Đề án Thực trạng và giải pháp xuất khẩu cà phê của Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương I 3

Những vấn đề lý luận cơ bản về xuất khẩu cà phê trong bối cảnh hội nhập 3

1.1. Bản chất, vai trò của xuất khẩu hàng hoá. 3

1.1.1.Khái niệm về xuất khẩu. 3

1.1.2.Vai trò nhiệm vụ của xuất khẩu. 3

1.1.3. Ý nghĩa của xuất khẩu. 4

1.1.4. Nghĩa vụ của nhà xuất khẩu. 4

1.2. Cây cà phê ở Việt nam và vai trò xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế quốc dân. 5

1.2.1.Cây cà phê ở Việt nam. 5

1.2.2.Vai trò của xuất khẩu cà phê đối với nền kinh tế quốc dân 8

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu cà phê. 9

Chương II 12

Phân tích thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 12

2.1. Tình hình xuất khẩu cà phê của Việt Nam những năm đầu hội nhập (2003-2008) 12

2.2_ Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế đối với xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 20

2.2.1_Một số thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu cà phê 20

2.3. Những kết luận đánh giá rút ra từ nghiên cứu thực trạng xuất khẩu cà phê. 23

2.3.1.Ưu điểm. 23

2.3.2.Nhược điểm. 24

Chương III 27

Phương hướng và giải pháp cho xuất khẩu cà phê trong thời gian tới 27

3.1.Mục tiêu phương hướng phát triển xuất khẩu cà phê trong thời gian tới. 27

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 28

3.2.1. Nghiên cứu xâm nhập thị trường thế giới về xuất khẩu cà phê. 28

3.2.2. Đối thủ cạnh tranh. 31

3.2.3. Biện phấp nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu. 34

KẾT LUẬN 40

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41

 

doc42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7271 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thực trạng và giải pháp xuất khẩu cà phê của Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oanh nghiệp xuất khẩu cà phê của nước ta, sụt giá bất ngờ vẫn là nỗi khiếp đảm luôn tồn tại. Điều đặc biệt là giá cả cà phê của Việt Nam trên thị trường thế giới lại phụ thuộc phần lớn vào sản lượng cà phê Brazil. Từ con số thực tế cùng những nhận định dự báo cho tương lai ta có quyền mong đợi cho tương lai phát triển bền vững của ngành xuất khẩu cà phê những năm tới Theo các số liệu của Tổng cục Thống kê ở Hà Nội, năm 2005 Việt Nam xuất khẩu 885 ngàn tấn cà phê, thu về 725 triệu đô la.Con số trên thể hiện sự tăng lên đáng kể của xuất khẩu cà phê so với năm 2004, tăng trên135 triệu đô la,một con số không nhỏ so với tình hình kinh tế của chúng ta hiện nay.Thực tế năm 2005 đã khác với dự báo ban đầu của các chuyên gia kinh tế, đó là vụ thu hoạch cà phê của năm 2005 sẽ thấp hơn nhiều so với niên vụ 2003-2004 và lượng xuất khẩu năm 2005 chỉ đạt 800 ngàn tấn.Số liệu trong bảng cho thấy sản lượng xuất khẩu đã vượt 85 ngàn tấn so với dự kiến ban đầu Xuất khẩu cà phê Việt Nam niên vụ 2005/06 đạt những bước tiến vượt bậc trên nhiều mặt. Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 tỷ đô làm tăng đóng góp của ngành cà phê vào nền kinh tế chung của đất nước, giúp tăng vị thế của cà phê trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo. Thị trường xuất khẩu tăng ổn định và từng bước mở rộng, chứng tỏ uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường thế giới. Chất lượng cà phê vối được cải thiện, cà phê chè (arabica) tuy chưa nhiều nhưng đã thể hiện rõ ưu thế về chất lượng. Mặc dù sản lượng vụ cà phê 2005/06 giảm do ảnh hưởng của hạn hán đầu vụ, nhưng nhờ cà phê xuất khẩu tăng giá nên thu nhập từ sản xuất xuất khẩu toàn ngành cà phê Việt Nam được cải thiện đáng kể. Chỉ tính riêng năm 2006 xuất khẩu 808.375 tấn, đạt kim ngạch 956.903.769 USD với giá bình quân 1183,7 USD/tấn.Vụ 2005/06, cả nước xuất khẩu được 774.457 tấn, trị giá 826.994.798 USD với giá bình quân 1066,5 USD/tấn. Sau một thời gian giá cà phê thế giới rớt giá do tác động của khủng hoảng cung cấp thừa cà phê trên toàn cầu, giá cà phê thế giới niên vụ 2006/06 tăng trở lại. Giá cà phê Việt Nam xuất khẩu luôn bám sát giá thị trường thế giới, và thường chỉ thấp hơn giá chỉ thị của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) khoảng 25%. Trong quý II năm 2006, giá cà phê xuất khẩu tăng mạnh, chỉ thấp hơn giá chỉ thị của ICO khoảng 15%. Đó là thời kỳ giáp hạt của Braxin, Indonesia, chứng tỏ dự trữ của các nhà rang xay trong vụ này khá thấp. Vào quý III, giá lại tăng chậm, đến quý IV giá tăng trở lại. Trong năm 2006, giá trị đồng đô la Mỹ giảm 11,25% so với đồng Euro và 13,8% so với đồng bảng Anh. Điều này cũng là một trong các nguyên nhân ảnh hưởng đến việc tăng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam. Chủng loại và thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam Trong niên vụ 2005/06, Việt Nam đã xuất khẩu cà phê nhân sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài cà phê nhân sống, Việt Nam còn xuất khẩu được 869,7 tấn cà phê hoà tan, trị giá 2.770.341 USD, bình quân 3.190USD/tấn sang 25 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó Nhật Bản: 232 tấn; Mỹ 192 tấn; Đài Loan: 141,5 tấn và Đức: 104,6 tấn. Bảng 2: Các loại cà phê xuất khẩu của Việt Nam niên vụ 2005/06 STT Loại cà phê Khối lượng (tấn) Trị giá (USD) 1 Nhân sống 785,146,773 837,771,354 2 Hoà tan 869,705 2,770,341 3 Khác 8,890 92,996 Tổng 786,025,368 840,634,691 Thị trường nhập khẩu cà phê chính của Việt Nam ngày càng được mở rộng. Đặc biệt là một số nước sản xuất cà phê ở Châu Mỹ La tinh cũng mua cà phê Việt Nam như: Ecuador: 18.492 tấn, Mỹ: 87.932 tấn. Tiếp theo là Ý, Ba Lan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Bỉ và Pháp. Đó là 10 nước hàng đầu trong vụ cà phê 2005/06 (Biểu 1) Cà phê Arabica của nước ta chưa nhiều nhưng đã thể hiện rõ ưu thế về chất lượng. Chất lượng cà phê arabica khác nhau tuỳ theo điều kiện địa lý, dẫn đến chênh lệch giá. Ở Sơn La, do ở cao hơn cả về độ cao mặt biển (600m) và vĩ độ (220 vĩ độ bắc), cà phê Sơn La bán được giá cao hơn cà phê Hướng hoá Quảng trị, nơi thấp hơn cả về độ cao mặt biển (hơn 400m) và vĩ độ (khoảng 16050’), giá cà phê chè hai nơi chênh lệch tới 8,8%. Cà phê Arabica ở Việt Nam chưa nhiều nhưng cũng có thể bán được với giá cao hơn như cà phê Arabica ở Sơn La, công ty cà phê và cây ăn quả Sơn La xuất 307,2 tấn, thu 692.448 USD, giá bán bình quân 2250 USD/tấn. Công ty cổ phần nông sản Tân Lâm xuất khẩu 526 tấn cà phê Arabica, thu 1.097.161 USD, giá bán bình quân 2050 USD/tấn. Biểu 1 (dựa vào số liệu của 10 nước nhập khẩu cà phê Việt Nam hàng đầu vụ 2005-2006 (Theo C/O) Trong nội khối các nước ASEAN, Philippines nhập khẩu cà phê Việt Nam với số lượng 16.547 tấn; Malaysia 12.367 tấn; Singapore 5.690 tấn và Indonesia 806 tấn. Với thị trường Trung Quốc, số lượng nhập khẩu cà phê Việt Nam vẫn duy trì ổn định ở mức 12.865 tấn. . Với thị trường Nga và Đông Âu, Nga nhập của Việt Nam 14.175 tấn; Romania 7567 tấn; Bulgaria 5343 tấn; Slovenya 3417 tấn; Estonia 3.199 tấn; Cộng hoà Czech 3064 tấn; Gruzia 1875 tấn; Hungary 1787 tấn; Yugoslavia 1684,6 tấn; Slovakia 326,4 tấn; Ucraina 153 tấn; Latvia 216,5 tấn; Armenia 38, 4 tấn. Đây là dấu hiệu đáng mừng cho ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam. Năm 2007, sau khi sụt giảm vào cuối tháng 8, trong tháng 9 giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam phục hồi mạnh. Giá trung bình tháng 9 ở mức 1738 USD/tấn, tăng 50 USD/tấn so với giá mức trung bình 1679 USD của tháng 8. Giá xuất khẩu bình quân chung 9 tháng đầu năm đạt 1.507 USD/tấn, tăng 29% cùng kỳ năm trước (khoảng 340 USD/tấn). Hiện nay cà phê xuất khẩu của Việt Nam được định giá dựa theo biến động giá trên thị trường robusta kỳ hạn tại Luân Đôn. Giá cà phê tại Luân Đôn tăng cao kéo giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam tăng theo. Nguyên nhân tăng giá do lo ngại về tình trạng thiếu hụt cung robusta trong ngắn hạn trước vụ thu hoạch mới của Việt Nam. Thu hoạch cà phê ở nước ta, nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới bắt đầu vào cuối tháng 10 trong khi những dự báo cho thấy La Nina đang hình thành ở khu vực Cao nguyên Trung bộ kèm theo mưa và lũ, có thể sẽ gây khó khăn cho việc phơi khô và ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng cà phê. Nguy cơ trời sẽ mưa vào giai đoạn cuối cuả vụ thu hoạch kèm theo dự báo về việc thâm hụt cà phê trên thế giới khiến giới kinh doanh trên thị trường Luân Đôn đẩy giá cà phê robusta lên cao. Thêm vào đó đà tăng giá mạnh trên thị trường arabica kỳ hạn tại Niu Yóoc trong bối cảnh mùa vụ cà phê của Braxin có thể bị thiệt hại do hạn hán kéo dài đã tác động đáng kể lên giá cà phê robusta của Việt Nam. Tại thị trường Đắk Lắk, giá cà phê nhân xô trong tháng 9 tăng so với tháng 8 nhưng biến động thất thường. Vào những ngày đầu tháng, giá cà phê đứng ở mức 25.850 đồng/kg (4/9/07) và tăng ở giữa tháng, đạt 26.900 đồng/kg, tăng 1.000 đồng/kg so với ngày đầu tháng nhưng lại có xu hướng giảm nhẹ vào cuối tháng. Tính chung giá bình quân tháng 9 đạt mức 26.691 đồng/kg, tăng 304đồng/kg so với tháng trước và tăng 4.844 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước.Ư ơc t ính xuất khẩu cà phê tháng 9/2007 đạt khoảng 40 ngàn tấn, kim ngạch đạt 67 triệu USD, so cùng kỳ năm trước lượng giảm khoảng 17%, kim ngạch tăng gần 9%. Xuất khẩu cà phê 9 tháng đầu năm 2007 thuận lợi về giá cả và thị trường, giá cà phê tuy có biến động ngắn hạn nhưng ở xu hướng chung là tăng về dài hạn. Năm 2007 là năm đầu tiên kim ngạch XK cà phê vượt kim ngạch XK gạo với mức 13%. Ước lượng cà phê XK 9 tháng đạt 975 ngàn tấn, kim ngạch 1,47 tỉ USD. So cùng kỳ năm trước lượng tăng 45%, kim ngạch tăng 87%. Tuy đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu cao nhưng giá cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn thấp hơn các nước sản xuất cà phê khác khoảng 50-70 USD/tấn. Theo phó chủ tịch Hiệp hội Cà phê ca cao Việt Nam Đoàn Triệu Nhạn: ‘’nguyên nhân là do Việt Nam mua bán cà phê không theo qui trình, tiêu chuẩn của thị trường thế giới. Nông dân trồng cà phê vẫn chưa bỏ thói quen thu hái cà phê cả hạt xanh lẫn hạt chín, phơi và chế biến thủ công khiến chất lượng giảm. Cả người bán và người mua vẫn có thói quen sử dụng tiêu chuẩn cũ chỉ đánh giá chất lượng cà phê dựa trên ba tiêu chí là hàm lượng ẩm, hạt đen vỡ và tạp chất. Trong khi đó, tiêu chuẩn mới đánh giá theo số lỗi của hạt cà phê. Việc chưa áp dụng tiêu chuẩn mới phù hợp với quốc tế phản ánh những yếu kém trong quản lý chất lượng hàng hóa xuất khẩu của ngành cà phê Việt Nam. Trước sự bất cập này, Nhà nước cần đưa mặt hàng cà phê vào danh mục bắt buộc phải kiểm tra chất l ư ợng s ản ph ẩm tr ư ớc khi th ông qua. Đến năm 2008,từ những tháng đầu năm giá cà phê đã có những biến động mạnh.Giá cà phê kỳ hạn gần nhất đã tăng lên đến 157,2 Uscent/lb (3.462,48 USD/tấn) – mức cao kỷ lục trong 10 năm qua, tăng 16,5% so với trung tuần tháng trước và tăng 37,89% so với cùng kỳ năm ngoái. Cùng với những diễn biến trên thị trường thế giới, giá cà phê robusta xuất khẩu của nước ta tiếp tục tăng rất mạnh. Cụ thể, giá cà phê robusta loại II của nước ta đã vượt ngưỡng 2.000 USD/tấn, lên mức 2.130 – 2.150 USD/tấn, tăng 21,13% so với đầu năm 2008 và tăng 19,44% so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, sau khi vượt ngưỡng 30,000 đồng/kg vào trung tuần tháng 01/2008, trung tuần tháng 02/2008, giá thu mua cà phê nhân trong nước tiếp tục tăng từ 1.500 – 2.000 đồng/kg so với cuối tháng 01/2008, lên mức 33.000 – 33.200 đồng/kg, và tăng gần 50% so với cùng kỳ năm ngoái.Theo số liệu thống kê, trong 20 ngày đầu tháng 01/2008, cả nước đã xuất khẩu 108 nghìn tấn cà phê với trị giá 193,93 triệu USD, giảm 32,27% về lượng và giảm 15,45% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007.Những diễn biến mới về giá đã làm thị trường cà phê trong nước trở nên sôi động hơn bao giờ hết.Ngày 20/02/2008 Giá cà phê trong nước đã leo lên mức cao mới: 32.000-35.000 đồng/kg. Nhiều chuyên gia dự báo, do sản lượng cà phê Việt Nam sụt giảm nên mức giá này có thể đạt mức 40.000 đồng/kg. Chính những biến động quá nhanh và bất ngờ dẫn đến doanh nghiệp găm hàng, chờ giá lên cao hơn mới bán.Còn nông dân thì thấp thỏm không biết nên vui hay là lo lắng.Nguyên nhân khiến giá cà phê leo thang ngay trong những ngày đầu năm là do sản lượng cà phê Việt Nam - nước sản xuất cà phê robusta hàng đầu thế giới, niên vụ 2007-2008 hao hụt 20-30% so với dự tính. Hạn hán đầu vụ cộng với mưa lũ trong tháng 8/2007 đã làm nhiều vườn càphê ở thủ phủ Đắk Lắk bị hư hại, chất lượng kém, năng suất giảm từ 30-70%. Việc thiếu hụt cà phê do sản lượng giảm sút mạnh trong niên vụ này đã đẩy giá thị trường cà phê thế giới lên rất cao. Đã vậy, thấy giá cao, nhiều hộ kinh doanh cà phê “găm” hàng không bán. Theo đà, giá cà phê trong nước cũng tăng lên mức kỷ lục. Những tháng cuối năm 2007 đầu 2008 ở Tây Nguyên, giá mua vào cà phê rubusta nhân có lúc đạt mức 42.000 đồng/kg, đạt mức giá cao nhất trong 14 năm qua. Trong khi đó, giá cà phê robusta trên sàn London vào ngày 3/3 ở mức 2.757 USD/tấn, tăng 34 USD/tấn so với cuối tuần trước; giá cà phê robusta giao tại cảng Tp.HCM đạt mức 2.635 USD/tấn, tăng 30 USD/tấn so với cuối tuần trước đó.Giá cà phê những ngày này được ví như giá cổ phiếu một thời, tăng dần lên từng ngày.Chỉ sau một thời gian ngắn giá cà phê thế giới bất ngờ giảm tình trạng đó kéo dài đến tận bây giờ…vượt ngoài dự đoán của doanh nghiệp và những nhà đầu cơ. Bất ngờ sau một đêm, giá cà phê giao dịch tại London đã giảm 146 USD/tấn từ 2.774 USD/tấn xuống còn 2.628 USD/tấn, từ đó kéo theo giá xuất khẩu tại cảng Tp.HCM cũng đã giảm mạnh gần 190 USD/tấn từ 2.635 USD/tấn xuống còn 2.445 USD/tấn. Theo đà giảm, giá cà phê trên địa bàn Gia Lai đã giảm mạnh chỉ trong vòng 4 ngày, từ mức cao kỷ lục 42.000 đồng/kg trong ngày 6/3 về mức 34.000 đồng/kg trong ngày hôm qua, khiến các chủ cơ sở kinh doanh cà phê dao động, lúng túng. Lo lắng, nhiều người dân đã ồ ạt bán ra làm cho thị trường càng trở nên khó dự đoán và đặc biệt, trong thời gian này, hầu hết các ngân hàng thương mại đang thắt chặt họat động cho vay dẫn đến tình trạng thiếu tiền mặt trong thu mua cà phê.Nhiều người dân ở thành phố Buôn Ma Thuột khi thấy giá cà phê chững lại ở mức cao và bắt đầu có dấu hiệu giảm vội vàng bán ra với mức giá 39.500 đồng/kg nhưng nhiều đại lý không mua với lý do không có tiền mặt. Có người không kịp bán họ đã mất trắng 2,5 triệu đồng/tấn.Những tháng đầu năm 2008 càng giúp ta thấy rõ sự tác động của hội nhập kinh tế đến xuất khẩu cà phê của Việt Nam.Chúng ta cần có những biện pháp nâng cao chất lượng cà phê,tìm hiểu thị trường để việc xuất khẩu cà phê trong tương lai không còn bị chênh vênh và chịu ảnh hưởng quá nhìu của sự biến động của thị trương quốc tế như hiện nay.Góp phần bình ổn giá thị trường,giúp cho nông dân yên tâm chăm chút từng gốc cây cà phê để cho được năng xuất chất lượng cao nhất.Với dự báo kim ngạch xuất khẩu cà phê của ta trong năm 2008 là 1800 triệu đô là cũng có thể nói cũng là một con số khả quan so với những biến động bất ngờ trong những tháng đầu năm. 2.2_ Ảnh hưởng của hội nhập kinh tế đối với xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 2.2.1_Một số thuận lợi và khó khăn trong xuất khẩu cà phê 2.2.1.1_Thuận lợi. “Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thì chúng ta mới tạo ra được thế đứng mới trên thương trường quốc tế, mới hạn chế được những đối xử không công bằng”nhân định trên hoàn toàn đúng trong bối cảnh kinh tế của Việt nam hiện nay,nó đúng cả trong từng ngành cụ thể.Khi nghiên cứu về tình hình xuất khấu cà phê của chúng ta trong những năm vừa qua ta có thể chỉ ra những thuận lợi cơ bản do tác động của hội nhập kinh tế.Hiện nay,tổ chức thương mại thế giới WTO đã thao túng tới 95% kim ngạch buôn bán thế giới, nên khi đã trở thành thành viên chính chức vào đầu năm 2007 chúng ta đã có rất nhiều thuận lợi trong xuất khẩu cà phê trên thị trường quốc tế. Nhờ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta đã tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng với yêu cầu tiêu chuẩn khắt khe của hiệp hội cà phê.Chỉ có hội nhập kinh tế quốc tế, chúng ta mới mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Mở cửa hội nhập do đó, không chỉ là để các doanh nghiệp của ta vươn ra, mà còn để các doanh nghiệp nước ngoài đi vào sản xuất và kinh doanh ở nước ta. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh tế nước ta, chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Thời cơ đang đến, yêu cầu của chính bản thân đòi hỏi, không còn sự lựa chọn ưu việt nào hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để vẫn hội nhập phát triển mà vẫn bảo đảm hội nhập lành mạnh và cùng phát triển giữa các nước xuất và nhập khẩu cà phê.Có thể nói rằng trong những năm đầu hội nhập,thị trường xuất khẩu cà phê của chúng ta đã có nhiều gợi mở.Với những thị trường khắt khe và khó tính hơn đòi hỏi chúng ta cần nỗ lực đáp ứng nhu cầu để có được sự tin tưởng và mối quan hệ làm ăn lâu dài trong tương lai.Mặt khác khi hội nhập kinh tế ,tức là hoà mình vào thị trường chung,cùng ganh đua với những nước có lịch sử phát triển kinh tế từ lâu đời,với tìêm lực mạnh hơn hẳn. Đặt ra những bài toán lớn khiến chúng ta phải không ngừng cải tiến về khoa học trình độ,về kĩ thuật trồng thu hoạch,chế biến cà phê để cạnh tranh lành mạnh xứng đáng với những ưu đãi của thiên nhiên và sự nỗ lực cố gắng của nhà nước ta. Mặt khác chúng ta có thế mạnh về con người, về lao động với trí thông minh, nhanh nhẹn, chăm chỉ, ..nguồn nhân công giá rẻ là một ưu thế giúp cho giá cà phê của ta có khả năng cạnh tranh với các nước trong cùng ngành.Các vùng đất trồng cà phê ngày càng được mở rộng chỉ còn bó hẹp trong các vùng của Tây nguyên.Bên cạnh đó đã có rất nhiều giống cây cà phê với khả năng chống sâu bệnh tốt hơn ,năng xuất cao hơn đang được nghiên cứu và đưa vào gieo trồng .Đó là những tín hiệu tốt cho xuất khẩu cà phê của ta trong tương lai. 2.2.1.2. Khó khăn Một trong những khó khăn lớn nhất hiện nay đó chính là tiêu chuẩn khắt khe của hiệp hội cà phê thế giới, đây là yêu cầu cấp thiết cần phải thay đổi sau khi gia nhập các tổ chức thế giới đặc biệt là trở thành thành viên chính thức của WTO. Tiêu chuẩn mới cho cà phê (TCVN 4193-2005) ban hành từ 2005, đến nay mới có 10% số DN áp dụng, với khoảng 1-1,5% lượng cà phê xuất khẩu hàng năm. Vụ cà phê mới đã bắt đầu, song các DN vẫn lấn cấn vì chưa có quyết định về lộ trình áp dụng tiêu chuẩn mới từ Bộ KH-CN. Từ tháng 3/2007 về trước, cà phê có nguồn gốc từ Việt Nam bị thải loại chiếm tới 88% tổng số cà phê bị thải loại của thế giới, tăng 19% so với 6 tháng trước đó. Không chỉ mất tiền tỷ, cà phê Việt Nam còn bị mang tiếng xấu về chất lượng, uy tín sụt giảm. Điều đó nói lên sự cấp thiết về việc áp dụng tiêu chuẩn mới cho cà phê Việt Nam. Theo Trung tâm Nghiên cứu và Kiểm nghiệm càphê (CAFECONTROL):’’ Chất lượng cà phê do người nông dân sản xuất sấy không đảm bảo, mùi hóa chất sản sinh trong quá trình chế biến. Thực trạng thu hoạch cà phê cũng là điều đáng lo ngại khi tình trạng “vơ tuốt” quả xanh, quả chín vẫn diễn ra phổ biến; thậm chí tỷ lệ quả xanh khi thu hái còn chiếm tới 50-70%.Nguyên nhân của thực trạng trên là do người nông dân thường thu hoạch sớm (trước Tết Nguyên đán), điều này đã làm dịch chuyển lịch thời vụ về gần mùa mưa, khiến hạt càphê bị đen, mốc, sản lượng giảm, mất đi hương vị đích thực’’. Đây là nguyên nhân, nhiều nhà nhập khẩu e ngại khi mua càphê Việt Nam, mặc dù vẫn công nhận hương vị thuộc loại hàng đầu thế giới. Đã đến lúc người nông dân phải thực sự thấy rõ việc nâng cao chất lượng sản phẩm là yêu cầu cấp bách, không thể phó mặc cho doanh nghiệp hoặc trông chờ vào sự ăn may như lâu nay. Tuy nhiên, để khuyến khích nông dân thay đổi phương thức sản xuất, từ bỏ cách làm ăn cũ, các doanh nghiệp xuất khẩu cần có những bước đi đồng hành trong việc đề ra chính sách thu mua hợp lý, không nên đánh đồng mọi sản phẩm bằng nhau về giá cả. Đồng thời mạnh dạn đặt ra những điều kiện ràng buộc về chất lượng sản phẩm đối với người bán, gắn việc xuất khẩu với đầu tư phát triển vùng nguyên liệu và chế biến ở cơ sở. Nếu để tình hình sản xuất càphê như hiện nay, người sản xuất rất khó thực hiện được yêu cầu kỹ thuật từ thu hái đến bảo quản. Cây càphê không chỉ là lợi thế của Tây Nguyên mà còn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, chính vì thế, bên cạnh những chính sách vĩ mô, chúng ta cần bắt đầu từ việc nhỏ nhất: Thay đổi nhận thức của nông dân, bởi chỉ có họ mới quyết định được chất lượng càphê xuất khẩu. Trong thời gian gần đây ,xuất khẩu cà phê của Việt nam lại gặp phải những khó khăn mới. Đó là hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê ở Đắk Lắk đang gặp khó khăn do lãi suất cho vay của ngân hàng tăng cao trong khi doanh số, lợi nhuận từ xuất khẩu đang giảm. Thực tế là nguồn vốn kinh doanh xuất khẩu cà phê của các doanh nghiệp lâu nay chủ yếu dựa vào vốn vay ngắn hạn của ngân hàng. Trong vài tháng qua, do biến động tài chính toàn cầu mà lãi suất cho vay ngắn hạn của các ngân hàng ở Đắk Lắk tăng cao, hiện lên đến 13% - 22%/năm, so với mức lãi suất trước đây khoảng 11,4% - 15%/năm. Muốn có vốn để thu mua cà phê xuất khẩu, doanh nghiệp không còn cách nào khác phải cố gắng đi vay. Theo nhận định của các nhà đầu tư thì chưa bao giờ hoạt động xuất khẩu cà phê lại gặp khó khăn như hiện nay, ông đánh giá, mặc dù các doanh nghiệp xuất khẩu đã có nhiều kinh nghiệm đối phó với việc biến động giá cà phê trên thị trường thế giới nhưng với lãi suất ngân hàng cao như hiện nay, doanh nghiệp gần như "bó tay". Theo quy định mới, doanh nghiệp xuất khẩu không được vay ngoại tệ mà chỉ được vay tiền đồng,mặt khác tiền đồng lại đang trở nên khan hiếm nên lãi suất vay đã trở thành sức ép lớn. Với việc trả lãi vay ngân hàng từ 1,3 - 1,5%/tháng, giá thành hàng xuất khẩu đã đội lên rất nhiều, trong khi giá xăng dầu, chi phí lưu thông cũng tăng cao. Theo tính toán, với giá cà phê hiện nay khoảng 33.000 đồng/kg thì mỗi kg doanh nghiệp phải mất gần 500 đồng tiền trả lãi vay vốn mua hàng, trong khi trước đây chỉ trả khoảng 200 đồng khi vay ngoại tệ (với lãi suất 0,5 - 0,6%/tháng). Thực trạng này khiến nhiều doanh nghiệp giảm xuất khẩu.Dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp kinh doanh cà phê nước ngoài với lợi thế lớn về vốn đã mở đại lý mua cà phê ở các tỉnh Tây Nguyên, thu hút mạnh lượng cà phê trong dân đưa ra giá mua cao, các doanh nghiệp "bản địa" không thể cạnh tranh về giá mua hàng đành giảm lượng xuất khẩu. Không chỉ có vậy nhiều người dân ký gửi cà phê còn bị ‘’ ăn chặn’’ .Bao nhiêu mồ hôi công sức đều bị một số doanh nghiệp vơ vét,lợi dụng giai đoạn khó khăn này làm lợi bất chính. Số lượng xuất khẩu cà phê trong năm nay được dự tiính giảm rõ rệt so với năm trước,có thể sẽ không đạt được con số ước tính từ những tháng đầu năm 2008 bởi khó khăn trong vay vốn.Trong thời điểm hiện tại, doanh nghiệp phải tìm cách xoay xở, tự cứu mình là chính, bằng mối quan hệ với các ngân hàng cho vay với lãi suất có lợi nhất, giảm các chi phí không cần thiết để hạ giá thành đầu vào, nếu không sẽ không thể bảo đảm hiệu quả kinh doanh, giữ được tiến độ xuất khẩu. Thấy được những khó khăn trước mắt,chúng ta chỉ còn cách đối diện với nó,tìm ra những giải pháp tạm thời bình ổn lại giá cà phê xuất khẩu,vượt qua khó khăn với những nỗ lực hết mình của nhà nước ,doanh nghiệp và những người nông dân giữ vững vị trí trong xuất khẩu cà phê trên thế giới. 2.3. Những kết luận đánh giá rút ra từ nghiên cứu thực trạng xuất khẩu cà phê. 2.3.1.Ưu điểm. Ưu điểm nổi bật của xuất khẩu cà phê ở nước ta đó là sự phát triển trên diên rộng của cà phê với khí hậu và thời tiết ở các đồn điền trồng cà phê tốt, thích hợp với sự tăng trưởng phát triển của loại cây này.Mặt khác các chủ trang trại thường xuyên tăng cường nhiều biện pháp chăm sóc hiệu quả nhằm kích thích quá trình tăng trưởng của cà phê.Theo số liệu nghiên cứu thì diện tích trồng cà phê tại Việt Nam năm nay cũng được mở rộng, đạt tới 515.000 hecta, tăng 4% so với năm ngoái . Một báo cáo đăng trên website của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ cho biết, hiện Việt Nam đang tiếp tục trồng và thử nghiệm nhiều hạt giống cà phê mới, thơm ngon hơn, năng xuất cao hơn và rất thích hợp với việc sản xuất, tinh chế cà phê tan.Cùng với chất lượng ngày càng được nâng cao thì với nguồn nhân lực sẵn có,chăm chỉ,chịu khó…nên giá cà phê của ta cũng tạo điều kiện lựa chọn cho các nhà nhập khẩu. Bên cạnh đó,cơ chế mở cửa và hội nhập kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO sẽ càng làm cho thị trường xuất – nhập khẩu cà phê của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn, gây được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài.Trước những điều kiện này, Bộ Nông nghiệp Mỹ đánh giá rất cao về thị trường cà phê xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới trong bối cảnh, giá cà phê thô ở thị trường Mỹ và nhiều nước châu Âu đang đội lên rất cao do nhu cầu tiêu thụ tăng nhưng sản lượng nhập khẩu chưa đáp ứng đủ. 2.3.2.Nhược điểm. Ngoài những ưu điểm nổi bật thì xuất khẩu cà phê cũng không tránh khỏi những nhược điểm, mà cho đến nay đó vẫn là những trăn trở của các nhà kinh doanh cà phê của Việt Nam. Thứ nhất cà phê vẫn chủ yếu là xuất thô. Cà phê vốn là một sản phẩm nông nghiệp gắn liền với cuộc sống của hàng triệu người dân Việt Nam.  Mỗi năm cả nước xuất khẩu trên dưới 900.000 tấn cà phê với kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, trong đó riêng tỉnh Đắk Lắk đã chiếm 50% tổng số lượng cà phê xuất khẩu của cả nước. Cà phê hiện nay là nguồn thu nhập chính trong đời sống của đa số hộ đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nói chung và Đắk Lắk nói riêng, là mặt hàng chiếm tới trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh Đắk Lắk mỗi năm.  Chúng ta đã xây dựng được những thương hiệu nổi tiếng như Trung Nguyên, Café Moment, cà phê Buôn Ma Thuột... Tuy nhiên, dù Việt Nam là một nước sản xuất, xuất khẩu cà phê đứng thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu cà phê Robusta số 1 thế giới nhưng có một thực tế đáng buồn là trên 90% lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam vẫn là cà phê nhân thô ... Thứ2 :Năng suất cao nhất thế giới nhưng chất lượng kém xa chuẩn quốc tế. Theo Công ty Giám định cà phê và Nông sản Xuất nhập khẩu CafeControl, việc đánh giá chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam hiện được mô tả đơn giản hơn hẳn tập quán quốc tế, và lại tồn tại đã 10 năm nay. Khi đó Việt Nam còn chủ yếu bán cà phê cho các nước châu Á lân cận, khách hàng mua dưới dạng nguyên liệu và tái xuất. Đơn giản nhất, khâu thử nếm của Việt Nam chỉ ''khi có yêu cầu'' trong khi quốc tế là bắt buộc, tạp chất theo quy định Việt Nam là 1% trong khi quốc tế là 0,2%. Chất lượng không được nâng cao trong khi hàng hoá qua các nhà nhập khẩu trung gian vẫn đi thẳng tới thị trường tiêu thụ. Đến lúc này, các điểm yếu của chất lượng cà phê Việt Nam mới bộc lộ, gây hậu quả lớn về kinh tế lẫn uy tín cho ngành cà phê Việt Nam. Bởi thế, người mua thường mua hàng Việt Nam với giá thấp hơn so với cà phê của Braxin, Indonesia...  Ngoài ra, người nông dân còn chưa có ý thức tạo sản phẩm tốt. Nguyên nhân chính là sản phẩm tốt hay xấu đều bán được cho các cơ sở chế biến mà giá cả không chênh lệch. Theo ông Nguyễn Văn Lạng, Chủ tịch UBND tỉnh Đăk Lăk, nông dân hiện nay thu hoạch cà phê có tới 60-70% là xanh. Việc thu hoạch xanh như vậy thậm chí đã làm đảo lộn chu kỳ sinh trưởng của cà phê (ra hoa sớm hơn 1 tháng). Mỗi năm, tỉnh Đăk Lăk lãng phí tới 60 tỷ đồng do bón phân thừa, tưới nước thừa, tuy làm tăng năng suất (năng suất cà phê cao nhất thế giới), nhưng lại làm giảm chất lượng cà phê. 

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc’’Thực trạng và giải pháp xuất khẩu cà phê của Việt nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.DOC
Tài liệu liên quan