Đề án Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là thành viên chính thức của WTO

MỤC LỤC

Phần Mở Đầu 1

Chương I. Tổng Quan Về Những Cam Kết Của Việt Nam Trong Lĩnh Vực Dệt May Khi Gia Nhập WTO. 3

1. Những cam kết và lộ trình thực hiện. 3

1.1. Mức và lộ trình giảm thuế. 3

1.2. Về trợ cấp: Việt Nam cam kết cắt giảm các hình thức trợ cấp vi phạm quy định của WTO. 4

1.3. Về tham gia các Hiệp dịnh tự do hóa theo ngành: Ta cam kết đầy đủ cả ba Hiệp định là ITA, dệt may, thiết bị y tế. Những ngành mà Việt Nam tham gia một phần là thiết bị máy bay, hoá chất và thiết bị xây dựng. Thời gian để thực hiện cam kết giảm thuế là từ 3-5 năm. 4

1.4. Các mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế ngay từ đầu năm 2007. 5

1.5. Về vấn đề hạn ngạch: 6

1.6. Theo cam kết với Mỹ, Việt Nam phải bãi bỏ quyết định về tăng tốc dệt may. 6

Chương II. Thực Trạng Hoạt Động Xuất Nhập Khẩu Hàng Dệt May Của Việt Nam. 8

1. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may trước khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. 8

2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. 11

3. Những tác động đến lĩnh vực dệt may. 14

3.1. Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. 14

3.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. 18

Chương III. Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Hàng Dệt May Trong Điều Kiện Đã Là Thành Viên Chính Thức Của WTO. 23

1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010. 23

1.1. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. 23

1.2. Phát triển công nghiệp thời trang. 23

2. Giải pháp cho ngành dệt may Việt Nam. 23

2.1. Nhóm giải pháp về phía Nhà nước. 23

2.2. Nhóm giải pháp về phía các doanh nghiệp dệt may. 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 23

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn về ngành dệt may, chúng ta có thể tham khảo kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may một số năm trước đây. Kim ngạch xuất nhập khẩu hàng dệt may ( triệu USD ) Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Xuất khẩu 1881.9 1975.9 2732.0 3609.1 4385.6 4850.0 5917.0 Thiết bị, phụ tùng --- 242.6 325.1 402.3 --- --- --- Bông 90.4 15.4 111.6 105.4 190.2 --- --- Xơ dệt 89.1 1119.1 119.0 158.7 --- --- --- Sợi dệt 273.3 228.4 272.6 317.5 338.8 --- --- Vải các loại 761.3 880.2 1523.1 1805.4 1926.7 --- --- Phụ liệu may 971.4 1036.2 1069.2 1264.9 2252.7* --- --- * Tính cả phụ liệu cho giày dép. Nguồn: Niên giám thống kê. 2. Thực trạng xuất nhập khẩu hàng dệt may sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Việc Việt Nam gia nhập WTO vào cuối năm 2006 đã đánh dấu một bước ngoặt, ngành Dệt may Việt Nam có cơ hội bình đẳng với các nước trên thế giới trong việc xuất khẩu hàng dệt may, đồng thời chế độ hạn ngạch áp dụng với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ và Thổ Nhĩ Kỳ được bãi bỏ. Tính đến hết tháng 11/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 7 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm 2006, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu. Dự kiến, xuất khẩu dệt may năm 2007 đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Như vậy, đến cuối năm 2007 mặt hàng dệt may sẽ vượt dầu thô, lần đầu tiên trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất. Trong đó, thị trường Hoa Kỳ chiếm vị trí chủ đạo, đạt 4,4-4,5 tỷ USD, chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, tăng 32%. Tiếp theo là EU, đạt khoảng 1,45 - 1,5 tỷ USD, chiếm 18%, tăng khoảng 20%. Thị trường Nhật Bản đạt khoảng 700 triệu USD, chiếm 9%, tăng khoảng 12%. Thị trường Hoa Kỳ hiện chiếm khoảng 53.4% kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam, trong tháng 8/ 2007, xuất khẩu sang Mỹ đạt 466 triệu USD, tăng 4,87% so với tháng 7/07 và tăng tới 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây cũng là thời điểm xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ bứt phá mạnh trong năm ngoái và tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao trong những tháng cuối năm 2006 và 8 tháng của năm 2007. Dự đoán, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của VN vào Mỹ sẽ đạt 4,3 tỉ USD, tăng gần 26,5% so với năm 2006, có mức tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong các tháng cuối năm 2007. Thị trường EU, trong 9 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU tăng 6%, đạt hơn 608 triệu USD. Đức là nước nhập khẩu nhiều mặt hàng dệt may nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Đức chiếm tới 27% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tiếp đến là Vương quốc Anh, tăng 54% so với cùng kỳ, đạt 105 triệu USD, chiếm 17% tổng kim ngạch xuất khẩu. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu dệt may sang các nước thành viên trong khối EU tăng trưởng khá. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang các nước như Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Italia… giảm và kim ngạch xuất khẩu tăng sang các nước như Anh, Bỉ, Cộng hòa Séc, Ba lan… Mức độ sụt giảm ở từng nước là khá thấp, riêng chỉ có xuất sang Italia là giảm mạnh nhất, giảm tới 42% đạt 25 triệu USD. Đây là điểm khá thuận lợi cho hàng dệt may Việt Nam trong thời gian tới. Thị trường Nhật Bản, theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tháng 10/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 64,8 triệu USD, tăng 4% so với tháng trước và 9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 10 tháng đầu năm 2007, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng dệt may sang Nhật Bản đạt 588,7 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm 2006. Thành công của dệt may Việt Nam trong năm 2007 vừa qua không chỉ dừng lại ở việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào ba thị trường chính là Mỹ, EU và Nhật Bản, mà còn mở rộng xuất khẩu sang nhiều thị trường khác như Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… đặc biệt phải kể đến là Thổ Nhĩ Kỳ. Từ đầu năm 2007, chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ chính thức dỡ bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam. Nhờ vậy, xuất khẩu hàng dệt may của nước ta sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ từ đầu năm 2007 đến nay liên tục đạt mức tăng trưởng rất cao. Theo số liệu thống kê, tháng 10/2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng 811,54%, đạt 2,37 triệu USD, đưa kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ trong 10 tháng năm 2007 đạt 31,73 triệu USD, tăng 584,94% so với cùng kỳ năm 2006. Điều này khẳng định hàng dệt may của Việt Nam có sức cạnh tranh rất lớn trên thị trường Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay, Thổ Nhĩ Kỳ trở thành 1 trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của nước ta, sau Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Canada, Hàn Quốc, Nga, Mêhicô và Trung Quốc. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Thổ Nhĩ Kỳ mới chỉ chiếm 0,5% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. 3. Những tác động đến lĩnh vực dệt may. 3.1. Những cơ hội của ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. Thứ nhất, Ngành dệt may Việt Nam được hưởng lợi từ việc bài bỏ hạn ngạch và giảm thuể nhập khẩu vào một số thị trường, từ đó có cơ hội mở rộng thị trường. Khi Việt nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO sẽ phải bãi bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam. Khi đó các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo khả năng của mình mà không còn lo ngại về hạn ngạch ở bất kỳ thị trường nào. Bên cạnh đó các doanh nghiệp dệt may cũng có cơ hội thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. Ngoài các thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản, các doanh nghiệp còn có cơ hội thâm nhập vào một số thị trường khác như: Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Thổ Nhĩ Kỳ… Cụ thể là xuất khẩu sang Đài Loan tăng 13% , sang Canada, Mexico, Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông… đều có mức tăng trưởng từ 20% - 50%. Riêng xuất khẩu sang Thổ Nhĩ Kỳ tăng gấp 5 lần năm ngoái. Thứ hai, Môi trường kinh doanh ngày càng được cải thiện tạo điều kiện thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài. Khi vào WTO, Việt Nam cam kết thực hiện áp dụng và giám sát hệ thống luật của mình theo những nguyên tắc quốc tế: minh bạch, hợp lý, công bằng và đồng bộ. Bên cạnh đó chúng ta cũng tích cực cải thiện môi trường đầu tư. Hiện nay, hiệp hội Dệt may Việt Nam đã và đang xây dựng một số chương trình trọng điểm cho ngành dệt may đến năm 2010. Cụ thể: - Tập trung đầu tư sản xuất xơ sợi tổng hợp để đủ sức cung ứng cho nhu cầu dệt; - Phát triển bông xơ sợi nội địa; - Đầu tư phát triển 1 tỷ mét vải phục vụ may mặc xuất khẩu vào năm 2015; - Chương trình nâng cao chất lượng ngành dệt, nhộm; xây dựng 3 khu công nghiệp dệt nhuộm có hạ tầng cấp nước sạch và xử lý nước thải để thu hút đầu tư. Thời gian vừa qua cũng đã có nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành dệt may của Việt Nam, tuy nhiên chủ yếu là đầu tư vào các ngành công nghiệp phụ trợ, giúp cho Việt Nam chủ động hơn trong sản xuất sản phẩm, giảm bớt sự phụ thuộc vào nước ngoài cũng như đầu tư công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Thứ ba, giảm chi phí xuất khẩu gắn với việc phân bổ hạn ngạch, từ đó làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Chi phí phân bổ hạn ngạch chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng chi phí xuất khẩu của Việt Nam. Chi phí do hạn ngạch sinh ra đối với mặt hàng dệt xuất khẩu sang US/Canada chiếm 6.9% tổng chi phí, đối với mặt hàng may mặc vào hai thị trường này là 7.1% và chi phí do hạn ngạch sinh ra khi xuất khẩu sang EU đã là 7.5% đối với mặt hàng dệt và 7.2% đối với mặt hàng may mặc. Khi gia nhập WTO, với việc các thành viên WTO phải bỏ hạn ngạch đối với Việt Nam, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ có điều kiện giảm giá xuất khẩu do không phải mất chi phí do việc cấp hạn ngạch gây ra. Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí XK:  US/Canada (%) EU (%) Dệt May mặc Dệt May mặc Bangladesh 15.3 8.1 8.4 7.3 Trung Quốc 20.0 33.0 12.0 15.0 Hồng Kông 1.0 10.0 1.0 5.0 Hungary 6.9 5.0 0 0 Ấn Độ 9.8 34.2 12.0 15.2 Indonesia 8.1 7.8 6.3 6.0 Philippin 6.5 7.8 5.7 6.0 Balan 6.9 5.0 0 0 Sri Lanka 15.3 8.3 5.5 6.6 Thái Lan 8.3 13.2 6.4 7.8 Thổ Nhĩ Kỳ 7.0 4.9 1.5 0 Việt Nam 6.9 7.1 7.5 7.2 Các nước trung Âu khác 6.9 5.0 0 0 (Nguồn: Hildegunn Kyvik Nordas (2004), The Global Textile and Clothing Industry post the Agreement on Textiles and Clothing, WTO – Cẩm nang hội nhập). Thứ tư, Gia nhập WTO, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam được bảo vệ bởi các công cụ giải quyết tranh chấp của WTO. Khi đã là thành viên chính thức của WTO, Việt Nam sẽ được hưởng nguyên tắc đối xử tối huệ quốc MFN và nguyên tắc đối xử quốc gia NT. Quy chế tối huệ quốc có nghĩa là tất cả hàng hóa, dịch vụ và công ty của các thành viên WTO đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng. Quy chế đối xử quốc gia có nghĩa là không có sự phân biệt đối xử giữa hàng hóa, dịch vụ và các công ty của mình với hàng hóa, dịch vụ và các công ty của nước ngoài trên thị trường nội địa. Hai nguyên tắc này cho phép đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các thành viên với nhau trên cả thị trường trong nước và trên thế giới. Ngoài ra, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng được hưởng cơ chế giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tinh trạng bị chèn ép, áp đặt đơn phương như trước đây.Khi đó các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có cơ hội cạnh tranh bình đẳng như bất kỳ quốc gia thành viên nào khác của WTO. Thứ năm, Gia nhập WTO đảm bảo tiến trình cải cách hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn, từ đó đẩy nhanh quá trình làm thủ tục xuất khẩu hàng dệt may ra nước ngoài cũng như nhập khẩu nguyên liệu vào trong nước. Cơ chế hạn ngạch làm nảy sinh những vấn đề xã hội như nạn tham nhũng, tiêu cực và sách nhiễu doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, các doanh nghiệp có năng lực sản xuất và chất lượng hàng hóa tốt lại không có cơ hội xuất khẩu do không có hạn ngạch. Việc xóa bỏ hạn ngạch của các nước đối với Việt Nam khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ góp phần giải quyết dứt điểm tình trạng này, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trong việc xuất khẩu hàng dệt may và góp phần nâng cao uy tín về chất lượng hàng dệt may trên thị trường thế giới. Mặt khác, nước ta đã áp dụng biện pháp cải cách hành chính theo cơ chế một cửa, giúp các doanh nghiệp làm thủ tục hải quan và thông quan hải quan nhanh chóng. Ngoài ra thì việc ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin cũn giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng quản lý, năng suất lao động và làm việc có hiệu quả hơn. 3.2. Thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam khi gia nhập WTO. Thứ nhất, các chính sách hỗ trợ của Chính phủ dành cho ngành sẽ không còn và hàng rào thuế quan bảo hộ doanh nghiệp ở thị trường nội địa cũng mất gần hết. Ngành dệt may trước khi Việt Nam gia nhập WTO được hưởng các hình thức trợ cấp: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại. Khoản ưu đãi lớn nhất mà ngành dệt may nhận là được vay vốn từ Quỹ Tín dụng ưu đãi của Chính phủ để thực hiện các dự án đầu tư. Bên cạnh đó, ngành còn được hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại lấy từ khoản lệ phí hạn ngạch do doanh nghiệp nộp, thưởng xuất khẩu cho một số doanh nghiệp có thành tích tốt. Tuy nhiên sau khi gia nhập, Việt Nam cam kết bãi bỏ ngay từ thời điểm gia nhập các hình thức trợ cấp dưới dạng cấp phát tiền trực tiếp cho doanh nghiệp theo doanh số xuất khẩu khi tham gia các chương trình xúc tiến thương mại. Như vậy, tác động đối với ngành dệt may đến từ việc Việt Nam sẽ phải cắt giảm 3 hình thức ưu đãi còn lại: ưu đãi về tín dụng, ưu đãi về đầu tư; bảo lãnh tín dụng đầu tư. Như vậy, ngành dệt may sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn từ phía Chính phủ, do đó sẽ bị ảnh hưởng sau khi Việt Nam gia nhập. Trước đây, số tiền hỗ trợ thực tế mà một số doanh nghiệp nhận được cũng không lớn. Trong bốn năm qua toàn ngành chỉ vay được khoảng 110 triệu Đôla Mỹ tín dụng ưu đãi và tổng số tiền Chính phủ chi để bù lãi suất cho khoản vay này chỉ khoảng 4 triệu Đôla Mỹ mỗi năm. Nếu tính thêm gần 1 triệu đô la Mỹ để thưởng xuất khẩu và hỗ trợ chi phí xúc tiến thương mại, thì mỗi năm ngành được trợ cấp chưa đầy 5 triệu đô la Mỹ. Một số doanh nghiệp nhà nước có được cấp bổ sung vốn lưu động, bình quân gần 1 triệu đô la Mỹ/năm, chỉ đáp ứng 3,8% nhu cầu. Nhưng trên thực tế, số tiền các doanh nghiệp ngành dệt, may phải nộp cho Nhà nước thông qua các khoản phí và lệ phí còn cao hơn nhiều lần so với những gì họ được nhận. Riêng phí sử dụng hạn ngạch xuất khẩu đi Mỹ, mỗi năm Nhà nước thu của họ tới 10 triệu đô la Mỹ (từ năm 2006 khoản lệ phí này đã được bỏ). Ngoài ra, doanh nghiệp trong nước còn phải nộp thay cho công nhân lệ phí công đoàn bằng 2% tổng quỹ lương (doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không phải đóng lệ phí này). Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đang sử dụng khoảng 100.000 lao động và tiền lệ phí công đoàn phải đóng hàng năm gần 36 tỉ đồng, đây không phải là một khoản tiền nhỏ. Như vậy, việc bãi bỏ hoặc cắt giảm các hình thức trợ cấp hiện tại sẽ ảnh hưởng đến ngành dệt may. Nhưng mức độ ảnh hưởng cụ thể còn tùy thuộc vào khả năng chủ động, lường trước khó khăn và chủ động điều chỉnh chính sách sản xuất và xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Thứ hai, hàng dệt may sản xuất trong nước có thể bị cạnh tranh mạnh hơn do thuế giảm. Trước khi gia nhập WTO, thuế nhập khẩu hàng may mặc vào Việt Nam là 50%, thuế nhập khẩu vải là 40%, thuế nhập khẩu sợi là 20%. Sau khi gia nhập WTO, tất cả phải giảm xuống 2/3 ( khoảng 10-15% ), là mức chung của các thành viên WTO. Như vậy, các doanh nghiệp dệt may sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh lớn trên thị trường nội địa. Bên cạnh đó, ngành dệt sẽ gặp nhiều khó khăn nhất, vì khoảng cách về trình độ phát triển giữa ngành dệt Việt Nam và các nước khá xa. Nếu xếp theo thang điểm 10, thì ngành dệt Việt Nam chỉ đạt khoảng 3-3,5 điểm, nghĩa là nằm ở nửa sau của thế giới. Hiện nay, đến 80% nguyên, phụ liệu cung cấp cho ngành may xuất khẩu là từ nước ngoài. Điều này cho thấy phần nào năng lực cạnh tranh kém cỏi của ngành dệt Việt Nam. Nếu tình hình này không sớm được cải thiện, các doanh nghiệp dệt có khả năng mất luôn chỗ đứng ở thị trường nội địa trong tương lai gần. Hiện nay hầu hết hàng dệt may nước ngoài có mặt tại Việt Nam là hàng Trung Quốc giá rẻ nhập lậu, nhất là hàng may sẵn. Do vậy, các nhà sản xuất trong nước sẽ phải cạnh tranh với Trung Quốc nhập khẩu, đặc biệt là vải Trung Quốc vì lúc này thuế suất giảm xuống chỉ còn 10%. Đối với nhóm quần áo và đồ may sẵn, việc cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu là cơ hội để các thương hiệu quần áo may sẵn đẩy mạnh hoạt động tại thị trường Việt Nam. Mặt khác, hệ thống bán buôn, bán lẻ hàng vải sợi may mặc trong nước chưa có tổ chức, bản thân các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại chưa tạo được các kênh tiêu thụ ngay, để thả nổi cho một số tư thương làm giả nhãn mác một số công ty có uy tín. Do vậy, để các nhà sản xuất hàng dệt may Việt Nam làm chủ được thị trường nội địa, nên không có biện pháp nào khác ngoài việc phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, bán buôn và bán. Vấn đề mấu chốt trong cuộc cạnh tranh này là kênh phân phối và thương hiệu, vốn là những lĩnh vực yếu của doanh nghiệp Việt Nam. Kết quả cuộc cạnh tranh là gì? Là các thương hiệu may sẵn của Việt Nam sẽ nhường chỗ cho các thương hiệu nước ngoài và sự sụt giảm lượng khách đáng kể tại các nhà may do nhu cầu sử dụng hàng hiệu giá rẻ tăng cao. Bên cạnh đó, khi vào WTO Việt Nam phải dành mức thuế MFN cho hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên WTO khác và thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu theo đúng cam kết. Đồng thời, Việt Nam cũng phải đối xử với hàng dệt may nhập khẩu từ tất cả các nước thành viên khác theo nguyên tắc NT, tức là không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng nội địa. Thứ ba, những thách thức mang tính chính sách như rào cản kĩ thuật, rào cản thương mại. - Nguy cơ bị áp dụng các biện pháp tự vệ. Việc gia nhập WTO một mặt làm tăng cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là sang các thị trường đang áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam, nhưng mặt khác cũng kèm theo nguy cơ bị các thành viên, đặc biệt là các thành viên lớn như Hoa Kỳ, EU áp dụng biện pháp tự vệ. Trên nguyên tắc thỏa thuận thương mại song phương với Hoa Kỳ thì khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ không bị áp dụng biện pháp tự vệ đặc biệt, nhưng do dệt may thuộc nhóm hàng đặc biệt nhạy cảm, hơn nữa quan hệ thương mại có thể chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố phi thương mại nên mặc dù hiện tại xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chỉ chiếm thị phần dưới 3% nhưng nếu có sự tăng trưởng xuất khẩu nhanh trong thời gian ngắn, không loại trừ khả năng các nước này có thể sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu. Từ đó có khả năng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao và ảnh hưởng xấu tới ngành dệt may. Ngoài ra, sức ép về các rào cản phi thương mại bao gồm: các rào cản mang tính chất kỹ thuật, chính sách bảo hộ của các quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn, yêu cầu về thực hiện tốt trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, yêu cầu về đạo đức kinh doanh… cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may của Việt Nam. - Nguy cơ bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã phải đương đầu với nhiều vụ tranh chấp thương mại với một số nước lớn như: vụ kiện thương hiệu cá da trơn và vụ kiện bán phá giá tôm ở Mỹ, vụ kiện bán phá giá xe đạp và giày ở EU, vụ kiện bán phá giá bật lửa ga ở Hàn Quốc… Đặc biệt nếu như tình trạng các doanh nghiệp tranh mua, tranh bán, chủ động giảm giá xuất khẩu để cạnh tranh vẫn còn diễn ra thì rất có khả năng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ bị kiện chông bán phá giá như đã từng xảy ra trước đây. Thứ tư, nguồn lao động trong ngành dệt may chắc chắn sẽ bị chia sẻ, giá lao động sẽ tăng lên, cạnh tranh trong việc thu hút lao động cũng sẽ gay gắt hơn. Trước đây, Việt Nam vẫn được coi là có lợi thế về giá nhân công rẻ. Nhưng hiện nay, lao động trong ngành dệt may có mức thu nhập thấp hơn nhiều so với mặt bằng chung, do đó tình trạng người lao động không còn thiết tha với ngành dệt may trở nên phổ biến, nhiều công nhân may đã bỏ nghề chuyển sang các khu vực khác như ngân hàng, khách sạn có mức thu nhập cao hơn. Ưu thế về chi phí nhân công thấp không còn nổi trội so với các quốc gia khác. Ngành công nghiệp phụ trợ lại yếu càng khiến doanh nghiệp dệt may Việt Nam khó cạnh tranh hơn. Thứ năm, Chính phủ Mỹ áp dụng chế độ theo dõi đặc biệt đối với ngành dệt may Việt Nam. Ngày 11/1/2007 là ngày mà cả nước vui mừng với sự gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức thương mại thế giới WTO, nhưng đây cũng chính là ngày Chính phủ Hoa Kỳ chính thức triển khai chương trình giám sát hàng dệt may xuất khẩu từ Việt Nam. Chương trình này đã tạo nên một sự lo lắng lớn cho cả ngành dệt may Việt Nam. Chương trình này đã và đang tạo ra nhiều tác hại trực tiếp và lâu dài đến ngành dệt may. Mặc dù cơ chế này mới dừng ở việc theo dõi số liệu xuất khẩu của Việt Nam và cứ 6 tháng một lần đánh giá số liệu nhưng nó đã làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này và đã làm cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài, ngăn cản các khách hàng vào đặt hàng tại Việt Nam qua đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Nhiều khách hàng đã giảm bớt đơn hàng cũng như chuẩn bị rút khỏi Việt Nam trong trường hợp Bộ Thương mại Hoa Kỳ đưa ra những nhận xét bất lợi trong đợt giám sát đầu tiên vào tháng 8/2007. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp trong ngành dệt may đã tích cực hợp tác với các cơ quan quản lý và hành động vì quyền lợi chung của cả ngành, không để xảy ra nguy cơ bị điều tra chống bán phá giá do đơn giá xuất khẩu suy giảm. Kết quả, ngày 26/10/2007 Bộ thương mại Hoa Kỳ đã công bố đánh giá số liệu giám sát nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2007 và quyết định không tự khởi động điều tra chống bán phá giá đối với hàng dệt may Việt Nam tại kỳ đánh giá thứ nhất. Tuy nhiên, chương trình giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3 năm 2008. Và cho đến nay, Bộ Thương mại Hoa Kỳ vẫn chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tác động tiêu cực của Chương trình Giám sát đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như: không giảm bớt diện mặt hàng trong diện bị giám sát và cũng không nêu các tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Khả năng cơ chế giám sát của Hoa kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Theo các chuyên gia kinh tế, thị trường Hoa Kỳ là một thị trường lớn đầy trắc trở và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với hàng dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, đối thủ lớn nhất của dệt may Việt Nam tại thị trường Hoa kỳ và EU là Trung Quốc. Trước đây khi Trung Quốc gia nhập WTO, hàng dệt may Trung quốc đã ồ ạt vào hai thị trường nay khiến cả Mỹ và EU đều phải áp đặt hạn ngạch đối với hàng dệt may Trung Quốc. Nhưng theo dự kiến thì EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch với hàng dệt may Trung Quốc vào năm 2008, và Mỹ sẽ bãi bỏ vào năm 2009. Điều này gây bất lợi cho hàng dệt may Việt Nam. Chương III. Phương Hướng Và Giải Pháp Thúc Đẩy Xuất Khẩu Hàng Dệt May Trong Điều Kiện Đã Là Thành Viên Chính Thức Của WTO. 1. Định hướng xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010. Theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam - Vitas, mục tiêu kim ngạch xuất khẩu của ngành là 13-15 tỷ USD vào năm 2010, tăng từ 8 tỷ USD năm 2008. Để đạt được chỉ tiêu đề ra, các nhà sản xuất hàng dệt may trong nước đang phấn đấu tăng tỷ lệ nội địa hóa lên 50% và giá trị gia tăng lên 50% trong 3 năm tới. Hiệp hội cũng khuyến khích các công ty dệt may địa phương khai thác các thị trường truyền thống hơn nữa như Mỹ, EU và Nhật Bản và tìm kiếm thêm các thị trường mới và thúc giục các công ty địa phương tập trung xây dựng thương hiệu, tăng cường xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã thiết kế, tiếp thị và quản lý. 1.1. Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Năm 2008 và những năm tiếp theo, các nước xuất khẩu hàng dệt may Châu Á lớn như Trung Quốc đang đi vào chiến lược nâng cao đẳng cấp, chất lượng, lại được bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu vào đầu năm 2008 ở thị trường EU và đầu năm 2009 ở thị trường Hoa Kỳ và các nước châu Á khác như Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Srilanka, Campuchia… cũng đang tăng tốc xuất khẩu. Đây sẽ là cuộc cạnh tranh lớn cho hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam. Tại 3 thị trường xuất khẩu trọng điểm : Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản đều đang có nhiều trở ngại mà VN phải vượt qua. Hoa Kỳ, một thị trường lớn đầy trắc trở: Hiện nay xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào Hoa Kỳ mới chiếm khoảng 3,26% tổng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ và đứng thứ tư sau Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia. Hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ bị phía Hoa Kỳ đối xử thiếu công bằng so với các nước khác là thành viên WTO như áp dụng cơ chế hạn ngạch đến đầu năm 2007, và sau đó thay thế bằng Chương trình Giám sát hàng nhập khẩu từ Việt Nam. Mặc dù cơ chế này mới dừng ở việc theo dõi số liệu xuất khẩu của Việt Nam và cứ 6 tháng một lần đánh giá số liệu nhưng nó đã làm ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào thị trường này và đã làm cản trở các kế hoạch đầu tư nâng cao năng lực các doanh nghiệp dệt may trong nước và nước ngoài, ngăn cản các khách hàng vào đặt hàng tại Việt Nam qua đó ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, thị trường này vẫn tiềm ẩn những rủi ro do Chương trình Giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3 năm 2008. Hiện nay theo số liệu xuất khẩu dệt may 9 tháng sang Hoa kỳ mà Hải quan Hoa Kỳ công bố, giá xuất khẩu trung bình hàng tháng đã có xu hướng giảm xuống và lượng xuất khẩu có xu hướng tăng lên, thêm vào đó yếu tố chính trị nội bộ của Hoa Kỳ làm tăng thêm nguy cơ khiến các nhà nhập khẩu càng e ngại trong việc đặt hàng tại Việt Nam, cản trở đáng kể tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may trong năm tới. Vì vậy, theo Hiệp hội dệt may, các doanh nghiệp cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn Hoa Kỳ, thực hiện các đơn hàng có chất lượng và giá cao, lưu ý tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ tự khởi kiện chống bán phá giá. Thị trường EU, chưa khai thác hết tiềm năng: Thị trường EU là thị trường tiềm năng và truyền thống của hàng dệt may Việt Nam, trong những năm gầy đây luôn đứng vị trí thứ hai, sau thị trường Hoa Kỳ. Thị trường này với nhiều thị trường ngách có mức sống và nhu cầu hàng dệt may rất đa dạng từ hàng có phẩm cấp thấp đến hàng có chất lượng cao phù hợp năng lực sản xuất nhiều thành phần của Việt Nam. Tuy nhiên, với việc mất giá của đồng Đô la Mỹ so với đồng Euro là một nhân tố ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu sang thị trường này. Năm 2008, EU sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt may cho Trung Quốc, và sẽ áp dụng một hệ thống giám sát ''kiểm tra kép'' để theo dõi việc cấp phép xuất khẩu hàng dệt may tại Trung Quốc và việc nhập khẩu mặt hàng này vào EU. Điều này ít nhiều cũng sẽ ảnh hưởng đối

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may trong điều kiện đã là thành viên chính thức của WTO.DOC
Tài liệu liên quan