất nước, thì trong bối cảnh hiện nay, vấn đề thương hiệu đang được đặt ra rất cấp thiết.
Trong thời gian qua, hoạt động xúc tiến du lịch của nước ta đã có những tiến bộ đáng kể, hình ảnh đất nước, con người VIệt Nam đã để lại ấn tượng tốt đối với du khách trong và ngoài nước.
Hiện nay, theo nhiều du khách và các doanh nghiệp du lịch trong nước, sản phẩm du lịch của Việt Nam còn đơn điệu cả về số lượng lẫn chất lượng. Đó là lý do khiến không ít du khách du lịch đến Việt Nam không hào hứng mua các laọi đồ lưu niệm như khi đến Thái Lan, Trung Quôc.Chúng ta luôn nói “đa dạng các sản phẩm vui chơi , giải trí, du lịch” nhưng thực ra, đó chỉ là sự sao chép lại của các nước khác ( chẳng hạn như môn thể thao tennis, nhảy du, lặn biển, casino,…), trong khi đó, các sản phẩm mang tính truyền thống và riêng biệt “made in Việt Nam” thì hầu như rất hiếm
Việc tạo dựng thương hiệu cho du lịch cho du lịch sẽ tạo ra” một chỗ đứng vững chắc” đối với ngành du lịch Việt Nam trên thương trường quốc tế. Thực tế cho thấy, vấn đề thương hiệu cho du lịch Việt Nam đã được các doanh nghiệp đề cập.Vấn đề an toàn được du khách đặt lên hằng đầu thì tại sao chúng ta không nhấn mạnh sự than thiện cảu con người Việt Nam trong các chiến dịch quảng bá rằng Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới, là nơi có nhiều đặc sản trái cây như dừa, cam, vải, nhãn…nổi tiếng nhưng vẫn chưa khai thác hiệu quả?...
Theo một số doanh nghiệp lữ hành, cần phải nghiên cứu thế mạnh của từng vùng, trên cơ sở tạo ra sản phẩm đặc trưng riêng của vùng đó.Mỗi sản phẩm có thể gắn với một sự tích hay câu chuyện thú vị nào đó của mỗi vùng, gây sự chú, tò mò, vì đó cũng là điều khiến những du khách ưa thích du lịch văn hoá tìm hiểu.
Từ việc phát triển sản phẩm du lịch đặ trưng, qua đó gắn cho chúng những “ thương hiệu riêng” để mỗi khi du khách dến vùng đó sẽ có những gì.Chẳng hạn, khi nói đến Huế, người ta nghĩ ngay đến chiếc nón bài thơ với tà áo tím thướt tha, với sông Hương thơ mộng …
Tuy nhiên, để làm được điều này không phải là việc một sớm một chiều mà cần có một quá trình nghiên cứu, nghiêm túc, đầu tư và tạo dựng sản phẩm hiệu quả, tránh việc tạo dựng tràn lan, mất long tin đối với du khách.
Hơn nữa, đối với sản phẩm du lịch, không nên quá bắt chước các nước khác, hoặc nghĩ đến những thứ quá cao xa.Chẳng hạn, nhiều khi sản phẩm chỉ là một món ăn ngon, một giọng hò, điệu ví, trang phục đặc sắc, quà lưu niệm độc đáo…,tất cả đều có thể thu hút khách du lịch đến thăm quan thưởng thức, nếu có sự đầu tư,khai thác hiệu quả và có một thương hiệu được nhiều người biết đến.
2. Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào ngành du lịch
Đứng trước tình hình ngành du lịch Việt Nam còn nhiều thiếu sót và bất cập. Định hướng vĩ mô của chính phủ cũng như chính sách tăng cường thu hút vốn đầu tư vào du lịch của mỗi địa phương, đạt được nhiều kết quả nhưng cũng gặp phải nhiều hạn chế.
2.1. Những thành quả đạt được
2.1.1 Giai đoạn 2003-2005
Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế nhà nước vào lĩnh vực khách sạn và nhà hang theo giá so sánh năm 1994 phân theo ngành kinh tế.Năm 2003 là 1204 tỷ đồng, năm 2004 là 444 tỷ đồng, năm 2005 là 487 tỷ đồng năm 2006 là 512 tỷ đồng (theo niên gián thống kê năm 2006).
Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài được cấp giấy phép năm 1988-2006 đầu tư vào lĩnh vực nhà hang du lịch phân theo ngành kinh tế.Phân theo ngành kinh tế.Số dự án thực hiên 253/8266 với tổng số vốn là 5652.5 triệu USD/78248.2 triệu USD.Trong đó tổng vốn đăng ký là 2441.9 triệu USD/34945.4 triệu USD.Tổng vốn pháp định do Việt Nam góp là 625.4 triệu USD/5331.7 triệu USD, vốn pháp định do nước ngoài góp là 1816.5 triệu USD/ 29613.7 triệu USD.(Theo niên gián thống kê 2006)
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép năm 2006.Số dự án 20/987 với số vốn đăng ký là 498.4 triệu USD/12003.8 triệu USD.Trong đó nước ngoài đầu tư là 466.0 triệu USD/9096.8 triệu USD.Việt Nam đầu tư là 32.4 triệu USD/2907.0 triệu USD.(Theo niên gián thống kê 2006)
Số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh khách sạn và nhà hàng tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo ngành kinh tế là 3287 doanh nghiệp /72012 doanh nghiệp (năm 2003), 3957 doanh nghiệp/ 94755 doanh nghiệp (năm 2004), 4750 doanh nghiệp/112952 đoanh nghiệp (năm 2005)
Trước tình hình thu hút nguồn vốn ngày càng gia tăng đã mang lại cho ngành du lịch kết quả khá cao.
Doanh thu(DT)
Đv tính
2003
2004
2005
DT của các cơ sở lưu trú
tỷ đồng
6016.6
7432.4
9332.1
DT của các cơ sở lữ hành
tỷ đồng
2633.2
3302.1
4761.2
Khách do các cơ sở lưu trú phục vụ
lượt người
20684.2
24102.2
26905.1
Trong nước
lượt người
16497.0
18426.0
21578.5
Nước ngoài
Lượt người
4187.2
5676.2
5326.6
Khách do các cơ sở lữ hành phục vụ
lượt người
3825.5
4559.2
5063.3
Trong nước
lượt người
2400.5
2914.7
3287.0
Quốc tế
lượt người
1425.0
1644.5
1776.3
Nguồn từ: “ Niên gián thống kê 2006”
Doanh thu du lịch lữ hành theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế (tỷ đồng)
2003
2004
2005
Tổng số
2633.2
3302.1
4761.2
KTNN
1323.1
1598.1
2097.3
KT ngoài NN
758.7
954.5
1598.8
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
551.4
749.5
1065.1
Nguồn: Niên gián thống kê 2006
Cơ cấu doanh thu (%)
2003
2004
2005
Tổng số
100
100
100
KTNN
50.2
48.4
44
KT ngoài NN
28.9
28.9
33.8
KTcó vốn ĐTNN
20.9
22.7
22.4
Nguồn: Niên gián thống kê 2006
Tuy tiềm năng du lịch của Việt Nam rất dồi dào nhưng trong giai đoạn này ngành du lịch Việt Nam chưa thực sự là ngành kinh tế “ mũi nhọn”.
2.1.2 Giai đoạn 2006-2007
Nước ta đang mở ra những cơ hội kinh doanh lớn cho các nhà đầu tư ở khắp thế giới, khi Việt Nam chính thức gia nhập vào sân chơi toàn cầu. Điều này đã được minh chứng bằng số vốn cam kết đầu tư rất ấn tượng của các nhà đầu tư nước ngoài từ đầu năm tới nay vào hàng loạt các dự án trải dài từ Bắc chí Nam. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã có 2,2 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào các dự án trong lĩnh vực du lịch - dịch vụ, chiếm gần 43% trong tổng số 5,15 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài cam kết đầu tư vào Việt Nam trong 9 tháng qua. Đây cũng là số vốn đầu tư lớn nhất cam kết đầu tư vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ trong nhiều năm trở lại đây.
Hàng loạt dự án đầu tư lớn. Theo Tổng cục Du lịch, dẫn đầu về qui mô đầu tư trực tiếp vào du lịch Việt Nam từ đầu năm tới nay là dự án khu nghỉ mát đa năng Đan Kia - Suối Vàng thuộc thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng do bốn tập đoàn đầu tư lớn của Nhật Bản là Mitsui, Mitsubishi, Sumitomo và Limtec liên doanh đầu tư. Đây là dự án rất lớn với số vốn đầu tư lên tới 1,2 tỷ USD.
Một tổ hợp khách sạn - căn hộ - trung tâm thương mại 5 sao có số vốn đầu tư 200 triệu USD tại Tp.HCM do Tập đoàn Kumho Asiana của Hàn Quốc làm chủ đầu tư đã được triển khai. Tập đoàn Winvest LLC (Mỹ) cũng đã nhận giấy phép đầu tư khu du lịch 5 sao Saigon Atlantic tại Vũng Tàu với số vốn đầu tư 300 triệu USD.
Cũng tại Vũng Tàu, tập đoàn Plantium Dragon Empire đang khảo sát để đầu tư dự án khu du lịch vui chơi giải trí với số vốn lên đến 550 triệu USD.
Công ty Rockingham (Anh) cũng đã trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự án xây dựng khu du lịch biển có qui mô lên đến 1 tỷ USD tại Phú Quốc. Bên cạnh việc các tập đoàn nước ngoài đầu tư trực tiếp thì làn sóng đầu tư gián tiếp vào lĩnh vực du lịch - dịch vụ cũng rất sôi động. Quĩ VinaLand đã chính thức mua lại 70% cổ phần của Sofitel Metropole, khách sạn lâu đời, sang trọng và đắt khách nhất Hà Nội hiện nay.
Còn Quỹ VinaCapital cũng không chịu thua kém khi mua 52,5% cổ phần của khách sạn 5 sao Hilton Hà Nội, nâng tổng số cổ phần của Quỹ tại khách sạn này lên tới 70%.
Theo các chuyên gia trong lĩnh vực đầu tư du lịch, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu vào nền kinh tế quốc tế, nhiều tập đoàn kinh doanh khách sạn nước ngoài coi Việt Nam là địa bàn hấp dẫn để triển khai các dự án xây dựng khách sạn cao cấp, nhằm đáp ứng nhu cầu của dòng khách du lịch đang đổ vào Việt Nam ngày càng đông.
Một số tập đoàn lớn đã lên những kế hoạch cụ thể để chuẩn bị đầu tư vào Việt Nam. Trước hết phải kể đến Tập đoàn quản lý khách sạn lớn nhất thế giới Inter Continential Hotels Groups đã công bố sẽ xây dựng khách sạn đầu tiên của hệ thống khách sạn này tại Việt Nam vào đầu năm 2009.
Tập đoàn Hyatt đã khai trương khách sạn đầu tiên tại Tp.HCM vào năm ngoái và hiện đang lên kế hoạch chuẩn bị đầu tư xây dựng các khách sạn tiếp theo. Tập đoàn Starwood đã đầu tư vào Việt Nam từ năm 2003 và đang điều hành hai khách sạn Sheraton tại Hà Nội và Tp.HCM cũng đã lên kế hoạch để chuẩn bị đầu tư tiếp.
Các tập đoàn trên đều hướng sự đầu tư vào các khu nghỉ ven biển tại Đà Nẵng, Nha Trang và Hội An.
Làn sóng đầu tư đang gia tăngTổng cục Du lịch cho biết, cùng với những dự án đã và đang bắt đầu triển khai thì trong thời gian gần đây có nhiều nhà đầu tư nước ngoài có ý định và đã có những bước tiến hành cụ thể để nhanh chóng tham gia đầu tư tại Việt Nam.
Mới đây, UBND Tp.Đà Nẵng và Tập đoàn quốc tế Millenium (Millenium International Group) đã thống nhất và đi đến việc ký kết bản thoả thuận nguyên tắc quy định các điều kiện và nguyên tắc hợp tác phát triển dự án khu du lịch 5 sao tại phường Hoà Hải - quận Ngũ Hành Sơn. Dự án có tổng diện tích 15ha với tổng vốn đầu tư dự kiến là 80 triệu USD.
Theo quy định trong bản thoả thuận, sau thời gian 6 tháng kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đầu tư và được bàn giao mặt bằng, dự án phải được triển khai. Công trình phải được xây dựng hoàn tất trong thời gian từ 2 đến 3 năm để dự án chính thức đi vào hoạt động.
Mới đây UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng đã có buổi tiếp xúc với đại diện Công ty MH Golden Sands (Mỹ), nghe công ty này trình bày ý định đầu tư khu du lịch phức hợp tiêu chuẩn 6 sao tại huyện Côn Đảo. Theo đó, Công ty MH Golden Sands xin UBND tỉnh cho chủ trương được quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 khu vực Cỏ Ống - Đầm Trầu (Côn Đảo) thành một khu đô thị cao cấp với trung tâm thương mại - dịch vụ tài chính - dịch vụ du lịch.Đồng thời, Công ty MH Golden Sands xin được đầu tư trực tiếp xây dựng phát triển khu du lịch Đầm Trầu - Suối ớt trên diện tích khoảng 100ha, theo tiêu chuẩn 6 sao quốc tế đầu tiên ở Việt Nam với tổng mức đầu tư dự kiến 50 triệu USD.
Quy mô dự kiến của dự án này là 65 biệt thự nghỉ dưỡng và 45 Codos ở Đầm Trầu, 81 phòng Asian Suite và 35 Pool Villas ở Suối ớt, cùng các dịch vụ vui chơi giải trí khép kín như: sân tennis, sân mini golf, nhà thuyền du lịch biển, các môn lặn biển, câu cá đại dương, thuyền buồm, lướt ván, nhảy dù bãi biển, nhà giữ trẻ, thư viện, trung tâm mua sắm, bể bơi trên núi.
Ngoài ra, Công ty MH Golden Sands còn dự kiến bố trí tại khu vực Đầm Trầu - Suối ớt khách sạn trung tâm với gần 100 phòng tiêu chuẩn 6 sao, phòng hội thảo 600 chỗ, nhà hàng đa phong cách, spa cao cấp.
*Hàng loạt dự án đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực du lịch có qui mô lớn đang được các nhà đầu tư xúc tiến tại Bà Rịa - Vũng Tàu, Quảng Nam, Đà Nẵng…
Cuối tháng 6-2006, các chuyên gia về kiến trúc, xây dựng của Tập đoàn Platinum Dragon Empire (PDE, Mỹ) đã sang VN thuê hẳn một chiếc trực thăng đi khảo sát tại thành phố Vũng Tàu chuẩn bị cho dự án đầu tư khu du lịch kết hợp vui chơi giải trí với tổng vốn lên đến 550 triệu USD. Theo ông Uông Sĩ Long - trưởng đại diện Công ty Good Choice Imports - Export & Investment tại VN, công ty con của Tập đoàn PDE, đây là chuyến khảo sát, đánh giá cuối cùng trước khi hoàn tất hồ sơ đầu tư để chuẩn bị trình Chính phủ VN. “Chắc chắn vài năm nữa VN sẽ trở thành một trong những địa điểm hấp dẫn du khách ở châu Á và dự án này ra đời nhằm chuẩn bị cho làn sóng du khách này” - ông Long nói. Cũng tại Vũng Tàu, trước đó Bộ Kế hoạch - đầu tư (KH-ĐT) đã cấp phép cho dự án xây dựng khu du lịch năm sao Saigon Atlantic do Tập đoàn Winvest LLC (Mỹ) đầu tư với tổng số vốn lên đến 300 triệu USD. Cả hai dự án này đều nhắm đến khách du lịch MICE (du lịch kết hợp hội thảo, hội nghị) từ các nước trên thế giới, cả hai đều dự kiến xây dựng các trung tâm hội nghị quốc tế hiện đại có sức chứa hàng ngàn khách. Tại nhiều địa phương như Bình Thuận, Khánh Hòa, Quảng Nam, Đà Nẵng... các nhà đầu tư nước ngoài cũng đang nhắm đến du lịch để đầu tư. Mới đây nhất là dự án khu du lịch và giải trí quốc tế liên doanh giữa Công ty Silver Shores (Mỹ) và Công ty Hoàng Đạt (VN) tại Đà Nẵng với tổng vốn đầu tư 86 triệu USD vừa được cấp phép. Dự án này dự kiến sẽ xây dựng trên bãi biển Bắc Mỹ An một khách sạn 600 phòng đạt tiêu chuẩn năm sao kết hợp với trung tâm hội nghị quốc tế; xây dựng 50 biệt thự cao cấp đạt tiêu chuẩn năm sao. Dự án sẽ được phép tổ chức khu vui chơi giải trí có thưởng dành cho người nước ngoài với các trò chơi điện tử theo hình thức chia bài qua bàn như black jack, bacarat và tài xỉu. Tránh tình trạng “xí phần” Theo Bộ KH-ĐT, trong tổng vốn đầu tư nước ngoài vào VN sáu tháng đầu năm nay, lượng vốn thuộc các dự án du lịch - dịch vụ chiếm đến gần 38% (hơn 2,2 tỉ USD vốn đăng ký mới), tăng hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm ngoái.
Ngoài những dự án đã được cấp phép, hiện Bộ KH-ĐT đã tiếp nhận khá nhiều các dự án đầu tư vào lĩnh vực du lịch hoặc dịch vụ gắn liền với du lịch. Trong đó có dự án đầu tư của Nhật đang trong giai đoạn khảo sát tại Lâm Đồng và Nha Trang có qui mô vốn lên đến hàng tỉ USD. “Đây là một sự dịch chuyển đáng kể trong cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài vào VN" - ông Phan Hữu Thắng, cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH-ĐT, nhận định.
Một số địa phương có tiềm năng du lịch đã đang và sẽ có rất nhiều chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư như:
*Tỉnh Hà Tây
Hà Tây là một tỉnh mà thiên nhiên ban tặng rất nhiều tài nguyên du lịch.Chính quyền tỉnh đang hướng tới nhiều biện pháp tích cực để phát triển ngành du lịch nước nhà.Nhìn chung thực trạng ngành du lịch Hà Tây từ 2001-2005:” Kinh tế du lịch đã có chuyển biến tích cực, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh; phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo, tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Năm 2005 Du lịch Hà Tây đón được 2,73 triệu lượt khách, tốc độ tăng bình quân trong 5 năm là 17,3%/năm; doanh thu đạt 304 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân 17,2%/năm”. Theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây khoá IX.
Tuy nhiên kết quả đạt được so với tiềm năng, lợi thế còn hạn chế. Tốc độ phát triển còn chậm, hiệu quả kinh tế- xã hội chưa cao; sản phẩm du lịch còn đơn điệu, mang tính mùa vụ; đầu tư cho du lịch chưa thoả đáng, thiếu tập trung, kết cấu hạ tầng du lịch được các nhà đầu tư chủ yếu mới từ nguồn ngân sách quốc gia, chưa thu hút được các nhà đầu tư, các nguồn vốn để phát triển du lịch với quy mô lớn, chất lượng cao; đội ngũ cán bộ trong ngành du lịch còn bất cập; công tác quản lý nhà nước về du lịch chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành để tập trung quản lý, phát triển du lịch còn chưa đồng bộ.
*Thái Nguyên
Năm 2007 là năm du lịch Thái Nguyên. Ngày 13/10, Ban Tổ chức Năm du lịch Quốc gia Thái Nguyên 2007 đã họp đánh giá kết quả 9 tháng tổ chức thực hiện Năm du lịch Quốc gia Thái Nguyên 2007. Đồng chí Dương Vương Thử, Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Tổ chức Năm du lịch chủ trì cuộc họp. Triển khai các hoạt động của Năm du lịch, từ đầu năm đến nay, tỉnh đã tiếp tục thực hiện một số công việc phục vụ cho Năm du lịch như xây dựng cơ sở hạ tầng; tuyên truyền quảng bá; vận động tài trợ; đảm bảo an ninh trật tự, an toàn vệ sinh môi trường. Vì vậy, các tuyến đường chính; các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch; cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ khách sạn du lịch; công tác tôn tạo, trùng tu các di tích lịch sử, các danh lam thắng cảnh; chỉnh trang đô thị tiếp tục được nâng cấp, xây mới hoàn thành đúng tiến độ, đáp ứng nhu cầu của khách tham quan du lịch. Công tác tuyên truyền quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng T.W, địa phương được tiếp tục thực hiện tốt; phát hành nhiều đĩa, sách giới thiệu về Năm du lịch. Công tác an ninh trật tự, an toàn vệ sinh môi trường được đảm bảo. Đã có nhiều đơn vị tài trợ với số tiền đã nhận 2,445 tỷ đồng; công tác chi tiêu cho Năm du lịch tiết kiệm nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu đề ra. Tính đến hết tháng 9/2007, tổng số lượt khách đến Thái Nguyên đạt 1.007.000 lượt, tăng 41,5% so với cùng kỳ năm trước, đạt 118,5% kế hoạch Năm du lịch đề ra. Khách Quốc tế được 25.230 lượt, tăng gấp đôi cùng kỳ, đạt 100% kế hoạch.Đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Tổ chức Năm du lịch đã đề nghị các ngành, địa phương liên quan từ nay đến cuối năm tập trung chỉ đạo hoàn thiện nốt một số tuyến đường giao thông; tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 45 năm thành lập Thành phố Thái Nguyên; Hội chợ thương mại Quốc tế Thái Nguyên 2007; tổng kết Năm du lịch Quốc gia 2007 và trao cờ cho thành phố Cần Thơ tổ chức Năm du lịch vào năm 2008.
*Thực trạng thu hút FDI v ào ng ành du l ịch
6 tháng đầu năm 2007 : Ngành du lịch thu hút gần 800 triệu USD vốn FDI. Theo Tổng cục Du lịch, cả nước đã có 17 dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch được cấp giấy phép. Tổng vốn đăng ký của các dự án là hơn 776,292 triệu USD, chiếm gần 15% tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian này. Các dự án xây dựng sân golf và các khu du lịch, nghỉ dưỡng đang là tâm điểm thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Hiện cả nước có 14 sân golf đang hoạt động và 28 dự án sân golf đang được triển khai. Trong năm 2007, Việt Nam dự kiến sẽ huy động trên 3.500 tỷ đồng từ nhiều nguồn khác nhau để đầu tư nâng cấp và xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch, trong đó, tập trung đầu tư cho các khu du lịch trọng điểm quốc gia, tại miền Trung và Tây Nguyên.
* Đối với ngân sách nhà nướcnăm 2007, ngành du lịch được ngân sách trung ương hỗ trợ 750 tỷ đồng để đầu tư xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch. Năm 2006, ngành đã được hỗ trợ 620 tỷ đồng để triển khai các dự án phát triển du lịch ở Lào Cai, Hà Nam, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Nam.
2.2. Những mặt tồn tại
Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cho rằng VN cần thận trọng khi tiếp nhận các dự án đầu tư trong lĩnh vực này. “Nếu các địa phương không tính toán kỹ, việc phát triển ồ ạt các dự án trong cùng một khu vực sẽ gây tình trạng manh mún, phá vỡ qui hoạch chung ở những khu vực ven biển” - một quan chức của Tổng cục Du lịch cảnh báo. Theo các chuyên gia, hầu hết dự án đầu tư trong lĩnh vực du lịch đều chiếm diện tích đất rất lớn và ở những vị trí “đắc địa” nhằm mục đích thu hút khách. Do đó, năng lực tài chính và chuyên môn của nhà đầu tư là một trong những yếu tố quan trọng mà cơ quan thẩm định cần phải xem xét khi chấp thuận đầu tư, nếu không rất có thể bài học về tình trạng “xí phần, giữ đất, không triển khai” của một số dự án trước đây có thể sẽ lặp lại.
Thiếu quy hoạch tổng thể phát triển các vùng, khu vực có tiềm năng trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương – yếu tố quan trọng, trực tiếp quyết định đến sự hình thành phát triển du lịch và “resort”. Do đó tại nhiều nơi, đặc biệt những khu vực có tiềm năng du lịch, trong quá trình đầu tư xây dựng (ĐTXD) nhiều khu du lịch và “resort”, khi lựa chọn địa điểm để lập QHCT, dự án đầu tư xây dựng chưa được nghiên cứu kỹ về thị trường, quản lý bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch, quản lý kinh doanh dịch vụ du lịch, cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận... đã gây nên hiện tượng lập QHCT, dự án ĐTXD tràn lan tại cùng một khu vực. Các khu du lịch và “resort” có cùng tính chất hoạt động, đơn điệu về sản phẩm làm ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi và phát triển bền vững của dự án ĐTXD.
- Chất lượng quy hoạch, đặc biệt là QHCT khu du lịch, các “resort” chưa cao, yếu tố sản phẩm du lịch, tài nguyên du lịch, thị trường khách, yếu tố kinh tế, tài chính, xã hội... chưa được nhà đầu tư nhìn nhận, phân tích đánh giá thấu đáo, dẫn đến hiệu quả đầu tư của quy hoạch chưa thật sự tương xứng với yêu cầu, chất lượng trong công tác đầu tư phát triển kinh doanh du lịch. Hiện tượng này dẫn đến một số dự án quy hoạch, ĐTXD phát triển khu du lịch, “resort” bị kéo dài, rơi vào tình trạng quy hoạch, dự án "treo", gây thiệt hại cho chính bản thân nhà đầu tư và địa phương nơi có dự án đầu tư.
Về quản lý đầu tư xây dựng, quản lý kinh doanh, khai thác du lịch, "resort"
- Trình tự thủ tục quản lý ĐTXD các địa điểm, “resort” còn bất cập: công tác kiểm soát đầu tư phát triển KDL gồm từ khâu lập, xét duyệt quy hoạch, cung cấp thông tin về quy hoạch, thẩm định và xét duyệt dự án đầu tư, cấp phép đầu tư, cấp đất, cho thuê đất, giải phóng mặt bằng, cấp giấy phép xây dựng, thẩm định thiết kế kỹ thuật, tổng dự toán, đấu thầu, lập hồ sơ hoàn công, đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sở hữu công trình, cấp phép kinh doanh dịch vụ du lịch... hiện chưa đồng bộ, bị cắt khúc, thiếu những qui định phù hợp với đặc thù hoạt động của khu du lịch. Chủ đầu tư phải mất quá nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36050.doc