Đề án Thực trạng và giải pháp xây dựng một chiến lược quảng cáo có hiệu quả trong bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay

Lời giới thiệu 1

Chương I. Giới thiệu chung về quảng cáo 3

I. Vai trò của hoạt động quảng cáo 3

1. Khái niệm hoạt động quảng cáo 3

2. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của quảng cáo 10

3. Các loại quảng cáo 14

II. Thiết lập một chương trình quảng cáo có hiệu quả 16

1. Xác định mục tiêu của quảng cáo 16

2. Ngân sách dành cho quảng cáo 19

3. Quyết định thông điệp dành cho quảng cáo 21

4. Quyết định về phương tiện truyền thông 23

5. Đánh giá hiệu quả quảng cáo 27

Chương II. Thực trạng về hoạt động quảng cáo và một số quảng cáo trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay 29

I. Thực trạng về vấn đề quảng cáo hiện nay ở các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam 29

1. Lợi ích của quảng cáo bảo hiểm đối với người tiêu dùng 29

2. Thực trạng về chiến lượng quảng cáo của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay 32

II. Giải pháp để xây dựng một chiến lượng quảng cáo có hiệu quả trong bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay 40

1. Tính đặc thù của sản phẩm bảo hiểm 40

2. Một số giải pháp 41

III. Kết luận 45

Tài liệu tham khảo 47

 

 

doc54 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1759 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp xây dựng một chiến lược quảng cáo có hiệu quả trong bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện bởi các nhà sản xuất hàng hoá phổ thôngbán trong phạm vi toàn quốc. Quảng cáo bán lẻ: do các nhà bán lẻ thực hiện như các cửa hàng, các quầy hàng bán lẻ.. Quảng cáo kinh doanh: lại được chia ra thành: * Quảng cáo thương mại. * Quảng cáo công nghiệp. * Quảng cáo chuyên nghiệp. - Căn cứ vào đối tượng quảng cáo, người ta phân loại thành: Quảng cáo sản phẩm: nhiệm vụ của quảng cáo sản phẩm là bán trước hàng hoá cho khách hàng hiện tại và tương lai của doanh nghiệp. Kết hợp với các nhân tố khác của cơ cấu marketing như các điểm bán hàng, thưởng … quảng cáo bảo đảm rằng các chức năng dẫn đến thành công của hàng hoá tiêu dùng đại chúng. Quảng cáo dịch vụ: những dịch vụ có người phục vụ như hiệu giặt là, hiệu uốn tóc, mỹ viện…nếu quảng cáo thì nên nhấn mạnh những cơ quan tổ chức cung cấp chung và những ưu điểm nếu có những dịch vụ ấy. Ngoài ra cũng có thể nhấn mạnh thêm như đúng giờ, tiết kiệm, độc đáo, nhanh chóng… Quảng cáo cho các tổ chức, cơ quan: trong quảng cáo cho các tổ chức, cơ quan người chủ giới thiệu lịch sử của tổ chức để tạo uy tín trước công chúng. Đây là quảng cáo tiếp cận quan hệ công chúng. Trong quảng cáo bảo hiểm, người ta thường căn cứ vào đối tượng để phân loại. Đối với các công ty đã có danh tiếng chẳng hạn như Bảo Việt, Bảo Minh…thường họ tổ chức loại quảng cáo cho sản phẩm, dịch vụ, ví dụ như quảng cáo sản phẩm mới, dịch vụ sau bán hàng (tặng lịch, giải quyết khiếu nại, bồi thường…). Đối với các công ty mới thành lập hoặc mới đầu tư vào thị trường bảo hiểm Việt Nam như AIA, Chinfon Manulife … thường loại quảng cáo của họ là quảng cáo cho công ty nhằm tạo uy tín với khách hàng hiện tại và tương lai của công ty. Như vậy, quảng cáo là một trong năm công cụ chủ yếu mà các công ty sử dụng để hướng thông tin thuýêt phục vào người mua và công chúng mục tiêu. Và quảng cáo là mọi hình thức trình bầy gián tiếp và khuyếch trương ý tưởng, hàng hoá hay dịch vụ được người bảo trợ nhất định trả tiền. Quảng cáo được sử dụng ở tất cả các nước trên thế giới kể cả các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam. Nhưng để hoạt động quảng cáo đạt được hiệu quả thì phải thiết lập được các chương trình quảng cáo có hiệu quả. II-THIẾT LẬP MỘT CHƯƠNG TRÌNH QUẢNG CÁO CÓ HIỆU QUẢ. Khi xây dựng một chương trình quảng cáo những người quản lý marketing bao giờ cũng bắt đầu từ việc phát hiện thị trường mục tiêu và động cơ của người mua. Sau đó họ có thể tiếp tục công việc thiết kế đó thông qua năm quyết định quan trọng , được gọi là năm M: - Mục tiêu quảng cáo là gì?(Mission). - Có thể chi bao nhiêu tiền ?(Money). - Cần phải gửi thông điệp như thế nào?(Massage). - Cần sử dụng phương tiện truyền thông nào?(Media). - Cần đánh giá kết quả như thế nào?(Measurement) 1- Xác định mục tiêu của quảng cáo. Bước đầu tiên trong quá trình xây dựng chương trình quảng cáo là xác định mục tiêu quảng cáo. Những mục tiêu nay phải xuất phát từ những quyết định trước đó về thị trường mục tiêu, xác định vị trí trên thị trường và marketing mix. Có thể đề ra cho quảng cáo nhiều mục tiêu cụ thể của truyền thông và tiêu thụ. Có thể phân loại các mục tiêu quảng cáo theo mục đích của nó là thông tin, thuyết phục hay nhắc nhở. - Thông tin: mục tiêu quảng cáo thường gồm: + Thông báo cho thị trường biết về sản phẩm mới. + Nêu ra những công dụng mới của sản phẩm. + Thông báo cho thị trường biết việc thay đổi giá. + Giải thích nguyên tắc hoạt động của sản phẩm. + Mô tả những dịch vụ hiện có. + Uốn nắn lại những ấn tượng không đúng. + Giảm bớt nỗi lo của người mua. + Tạo dựng hình ảnh của công ty. Ví dụ như trong quảng cáo bảo hiểm mục tiêu quảng cáo của Bảo Việt về sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm cho sĩ bao gồm: Thông báo cho thị trường biết về sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm cho bác sĩ. Công dụng của sản phẩm này: giúp các bác sĩ ổn định tình hình tài chính của mình từ đó ổn định đời sống gia đình của họ; giúp họ nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác; giúp bệnh nhân yên tâm hơn trong chữa bệnh… Giải thích việc áp dụng sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm cho bác sĩ: ví dụ chỉ áp dụng với các bác sĩ có chuyên môn sâu. Thông báo mức phí bảo hiểm đối với loại hình bảo hiểm trách nhiệm cho bác sĩ. - Thuyết phục: + Hình thành sự ưa thích nhãn hiệu. + Khuyến khích chuyển sang nhãn hiệu của mình. + Thay đổi nhận thức của người mua về các đặc tính của sản phẩm. + Thuyết phục người mua mua ngay . + Thuyết phục người mua tiếp người chào hàng. Sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm cho bác sĩ được nhiều công ty triển khai thực hiện hơn, ví dụ thêm Bảo Minh, Pjico…Thì khi đó, mục tiêu thuyết phục của Bảo Việt để khách hàng mua sản phẩm của công ty có thể là: Công bố tình hình tài chính lớn mạnh của công ty, uy tín sẵn có của công ty, Thay đổi nhận thức :không phải mua sản phẩm này là thể hiện trình độ chuyên môn yếu kém, mà ngược lại là thể hiện trình độ chuyên môn cao, thậm chí rất cao, - Nhắc nhở: + Nhắc nhở người mua là sắp tới họ cần tới sản phẩm đó. + Nhắc nhở người mua nơi có thể mua nó. + Lưu giữ trong tâm trí người mua sản phẩm trong thời kỳ trái mùa vụ. + Duy trì mức độ hiểu biết đến nó ở mức cao. Khi mà Bảo Việt đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm cho bác sĩ đạt doanh thu phí cao, số lượng người mua đông thì khi đó, mục tiêu quảng cáo có thể thay đổi thành: + Sẽ có một văn bản pháp luật quy định bắt buộc các bác sĩ phải tham gia bảo hiểm trách nhiệm cho mình. + Mua sản phẩm của Bảo Việt là tốt nhất. 2- Ngân sách dành cho quảng cáo. Sau khi xác định xong mục tiêu quảng cáo công ty có thể bắt tay vào xác định ngân sách quảng cáo cho từng sản phẩm của mình. Vai trò của quảng cáo là nâng cao đường cong nhu cầu của sản phẩm. Công ty muốn chi đúng số tiền cần thiết để đạt được chỉ tiêu tiêu thụ đặt ra. Thế nhưng làm thế nào công ty biết được là mình chi đúng số tiền cần thiết đó? Nếu công ty chi quá ít, hiệu quả không đáng kể , thì lại chuyển sang chi quá nhiều một cách phi lý. Mặt khác nếu công ty chi quá nhiều cho quảng cáo, thì một phần số tiền đó đáng ra có thể sử dụng vào những mục đích khác có lợi hơn. Để xác định ngân sách dành cho quảng cáo thông thường sử bốn phương pháp: Xác định một tỷ lệ % trêndoanh số bán .Đối với sản phẩm bảo hiểm thì đó là % phí thu bảo hiểm. Xác định ngân sách theo khả năng: tức là tuỳ thuộc vào khả năng tài chính của công tymà có thể trích ra cho quảng cáo là bao nhiêu. Ví dụ Bảo Việt có khả năng tài chính lớn mạnh thì ngân sách dành cho quảng cáo cũng lớn hơn, ví dụ 5% doanh thu phí bảo hiểm gốc, còn như PVC khả năng tài chính của công ty nhỏ thì ngân sách dành cho quảng cáo có thể cũng nhỏ, ví dụ 2% doanh thu phí bảo hiểm gốc. - Phương pháp cân bằng cạnh tranh: tức là công ty xác định ngân sách cho quảng cáo bằng mức ngân sách cho quảng cáo của công ty khác. Ví dụ AIA đầu tư vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sau nhưng phát hiện thông tin rằng Prudential dành 4% doanh thu phí bảo hiểm cho quảng cáo nên AIA cũng quyết định dành 4% doanh thu phí của công ty dành cho quảng cáo . - Phương pháp căn cứ vào mục tiêuvà nhiệm vụ phải hoàn thành: theo phương pháp nầy công ty phải xác định mục tiêu cụ thể của mình và xác định những nhiệm vụ cần phải hoàn thành để đạt mục tiêu rồi ước tính chi phí thực hiện những mục tiêu đó. Ví dụ Bảo Việt mục tiêu năm 2001 là: Tăng thị phần lên 2% so với năm 2000 Tăng số lượng hợp đồng ký kết lên 10 000 hợp đồng cả nhân thọ và phi nhân thọ so với năm 2000 Tăng doanh thu phí bảo hiểm lên 6% so với năm 2000 Giảm số lượng hợp đồng bị huỷ bỏ trong năm 2001 đi 2 000 hợp đồng. Để hoàn thành những mục tiêu này, Bảo Việt có thể trích ra 8 tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm dự kiến năm 2001 làm ngân sách quảng cáo. 3- Quyết định thông điệp dành cho quảng cáo. Những người quảng cáo khi xây dựng chiến lược quảng cáo có hiệu quả và sáng tạo phải trải qua ba bước: hình thành thông điệp; đánh giá và lựa chọn thông điệp; thực hiện thông điệp. - Hình thành thông điệp: Về nguyên tắc, thông điệp của sản phẩm cần được quyết định như một bộ phận của quá trình phát triển khái niệm sản phẩm. Nó biểu hiện lợi ích chủ yếu mà nhãn hiệu đó đem lại. Ngay cả trong khái niệm đó vẫn có thể có một khoảng rộng lớn cho một số thông điệp khác nhau. Nhiều người sáng tác sử dụng một số phương pháp để tạo ra sức hấp dẫn cho quảng cáo như sử dụng khung suy diễn để hình thành thông điệp quảng cáo; hay lấy nguồn cảm hứng từ những cuộc chuyện trò với người tiêu dùng, đại lý, chuyên gia, đối thủ cạnh tranh…Và trước khi lựa chọn, người quảng cáo cần sáng tácnhiều phương án đề tài quảng cáo. Càng nhiều phương án quảng cáo được sáng tạo độc lập thì xác suất tìm được một quảng cáo xuất sắc càng lớn hơn. Vừa qua Bảo Việt phát động cuộc thi sáng tác mẫu biểu trưng cho Bảo Việt. Rất nhiều đối tượng đã tham gia cuộc thi này và như vậy, bộ phận kiểm tra, đánh giá của Bảo Việt sẽ có nhiều phương án để lựa chọn và xác suất tìm được một mẫu biểu trưng xuất sắc cho Bảo Việt là rất lớn. - Đánh giá và lựa chọn thông điệp. Người quảng cáo cần đánh giá các phương án thông điệp khác nhau. Quảng cáo thường hay tập trung vào một vấn đề cốt lõi của việc bán hàng. Người quảng cáo cần thử nghiệm trước các phương án quảng cáo để xác định mẫu nào có tác dụng hành vi mạnh nhất. Tiếp theo ví dụ trên, bộ phận kiểm tra, đánh giá mẫu biểu trưng cuả Bảo Việt cần phải đánh giá một cách trung thựccác mẫu tham gia để lựa chọn mẫu phù hợp với công ty của mình. - Thực hiện thông điệp quảng cáo. Tác dụng của thông điệp không chỉ phụ thuộc vào nội dung truyền đạt mà còn phụ thuộc cả vào cách truyền đạt nữa. Một số quảng cáo thì nhằm xác định vị trí lý trí, còn một số quảng cáo khác thì nhằm xác định vị trí tình cảm. Việc chọn tiêu đề, nội dung…có thể làm cho quảng cáo có những tác dụng khác nhau. Khi chuẩn bị một chiến dịch quảng cáo những người quảng cáo thường chuẩn bị một đề cường trình bầy rõ nội dung , mục tiêu, luận cứ và văn phong của quảng cáo mong muốn. Sau đó người sáng tác phải tìm phong cách, văn phong, lời lẽ và hình thức để thực hiện thông điệp đó. Tất cả những yếu tố này phải tạo nên một hình ảnh và thông điệp cô đọng. Vì ít người đọc phần bài viết nên hình ảnh và tiêu đề phải khái quát được ý đồ chào hàng. Sau khi đã lựa chọn mẫu biểu trưng cho mình, các thành viên của bộ phận kiểm tra, đánh giá các mẫu đó sẽ đưa ra hoặc có thể sử dụng tiêuđề của người tham gia cho mẫu đó, chẳng hạn “Bảo Việt trong lòng người Việt”. Phần tiêu đề cần có sự sáng tạo đặc biệt. Có sáu kiểu tiêu đề cơ bản: Tin tức, Câu hỏi, Tường thuật, Mệnh lệnh, Hướng dẫn và Giải thích. Trong bảo hiểm, tiêu đề thường sử dụng là tiêu đề hướng dẫn và giải thích. Ví dụ, Prudential “Luôn luôn lắng nghe. Luôn luôn thấu hiểu”, AIA “Gửi chọn niềm tin”… 4. Quyết định về phương tiện truyền thông. Nhiệm vụ tiếp theo của người quảng cáo là lựa chọn phương tiện quảng cáo để tải thông điệp quảng cáo đi. Quá trình này gồm các bước sau: Quyết định phạm vi mong muốn, tần suất và cường độ tác động. Lựa chọn những phương tiện truyền thông chủ yếu. Lựa chọn phương tiện truyền thông cụ thể. Quyết định lịch sử dụng phương tiện truyền thông. Quyết định phân bố phương tiện truyền thông theo địa lý. ● Trước hết, ta xem xét quyết định phạm vi mong muốn, tần suất và cường độ tác động như thế nào? Việc lựa chọn phương tiện truyền thông là vấn đề tìm kiếm những phương tiện truyền thông , có hiệu quả của chi phí, cao nhất để đảm bảo số lần tiếp xúc với công chúng mục tiêu. Thế nhưng số lần tiếp xúc mong muốn có nghĩa là gì? Chắc chắn người quảng cáo muốn có được một sự phản ứng đáp lại nhất định của công chúng mục tiêu. Tiếp theo là tìm hiểu xem bao nhiêu lần tiếp xúc sẽ tạo ra được mức độ biết đến của công chúng. Hiệu quả của các lần tiếp xúc đến mức độ biết đến của công chúng phụ thuộc vào phạm vi, tần suất và cường độ tác động. Cách dung hoà trong kế hoạch sử dụng phương tiện là với một ngân sách đã cho thì kết hợp phạm vi, tần suất và cường độ tác động như thế nào là có chi phí hiệu quả cao nhất? ● Thứ hai, lựa chọn những loại hình cơ bản của quảng cáo. Người lập kế hoạch sử dụng phương tiện truyền thông phải nắm được khả năng đảm bảo các chỉ tiêu phạm vi, tần suất và cường độ tác độngcủa các loại phương tiện truyền thông cơ bản; phải nắm được ưu, nhược điểm của từng laọi phương tiện này. Sau đây là một số loại phương tiện truyền thông chủ yếu mà các doanh nghiệp thường hay sử dụng: - Báo: + Ưu điểm: , Có thể tiếp cận được đến khách hàng mục tiêu. , Có thể mô tả nhiều về sản phẩm. , Chi phí so với các loại khác tương đối thấp. + Nhược điểm: , Chất lượng quảng cáo không cao. , Không được lưu truyền sang người khác. - Tạp chí: + Ưu điểm: , Tiếp cận được khách hàng mục tiêu. , Chất lượng quảng cáo cao hơNhược điểm so với báo. , Được lưu giữ lâu hơn. + Nhược điểm : Chi phí bình quân đầu người cao hơn so với báo. - Truyền hình: + Ưu điểm : , Tiếp cận được một số lượng lớn khách hàng. , Kết hợp hình, tiếng và cử động khêu gợi cảm xúc thu hút mạnh sự chú ý, bao quát rộng. , Chi phí bình quân đầu người thấp nhất. + Nhược điểm : Quá nhiều quảng cáo, tiếp xúc qua loa,công chúng ít được tuyển chọn. - Truyền thanh: + Ưu điểm : , Tiếp cận được một số lượng lớn khách hàng. , Chi phí bình quân đầu người thấp. + Nhược điểm : , Không tác động vào thị giác. , Không chứa đựng nhiều thông tin. - Gửi thư trực tiếp: + Ưu điểm : , Tiếp cận được những khách hàng đặc biệt. , Chứa đựng nhiều thông tin. + Nhược điểm : Chi phí bình quân đầu người cao. - Quảng cáo ngoài trời: + Ưu điểm : , Linh hoạt, tần suất lặp lại cao. , Giá rẻ, ít cạnh tranh. + Nhược điểm : Không lựa chọn được công chúng, hạn chế tính sáng tạo. Người lập kế hoạch sử dụng phương tiện sẽ lựa chọn trong số những loại hình phương tiện này cho chiến dịch quảng cáo . Hiện nay, các công ty bảo hiểm Việt Nam thường lựa chon phương tiện chủ yếu là báo, tạp chí, truyền thanh , riêng đối với truyền hình ở nước ta chi phí còn quá cao nên phương tiện này chưa được các công ty sử dụng nhiều. Thứ ba, lựa chọn phương tiện truyền thông cụ thể. Bây giờ, người lập kế hoạch sử dụng phương tiện truyền thông phải tìm kiếm những phương tiện truyền thông có hiệu quả của chi phí cao nhất. Ví dụ như: trong Thời báo kinh tế Việt Nam luôn luôn có một trang nói về bảo hiển ở mỗi số, hay tạp chí tài chính … Thứ tư, quyết điịnh lịch sử dụng các phương tiện truyền thông. Người quảng cáo phải giải quyết vấn đề lịch quảng cáo chung và lịch quảng cáo chi tiết. Vấn đề lịch quảng cáo chung: người quảng cáo quyết định sắp xếp lịch quảng cáo theo thời vụ hay theo chu kỳ kinh doanh. Thường thì các công ty đều theo chính sách quảng cáo theo thời vụ. Vấn đề lịch quảng cáo chi tiết: đòi hỏi phải phân bổ chi phí quảng cáo trong một thời kỳ ngắn để đạt được cường độ tác động tối đa. Thời gian biểu quảng cáo có hiệu quả nhất phụ thuộc vào các mục tiêu truyền thông trong mối quan hệ bản chất với sản phẩm, khách hàng mục tiêu, kênh phân phối và các yếu tố marketing khác. Thứ năm, quyết định về phân bố địa lý của phương tiện truyền thông. Công ty phải quyết định cách phân bố ngân sách quảng cáo theo không gian cũng như thời gian. Công ty qquyết định mua quảng cáo toàn quốc khi nó đăng quảng cáo trên mạng lưới truyền hình toàn quốc hay trong các tạp chí phát hành trên toàn quốc. Công ty mua quảng cáo khu vực tức là mua thời gian quảng cáo truyền hình trên một vài kênh truyền hình hay những số tạp chí phát hành trong khu vực. 5- Đánh giá hiệu quả quảng cáo . Việc lập kế hoạch và quản lý hoạt động quảng cáo tốt chủ yếu phụ thuộc vào việc định lượng hiệu quả quảng cáo. Hỗu hết các cách đo lường hiệu quả quảng cáo đều mang tính chất ứng dụng đề cập đến những quảng cáo và chiến dịch cụ thể. Phần lớn ngân sách dành cho quảng cáo chi vào việc thử nghiệm trước các quảng cáo và chỉ có một phần nhỏ hơn nhiều được chi cho việc đánh giá sau hiệu quả của chúng. Mục đích của quảng cáo trong bảo hiểm là thu hút sự chú ý của mọi khách hàng tiềm năng, thuyết phục họ về những lợi ích của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm. Hiệu quả của một chiến dịch quảng cáo là để thay đổi hoặc củng cố thái độ và lòng tin người tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng lòng ham muốn sử dụng của họ. Trong quảng cáo phải xây dựng chi phí quảng cáo hợp lý; thời gian quảng cáo phù hợp với các đối tượng , đúng lúc để khách hàng nhận được thông itn nhiều nhất. Trong ngành bảo hiểm , hiệu quả tuyên truyền quảng cáo có thể tính theo các chỉ tiêu sau đây: 1: Hiệu suất tuyên truyền quảng cáo (HsTTQC): HsTTQC=Số lượng người tham gia bảo hiểm tăng trong kỳ/Tổng chi phí quảng cáo kỳ trước. 2: Hiệu quả quảng cáo (HqQC) HqQC=Doanh thu kỳ này/Tổng chi phí kỳ này. 3: Dùng phương pháp hồi quy tương quan dể phân tích hiệu quả tuyên truyền quảng cáo . Trong đó, phương pháp được các công ty bảo hiểm sử dụng chủ yếu là phương hồi quy tương quan. Phương này đơn giản, dễ hiểu và cho hiệu quả cao. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢNG CÁO VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG CÁC DOANH GNGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM HIỆN NAY. I- THỰC TRẠNG VỀ VẤN ĐỀ QUẢNG CÁO HIỆN NAY Ở CÁC DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM VIỆT NAM . 1- Lợi ích của quảng cáo bảo hiểm đối với người tiêu dùng Tất cả chúng ta đều là những bộ phận của xã hội. Cuộc sống của chúng ta không chỉ mang khía cạnh kinh tế mà còn mang khía cạnh xã hội. Bài học đầu tiên mà mọi người học quảng cáo phải học là quảng cáo phản ánh hiện thực xã hội. Việc xây dựng một mẫu quảng cáo, các thông tin chứa đựng trong đó, các minh hoạ, các sản phẩm cần quảng cáo và các phương pháp hấp dẫn lôi cuốn sửt dụng-tất cả đều mang hương vị của nó. Chúng ta đánh giá quảng cáo chỉ trong môi trường xã hội nhất định với các chuẩn mực đạo đức, nền văn minh và tập quán cùng với hệ thống giá trị của nó, xãhội định hướng cho quảng cáo của chúng ta. Quảng cáo chịu sự tác động của xã hội và ngược lại theo một hướng nào đó quảng cáo tác động trở lại xã hội. Vì vậy trong quảng cáo luôn luôn tồn tại sự giao lưu hai chiều: quảng cáo – xã hội, xã hội-quảng cáo. Hiện nay quảng cáo đã trở nên phổ biến và có sức thuyết phục lớn. Nó định hướng cho sở thích và hình thành quan điểm của chúng ta. Bởi vậy cần phải sử dụng thứ vũ khí này một cách cẩn thận để tránh những ảnh hưởng phá huỷ, bào mòn gái trị xã hội. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò mà quảng cáo đem lại cho xã hội như: - Quảng cáo mang lại cho chúng ta ý niệm đại cương về đời sống của một quốc gia, hứa hẹn một mức sống cao. - Quảng cáo khuyến khích sự tìm tòi sáng tạo, nghiên cứu, đem lại cơ hội phát triển cho những người có tài năng. - Quảng cáo thiết lập nhu cầu cho quần chúng. - Quảng cáo mở rộng cửa đối với thị trường quốc tế. - Quảng cáo củng cố, giữ vững được báo chí. Ngoài những lợi ích chung mà quảng cáo mang lại cho xã hội thì đối với người tiêu dùng nói riêng, lợi ích mà quảng cáo mang lại cho họ cũng không nhỏ chút nào. Lợi ích đó có thể đến là: - Quảng cáo làm cho chủ quyền của người tiêu dùng trở thành hiện thực và có hiệu quả vì nó đem lại cho họ một loạt sản phẩm đẻ lựa chọn . Tất cả các công ty bảo hiểm đều quảng cáo cho sản phẩm của mình thì sự lựa chọn của người tham gia ( mua bảo hiểm ) càng tăng lên. - Quảng cáo hướng dẫn người tiêu dùng vì nó giúp họ nhận thức được nhu cầu cần thiết và đem đến cho họ những sản phẩm thích hợp nhằm thoả mãn nhu cầu đó. Trong thời kỳ hiện nay, phần lớn nhu cầu thiết yếu của dân cư trong mô hình nhu cầu của Maslow đã được thoả mãn. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bộ phận dân cư này chưa nhận thức được nhu cầu tiếp theo của mình là gì? Câu hỏi này sẽ được những thông điệp quảng cáo của các công ty bảo hiểm giải đáp. - Quảng cáo mang đến cho người tiêu dùng toàn bộ kiến thức về một sản phẩm. Lợi ích này thể hiện trong chiến dịch quảng cáo của công ty với mục tiêu là quảng cáo cho sản phẩm của công ty. Chẳng hạn như, Bảo Việt vừa mới công bố sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm cho bác sĩ trên Thời báo kinh tế Việt Nam . Trong trang công bố quảng cáo này đã nêu rõ đối tượng tham gia, phạm vi, điều kiện bảo hiểm …Những thông tin này sẽ giúp cho người tham gia hiểu rõ về sản phẩm này. - Quảng cáo mang đến thông tin làm tăng mức độ hiểu biết của người tiêu dùng về các sản phẩm đang lưuhành trên thị trường. Điều này thể hiện rất rõ trong các quảng cáo thương mại nói chung cũng như trong quảng cáo bảo hiểm nói riêng. Rất nhiều người trước khi xem, nghe hoặc đọc quảng cáo thì sự nhận thức về các sản phẩm của công ty là rất mập mờ, không rõ nhưng khi quảng cáo xuất hiện thì sự nhận thức về các sản phẩm của người tiêu dùng có thông suốt hơn. Ví dụ như công ty bảo hiểm nhân thọ đưa ra sản phẩm bảo hiểm niên kim nhân thọ . Trước khi xem quảng cáo thì người tiêu dùng nói chung có thể chưa biết niên kim là như thế nào ? Nhưng khi quảng cáo đưa lên hình ảnh người công nhân đang làm việc sau đó đến hình ảnh những người già đang tập thể dục dưỡng sinh chẳng hạn và kết hợp với sự giải thích của phát thanh viên thì người tiêu dùng sẽ hiểu thêm về từ “niên kim” - Quảng cáo hướng dẫn cho khách hàng trong tương lai biết sử dụng và bảo quản sản phẩm. Lợi ích này của của người tiêu dùng đặc biệt thể hiện rất rõ trong quảng cáo các sản phẩm tiêu dùng. Ví dụ một quảng cáo về dầu ăn sẽ hướng dẫn người tiêu dùng cách sử dụng và bảo quản dầu ăn hợp lý. - Quảng cáo giúp người tiêu dùng lựa chọn sản phẩm hợp lý vì nó giúp họ phân biệt được hàng hoá và giá cả. Nó thúc đẩy sự tự do và trình độ lựa chọn của khách hàng. Ví dụ cùng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ là An sinh giáo dục, thời hạn hợp đồng là như nhau, nhưng mức phí của các công ty có thể khác nhau . Điều này sẽ giúp cho người tiêu dùng lựa chọn cho mình một mức phí phù hợp nhất, tức là khách hàng lựa chọn công ty để mua sản phẩm này. 2- Thực trạng về chiến lược quảng cáo của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay. Hiện nay, thị trường bảo hiểm Việt Nam đang trở nên sôi động hơn rất nhiều. Từ chỗ chỉ có duy nhất một công ty bảo hiểm ở Việt Nam là Bảo Việt thì cho đến nay đã chính thức có 16 doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh tại Việt Nam .Trong đó có 4 doanh nghiệp Nhà nước, 3 công ty cổ phần, 4 công ty liên doanh và 4 doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài với gần 40 văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Mặt khác, hiện nay doanh thu của ngành bảo hiểm đã chiếm tới 0.6% GDP của cả nước. Từ năm 1994 đến nay, hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng bình quân 23%/ năm , hết năm 1999 tổng doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 2080 tỷ đồng. Những số liệu trên cho thấy hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã ngày càng trở nên quan trọng hơn, nó đóng góp một phần không nhỏ vào quá trình phát triển đất nước.Trong điều kiện tình hình thị trường bảo hiểm như vậy thì hoạt động marketing trong bảo hiểm trở thành một khâu then chốt, có tính chất quyết định đến hoạt động của công ty bảo hiểm, đặc biệt là hoạt động tuyên truyền quảng cáo trong chiến lược phân phối của công ty bảo hiểm. Trước tình hình biến động đó của thị trường bảo hiểm Việt Nam, những cơ hội và thách thức mở ra cho hoạt động quảng cáo trong bảo hiểm là khá phức tạp. Trước hết ta thử tìm hiểu những thuận lợi mà hoạt động quảng cáo bảo hiểm nhận được. Thứ nhất, cùng với sự phát triển của tất cả các lĩnh vực khác thì lĩnh vực công nghệ thông tin cũng đã phát triển vượt trội. Sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho mọi lĩnh vực khác. Những thành tựu của lĩnh vực thông tin làm cho nguồn thông tin luôn luôn được cập nhật. Vì vậy, lĩnh vực bảo hiểm sẽ không nằm ngoài quỹ đạo đó. Một thông điệp quảng cáo về bảo hiểm được gửi đi thì sẽ được hàng trăm, hàng triệu người cập nhật nó ngay lập tức. Thứ hai, sự ra đời của luật kinh doanh bảo hiểm toạ điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam .Đây là hành lang pháp lý cao nhất, an toàn nhất đối với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Đồng thời luật kinh doanh bảo hiểm ra đời cũng là một khía cạnh trong quảng cáo bảo hiểm, vì nó nâng tầm quan trọng của hoạt động bảo hiểm lên tầm cao hơn nữa. Thứ ba, mặc dù thị trường bảo hiểm Việt Nam gần đây đã trở nên sôi động hơn nhưng thị trường này vẫn chưa được khai thác triệt để. Lợi thế lớn nhất đó là dân số Việt Nam rất đông do đó thị trường tiềm năng rất lớn. Vì vây, đây là một điểm rất đáng quan tâm, lưu ý mà quảng cáo bảo hiểm có thể khai thác tận dụng được. Thứ tư, hiện nay số lượng các công ty bảo hiểm nước ngoài chính thức hoạt động tại Việt Nam chưa nhiều. Mặt khác, trong chiến dịch quảng cáo của họ vì là ở thời kỳ mới ra mắt công ty nên chưa được tổ chức rầm rộ và còn e dè. Còn lại phần lớn các công ty bảo hiểm nước ngoài mới chỉ đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam do đó hoạt động quảng cáo của các công ty này chưa thực sự mạnh. Thứ năm, trình độ dân trí của các tầng lớp dân cư ở Việt Nam đã được nâng cao rõ rệt trong những năm gần đây. đây là một thuận lợi rất lớn để chiến dịch quảng cáo bảo hiểm hợp lý tác động vào. Đồng thời, do tập quán của người phương Đông là cuộc sống của họ có phần nào đó là thiên về tình cảm do đó, các công t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng về hoạt động quảng cáo và một số quảng cáo trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan