Đề án Thuế giá trị gia tăng, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời gian tới

MỤC LỤC

 Lời mở đầu 1

Phần I - Hiện trạng về thuế GTGT trong nền kinh tế 2

1. Khái quát chung về thuế GTGT 2

1.1 Khái niệm 2

1.2. Phương pháp tính thuế 3

1.2.1. Phương pháp khấu trừ thuế 3

1.2.2. Phương pháp trực tiếp 4

1.2.3. Hoá đơn chứng từ 4

1.3. Ý nghĩa của thuế GTGT với hoạt động kinh tế và nền kinh tế nước ta 4

2. Thuế GTGT và những vướng mắc cần tháo gỡ 5

2.1. Những vấn đề chung 5

2.2. Thực trạng về thuế GTGT hiện nay 7

2.2.1. Hệ thống thuế suất thuế GTGT 7

2.2.2. Phương pháp tính thuế 8

2.2.3. Khấu trừ khống thuế GTGT 9

2.2.4. Hoàn thuế GTGT 10

Phần II - Bàn bạc, trao đổi và hướng hoàn thiện luật VAT 12

1. Nguyên nhân của những tồn tại 12

2. Hướng hoàn thiện cho thuế GTGT ở nước ta 12

2.1. Cơ sở khoa học cho việc hoàn thiên chính sách thuế 12

2.1.1. Nguyên tắc hiệu quả 13

2.1.2. Nguyên tắc công bằng 13

2.1.3. Nguyên tắc kế thừa 13

2.1.4. Nguyên tắc khả thi 14

2.1.5. Nguyên tắc đồng bộ 14

2.2. Một số ý kiến đề nghị hoàn thiện thuế GTGT 14

2.2.1. Quy định lại đối tượng chịu thuế và không chịu thuế 14

2.2.2. Sửa đổi lại thuế suất 15

2.2.3. Hoàn thiện thêm về phương pháp tính thuế 16

2.2.4. Điều chỉnh các luật thuế có liên quan 17

2.2.5. Phương pháp kế toán quản lý thuế GTGT 19

2.2.6. Tổ chức thực hiện thuế GTGT 23

Kết luận 25

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1738 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thuế giá trị gia tăng, những bất cập hiện nay và hướng hoàn thiện trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TGT trong thu ngân sách nhà nước so với thuế doanh thu trước đây có khuynh hướng giảm. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng mất cân đối ngân sách Nhà nước các cấp vốn đã khó khăn nay càng khó khăn hơn. Tình trạng trốn thuế ngày càng trở lên phổ biến, nghiêm trọng và ngày càng tinh vi. Việc thực hiện những quy định về hoá đơn chưa đồng bộ gây trở ngại cho các doanh nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Phạm vi lựa chọn người cung ứng bị hạn chế làm cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. Các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp cũng gặp khó khăn do bị hạn chế về phạm vi khách hàng. Việc lập lại hệ thống sổ sách kế toán, chứng từ, hoá đơn, hợp đồng kinh tế, một để dùng nội bộ,một để khai với cơ quan thuế ngày càng trở lên phổ biến. Kinh doanh không giấy phép hoặc ngoài nội dung giấy phép, không kê khai doanh số phát sinh. Sử dụng hoá đơn giả, khống về tình trạng doanh nghiệp khi mua hàng không có hoá đơn, đã mua hoá đơn ngoài, tự ghi số lượng, giá cả để tránh thuế đầu vào đồng thời hợp thức hoá hàng hoá đầu vào để được khấu trừ thuế GTGT kết hợp với việc kìm hãm thuế GTGT đầu ra thấp hơn để không nộp thuế, thậm chí còn được hoàn lại thuế. Lợi dụng sự quản lý lỏng lẻo của cán bộ thuế, các doanh nghiệp làm đơn xin tạm ngừng kinh doanh hoặc xin giải thể, dùng hoá đơn GTGT mua được bán cho các doanh nghiệp khác, thực chất vẫn hoạt động thông đồng với cán bộ thuế để nimh doanh trốn thuế. 2.2. Thực trạng về thuế GTGT hiện nay. Hệ thống thuế suất thuế GTGT. Thuế suất là linh hồn của thuế, là yếu tố quan trọng nhất của một chính sách thuế bởi nó biểu hiện một cách tập trung nhất của Nhà nước, phản ánh mối quan hệ giữa Nhà nước với các chủ thể khác trong xã hội. Hiện nay luật thuế GTGT quy định có bốn mức thuế suất 0%, 5%, 10% và 20%, đối với nền kinh tế nước ta hiện nay một hệ thống thuế suất như vậy là rất phức tạp. Một hệ thống thuế suất nhiều mức cho nhiều đối tượng khác nhau chỉ mang lại lợi nhỏ trước mắt, nhưng bản thân nó lại mang lại quá nhiều bất lợi: công việc tính thuế và quản lý thuế phức tạp, khi áp dụng các ứng dụng công nghiệp hiện đại, dù tinh vi đến đâu việc phân định các đối tượng chịu các mức thuế khác nhau cũng có ranh giới nhất định và chắc chắn ở vùng ranh giới này việc lẫn lộn là không thể tránh khỏi, đó là chưa tính đến tính tương đối của việc phân định các tiêu thức phân bố trong việc phân định thuế suất. Có những sản phẩm tính theo tiêu thức sản xuất thì thuộc nhóm này nhưng theo tiêu thức khác thì thuộc nhóm khác. Tính phức tạp của hệ thống thuế suất kéo theo biên chế ngành thuế, chi tiêu tiền của xã hội thêm vào để thu được một đồng tiền thuế vào ngân sách. Thứ đến, mục đích của việc đưa ra một hệ thống thuế suất nhiều mức khác nhau là nhằm thực hiện một chính sách kinh tế xã hội nào đó. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay mọi chính sách kinh tế xã hội đều có tính giới hạn tương đối so với yêu cầu ổn định của một luật thuế. Cuối cùng đối với thuế GTGT thì mức huy động vào ngân sách hay mức thực chịu thuế của người tiêu dùng là mức thuế tính trên giá trị sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng cuối cùng. Vì vậy một hệ thống thuế GTGT nhiều thuế suất không mang lại lợi ích căn bản nào ngoài việc làm rắc rối hơn cho công tác thi hành thuế. Phương pháp tính thuế. Theo quy định của luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay có hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp trực tiếp tính trên GTGT. Phương pháp khấu trừ được áp dụng cho các đối tượng thường có quy mô sản xuất, kinh doanh vừa và lớn, có doanh số lớn và có đủ điều kiện tổ chức hạch toán kế toán và lưu giữ hoá đơn chứng từ một cách đầy đủ. Còn phương pháp trực tiếp tính trên GTGT được quy định áp dụng cho những cá nhân kinh doanh, hộ gia đình và những tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện kế toán, hoá đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ và các cơ sở kinh doanh, mua bán vàng bạc, đá quý. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, khi nền kinh tế phát triển chưa cao, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô vừa, nhỏ chưa thực hiện tốt chế độ kế toán, chứng từ, hoá đơn thì việc áp dụng cả hai phương pháp tính thuế nêu trên là cần thiết. Song trên thực tế khi triển khai thực hiện luật thuế GTGT cho thấy sự tồn tại hai phương pháp tính thuế là bất cập, không hợp lý bởi lẽ: Việc tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT sẽ tạo ra sân chơi không công bằng, bình đẳng giữa các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Do việc xuất hiện hoá đơn giả, khống, hoá đơn thiếu độ tin cậy nên các đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT phần lớn khi xác định GTGT tính thuế đều dựa trên doanh thu ấn định và tỉ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định. Trên thực tế cán bộ thuế thường dựa vào mức khoản thuế doanh thu phải nộp trước đây để suy ngược lại doanh thu tính thuế ấn định sau đó nhân với tỉ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định do Tổng cục thuế quy định, Cục thuế cụ thể hoá. Điều này không khác gì thuế doanh thu trước đây, tạo kẽ hở cho sự xuất hiện cơ chế chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ trốn thuế giữa các đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp thông qua việc hợp thức hoá bằng các hoá đơn giả, hoặc không khớp số liệu giữa các liên. Khấu trừ khống thuế GTGT. Việc cho khấu trừ thuế GTGT theo một tỷ lệ nhất định trên giá mua vào đối với một số trường hợp không có hoá đơn GTGT đầu vào của các cơ sở nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thường gọi là chế độ khấu trừ khống. Ban đầu việc khấu trừ này chỉ cho phép đối với một số cơ sở sản xuất, chế biến, thu mua nông, lâm, thuỷ sản của người trực tiếp sản xuất bán ra. Cho đến nay việc khấu trừ theo tỷ lệ phần trăm (%) đã thực hiện cả đối với trường hợp mua hàng có hoá đơn. Điều này tạo ra sự không công bằng giữa các đơn vị, cá nhân. Việc khấu trừ khống tức là không có mà vẫn khấu trừ, khấu trừ trên cái không có thật. Trong quan hệ kinh tế không nên chấp nhận cái ảo, cái không có vì như vậy sẽ tạo ra sai số, phản ánh không đúng bản chất của vấn đề, làm sai lệch những nhận định, phân tích. Hơn nữa việc cho khấu trừ khống còn vô tình chặt đứt mối quan hệ liên hoàn với phụ thuộc khăng khít và kinh tế giữa các khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh và gây ra những hậu quả phát sinh không cần thiết. Hoàn thuế GTGT. Theo quy định của luật thuế GTGT những đối tượng được xét duyệt hoàn thuế GTGT trong các trường hợp: Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế được xét duyệt hoàn thuế GTGT theo quy định của luật này. Thứ nhất: Các cơ sở mới thành lập, đầu tư tài sản mới đã đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế nhưng chưa có phát sinh doanh thu bán hàng để tính thuế GTGT đầu ra, nếu thời gian đầu từ một năm trở lên được xét duyệt hoàn thuế đầu vào theo từng năm. Số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn hơn 200 triệu đồng trở lên thì được xét duyệt hoàn thuế toàn quý. Thứ hai: Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi tổ chức lại thành doanh nghiệp (sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản) có thuế GTGT nộp thừa, cơ sở có quyền đề nghị cơ quan thuế hoàn lại số thuế GTGT nộp thừa. Thứ ba: Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp lụât. Thứ tư: Các dự án sử dụng nguồn vốn ODA theo quy định của luật thuế GTGT. Thứ năm: Tổ chức ở Việt Nam sử dụng tiền viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại của tổ chức, cá nhân nước ngoài để mua hàng hoá tại Việt Nam thì được hoàn lại tiền thuế GTGT đã ghi trên hoá đơn GTGT khi mua hàng. Những quy định cho các đối tượng được hoàn thuế vẫn mang tính chung, chưa cụ thể, chi tiết cho từng đối tượng. Hoá đơn thuế GTGT, bảng kê là những căn cứ quan trọng quyết định đến việc hoàn thuế được làm rất đơn giản, để làm giá,các hoá đơn được khai khống rồi hợp thức hoá để rút tiền hoàn thuế của Nhà nước. Ngoài ra các cơ quan quản lý trong lĩnh vực này chưa có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc thẩm định hồ sơ xin hoàn thuế GTGT. Chính những điều này làm cho tình trạng vi phạm trong lĩnh vực hoàn thuế GTGT ngày càng gia tăng. Nếu như năm 1999 (năm đầu tiên thực hiện luật thuế GTGT) cả nước mới chỉ phát hiện có 3 vụ vi phạm với tổng số tiền chiếm đoạt lớn nhất là 7,2 tỷ đồng, năm 2000 phát hiện 17 vụ, thì năm 2001 đã phát hiện 64 vụ và 6 tháng đầu năm 2002 đã xẩy ra 22 vụ vi phạm trong đó có vụ chiếm đoạt từ 10 - 20 tỷ đồng, thậm chí có doanh nghiệp năm 2000 vi phạm thì nay lại tái phạm với số tiền lớn hơn. Các doanh nghiệp thường tạo dựng nguồn hàng khống bằng cách kê khai các điểm mua hàng không có thật, không rõ địa chỉ, lập hợp đồng mua bán nội địa khống với các phương thức thanh toán trực tiếp, không qua ngân hàng, hợp thức hoá việc mua bán bằng các hợp đồng chứng từ mua bán giả gồm những công đoạn qua nhiều doanh nghiệp. Tạo dựng nguồn tiền mua hàng xuất khẩu bằng cách lập ra các hợp đồng vay tiền khống. Làm giả hợp đồng vận chuyển, thanh toán cước vận chuyển hàng hoá trong nội địa và ra cửa khẩu, tạo dựng hợp đồng mua bán ngoại thương và thanh toán trực tiếp giá. Phần II. Bàn bạc,trao đổi và hướng hoàn thiện luật Thuế GTGT Nguyên nhân của những tồn tại. Cùng với xu thế mở cửa, giao lưu, hội nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới, việc ban hành và thực hiện luật thuế GTGT ở nước ta là hoàn toàn phù hợp và khách quan. Song so với các nước có bề dầy lịch sử về thuế GTGT như Pháp, Đức... thì thuế GTGT ở Việt Nam còn hết sức mới mẻ và đang trong giai đoạn vừa thực hiện vừa hoàn thiện. Sở dĩ còn nhiều tồn tại trong việc triển khai và thực hiện luật thuế GTGT là vì thuế GTGT là một loại thuế mới, xa lạ với dân chúng, phức tạp trong công tác quản lý thu nộp thuế. Khả năng tổ chức quản lý hướng dẫn sử dụng và tuyên truyền về thuế GTGT còn kém và chậm. Trình độ nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ cán bộ thuế còn nhiều hạn chế, công tác kiểm tra, kiểm soát còn thiếu đồng bộ, nghiêm túc. Chính sách thuế GTGT còn nhiều bất cập, hạn chế chưa được hoàn toàn phù hợp với nền kinh tế nước ta và chưa thực sự bắt kịp được với sự biến động và thay đổi. Hướng hoàn thiện cho thuế GTGT ở nước ta. Cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện chính sách thuế. Để có cơ sở khoa học cho việc đề xuất hoàn thiện chính sách thuế GTGT ở nước ta hiện nay thiết nghĩ cần phải dựa trên những tư tưởng cơ bản, làm nền tảng cho việc định hướng mục tiêu mà chính sách thuế cần đạt được, đó chính là những nguyên tắc cơ bản, cần thiết để xây dựng một chính sách thuế hữu hiệu. 2.1.1 Nguyên tắc hiệu quả. Nguyên tắc này đòi hỏi chính sách thuế GTGT phải thực hiện được những chức năng cơ bản nhất của nó đối với nền kinh tế - xã hội, không chỉ đảm bảo nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước, mà còn phải đảm bảo ổn định về mặt xã hội, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển, tăng trưởng kinh tế. Trong điều kiện ngân sách eo hẹp của nước ta, việc xây dựng chính sách thuế GTGT nhằm động viên nguồn thu ổn định cho ngân sách Nhà nước là cần thiết, song không vì thế mà không xét tới các yếu tố phát triển kinh tế, công bằng, hợp lý. Bởi lẽ, có công bằng, hợp lý mới thúc đẩy phát triển king tế đồng thời sự phát triển kinh tế là điều kiện đảm bảo ổn định và mở rộng nguồn thu cho ngân sách. Nguyên tắc công bằng, bình đẳng. Nguyên tắc này đòi hỏi chính sách thuế phải đảm bảo được sự công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế cũng như các đối tượng nộp thuế. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, chính sách thuế GTGT cần đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các đối tượng nộp thuế để tạo ra mặt bằng pháp lý, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp, kích thích tăng trưởng kinh tế. 2.1.3 Nguyên tắc kế thừa. Vì thuế GTGT là một loại thuế mới đối với nước ta, rất xa lạ đối với dân chúng, do vậy để xây dựng một chính sách thuế hữu hiệu đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, học hỏi, cân nhắc tiếp thu kinh nghiệm các nước, cũng như trong khu vực và trên thế giới trong việc áp dụng chính sách thuế GTGT để kế thừa những yếu tố hợp lý, vận dụng một cách có hiệu quả vào điều kiện thực tế nước ta, đồng thời từng bước hội nhập với các nước. Nguyên tắc khả thi. Nguyên tắc này đòi hỏi việc xây dựng chính sách thuế GTGT phải dựa trên luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn của nền kinh tế xã hội hiện hữu, các quy định của chính sách thuế phải phù hợp với trình độ quản lý của cán bộ thuế và phải căn cứ vào khả năng đóng góp của người chịu thuế. Trong điều kiện đất nước ta khi mức thu nhập dân cư còn thấp, trình độ quản lý thuế và ý thức về thuế của người dân chưa cao nên cần xác định mức động viên vừa phải, cơ cấu thuế suất đơn giản hợp lý. Nguyên tắc đồng bộ. Khi xây dựng một chính sách thuế cần xét tới yếu tố tổng thể của cả hệ thống thuế để tránh những sự lạc hậu mâu thuẫn giữa các chính sách thuế với nhau, từ đó đảm bảo tính thống nhất, bổ sung, hỗ trợ nhau nhằm phát huy tối đa tác dụng của chính sách thuế cũng như của cả hệ thống thuế. Trong điều kiện nước ta khi xây dựng chính sách thuế GTGT, cần chú ý xây dựng các chính sách thuế có liên quan khác như :thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên, thuế thu nhập doanh nghiệp. Một số ý kiến đề nghị hoàn thiện thuế GTGT. Dựa trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản xây dựng một chính sách thuế hữu hiệu nêu trên, kết hợp với kinh nghiệm các nước và kết quả triển khai thực hiện thuế GTGT trong thời gian qua, xin có một số kiến nghị đề xuất nhằm hoàn thiện chính thuế GTGT ở nước ta trong thời gian tới. 2.2.1 Quy định lại đối tượng chịu thuế và không chịu thuế. Hiện nay luật thuế GTGT quy định tất cả các hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam là đối tượng chịu thuế GTGT trừ 26 hàng hoá và nhóm hàng hoá dịch vụ quy định tại điều 4 của luật thuế. Khi một hàng hoá dịch vụ không thuộc diện chịu thuế thì đương nhiên cơ sở sản xuất kinh doanh sẽ không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào, trong trường hợp này thuế GTGT đầu vào sẽ làm tăng chi phí, mặt khác cơ sở nào sử dụng các hàng hoá, dịch vụ đó làm đầu vào cho sản xuất kinh doanh lại cũng không được khấu trừ hoặc theo tỷ lệ quy định hiện nay là cho khấu trừ một tỷ lệ từ 1 - 5% tuỳ từng trường hợp cụ thể. Làm như vậy vừa thiếu cơ sở khoa học, vừa lộn xộn, khó kiểm soát được việc thực hiện thuế, công tác ghi chép kế toán gặp rất nhiều khó khăn. Trong thời gian tới chúng ta nên bỏ điều 4 tức là nên đưa tất cả các hàng hoá dịch vụ vào chịu thuế GTGT. Khi đó việc khấu trừ thuế chỉ được thực hiện dựa trên một cơ sở đồng nhất là hoá đơn, chứng từ. Đối với một vài trường hợp đặc biệt cần miễn thuế nên có quy định riêng mà không nên đưa tất cả vào luật, mặt khác khi hàng hoá đã được miễn thuế GTGT thì không được khấu trừ thuế đầu vào và các cơ sở sử dụng những hàng hoá này làm nguyên liệu đầu vào cũng sẽ không được khấu trừ khống như hiện nay. 2.2.2. Sửa đổi lại thuế suất. Thuế GTGT hiện hành đang áp dụng 4 mức thuế suất 0%, 5%, 10% và 20%. Việc chuyển từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu sang 4 mức thuế suất của thuế GTGT trong giai đoạn đầu là hợp lý nhưng xét về mặt lâu dài thì chỉ nên sử dụng ở mức thuế suất 0% và 10%. Mức 0% áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, còn mức 10% áp dụng cho các hàng hoá dịch vụ khác. Vì như chúng ta đã biết thuế GTGT là loại thuế được thực hiện một cách liên tục qua các khâu sản xuất, lưu thông của hàng hoá, dịch vụ mà thuế phải nộp được tính bằng chênh lệch giữa thuế đầu ra và thuế đầu vào nên tổng số thuế GTGT phải nộp của một hàng hoá, dịch vụ nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào giá cả và thuế suất ở công đoạn sau cùng. Điều đó cho thấy nếu ở các khâu trước được tính với thuế suất thấp thì được khấu trừ ít, còn nếu thuế được tính với thuế suất cao thì sẽ được khấu trừ nhiều hoặc được hoàn thuế. Như vậy ở các khâu trung gian thuế suất cao hay thấp không ảnh hưởng đến tổng số thuế phải nộp cho các sản phẩm nên chỉ việc sử dụng một mức thuế suất (không kể mức 0%) như trên là hợp lý. Sử dụng hai mức thuế suất 0% và 10% một mặt đáp ứng được yêu cầu khuyến khích xuất khẩu và mặt khác để thực hiện mục tiêu không làm giảm số thu của ngân sách Nhà nước. Điều đó cũng làm cho công tác tính toán, thu nộp, quản lý thuế dễ dàng thuận tiện hơn. 2.2.3. Hoàn thiện thêm về phương pháp tính thuế. Để việc tính toán thuế không bị trùng, chồng chéo và tránh được thuế tính trên thuế thì phương pháp tính thuế là vấn đề mang tính quyết định. Để tính được thuế trên phần GTGT người ta có thể tính trực tiếp ở phần giá trị tăng thêm hoặc tính một cách gián tiếp tức là tính trùng sau đó loại phần trùng lặp đi. Về mặt cơ sở khoa học thì cả hai cách tính đều hợp lý và cả hai cách tiếp cận đều phải tính trên giá thực của hàng hoá (giá chưa có thuế). Trên thực tế có rất nhiều lý do nên người ta không sử dụng phương pháp trực tiếp mà nó chỉ tồn tại trên lý thuyết. Một trong những lý do chủ yếu là do phương pháp trực tiếp chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp không có đầy đủ hoá đơn, chứng từ và việc ghi chép sổ kế toán. Khi đó các doanh nghiệp nộp thuế chủ yếu theo hình thức khoán, mà việc này là nguyên nhân của tình trạng trốn thuế. Vì vậy về phương pháp tính thuế GTGT chỉ nên sử dụng một phương pháp là phương pháp khấu trừ, còn trong điều kiện không đủ điều kiện tính theo phương pháp khấu trừ thì tính theo phương pháp khoán. Chỉ áp dụng một phương pháp tính thuế sẽ làm cho việc tính thuế có cơ sở khoa học, hoàn toàn dựa trên cơ sở hoá đơn chứng từ không có khấu trừ khống. Việc tính thuế theo phương pháp khoán chỉ áp dụng doanh thu kinh doanh thấp và chưa quản lý sổ sách kế toán, hơn nữa đây là những cơ sở kinh doanh trực tiếp bán cho người tiêu dùng là chủ yếu. ơ Cần quy định thêm về thuế GTGT đối với hộ kinh doanh như nộp thuế theo phương pháp khoán. Với phương pháp tính thuế đã nêu ở trên, trong điều kiện nước ta theo tính toán sơ bộ có khoảng 1,2 triệu hộ kinh doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành dịch vụ. Sự tồn tại của các hộ kinh doanh nhỏ là một tất yếu khách quan bởi vì còn rất nhiều “khoảng trống” mà các doanh nghiệp lớn không thể “lấp kín” được. Vì vậy, để nó tồn tại và phát huy tác dụng chúng ta phải có một cơ chế phù hợp. Quy định mức doanh thu bán hàng giới hạn cho các hộ kinh doanh nhỏ. Trong điều kiện nước ta mức này là 1,5 tỉ đồng một năm. Nếu hộ kinh doanh có mức nhỏ hơn mức doanh thu quy định thì được coi là hộ kinh doanh nhỏ. Hộ kinh doanh nhỏ sẽ thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khoán. Thực hiện quản lý tốt các hộ kinh doanh nhỏ để thống nhất thu thuế trong thời gian trước mắt việc hoàn thiện thuế GTGT đối với hộ kinh doanh nhỏ như trên là phù hợp không làm xáo trộn việc quản lý và thu thuế, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh hộ cá thể phát triển. Về lâu dài cần xây dựng luật thuế riêng cho hộ kinh doanh nhỏ có thể bao gồm cả thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệp. Tách hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi sự điều tiết của hai luật thuế trên và những hộ sản xuất kinh doanh loại này phải chịu một mức thuế tối thiểu do Nhà nước quy định. Điều chỉnh các luật thuế có liên quan. Thuế GTGT chỉ có thể áp dụng khi nó được đặt trong mối quan hệ biện chứng với các luật thuế khác. Điều đó cho thấy việc điều chỉnh các luật thuế liên quan là một trong các điều kiện không thể thiếu khi áp dụng thuế GTGT. Trong khuôn khổ của giải pháp này xin được đề xuất hoàn thiện một số luụât thuế cơ bản như thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB), thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Về thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế TTĐB là thuế gián thu, người chịu thuế là người mua hàng hoá, dịch vụ (người tiêu dùng). Đối tượng của loại thuế này là những loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước không khuyến khích sản xuất và tiêu dùng như thuốc lá, rượu bia. Khi nước ta tham gia vào khối thương mại tự do (afta)và thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (cept), để đảm bảo cho nền kinh tế trong nước phát triển, việc chuyển hàng hoá nhập khẩu sang đối tượng chịu thuế GTGT và thuế TTĐB là hợp lý. Cũng như phần trên đã đề xuất sẽ đưa tất cả hàng hoá sang chịu thuế GTGT có nghĩa là hàng hoá đã chịu thuế TTĐB cũng phải chịu thuế GTGT. Vấn đề đặt ra là cần phải xác định được thuế suất thuế TTĐB như thế nào cho phù hợp. Hiện nay đối tượng chịu thuế TTĐB gồm 8 hàng hoá và 4 dịch vụ với mức thuế suất thấp nhất là 5% cao nhất là 10%. Theo dự tính chương trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá cao nhất chỉ còn 5% được hoàn thành vào năm 2006. Vì vậy chúng ta nên mở rộng đối tượng chịu thuế TTĐB thêm một số mặt hàng nữa như một số hàng mỹ phẩm, hàng hoá tiêu dùng như giầy dép, quần áo nhập ngoại, hàng điện tử... khi dịch chuyển những hàng hoá, dịch vụ đã chịu thuế TTĐB sang chịu thuế GTGT, thuế sẽ bị tính trùng, vì thế để đảm bảo tính công bằng, giá cả hàng hoá không bị biến động lớn, chúng ta phải thực hiện việc giảm bớt thuế suất thuế TTĐB, để sau đó tính thêm thuế GTGT. đối với thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Công cuộc cải cách thuế xuất phát từ đòi hỏi bức xúc của thực tiễn với hai lý do chủ yếu: Thứ nhất: thuế doanh thu có nhiều nhược điểm dẫn đến kìm hãm sự phát triển sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ. Thứ hai: xu hướng hội nhập kinh tế thế giới mà trước mắt là việc gia nhập vào khối mậu dịch tự do (AFTA) và thực hiện hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) để thúc đẩy việc giao lưu hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thành viên trong khối. Thực tiễn trên buộc ta phải thay đổi lại thuế nhập khẩu chỉ còn tối đa 5% sẽ kết thúc vào năm 2006. Trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, trình độ kĩ thuật công nghệ còn thấp làm cho giá thành sản phẩm cùng loại sản xuất trong nước bao giờ cũng cao hơn so với hàng hoá nhập ngoại, nên hàng hoá trong nước không thể cạnh tranh được với hàng hoá của nước ngoài, nếu chỉ thực hiện giảm thuế nhập khẩu mà giữ nguyên các chính sách thuế khác. Vì thế khi thuế xuất thuế nhập khẩu bị hạ thấp sẽ là một trong những khó khăn rất lớn cho sản xuất trong nước. Đó là một trong những lý do bắt buộc phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế GTGT và thêm vào đó là phải đưa hàng hoá nhập khẩu sang đối tượng chịu thuế GTGT để bảo vệ sản xuất trong nước. Khi thực hiện thu thuế TTĐB và thuế GTGT trên hàng nhập khẩu thực ra là đánh thuế chồng lên thuế. Khi đó việc tính toán thuế có thể phức tạp hơn, tổng thuế phải nộp của cơ sở kinh doanh và thuế phải chịu của người tiêu dùng có thể thay đổi. Để hạn chế và khắc phục những vướng mắc trên cần chọn thuế GTGT là thuế chủ đạo và thay đổi các luật thuế khác như luật thuế TTĐB và thuế xuất khẩu, nhập khẩu làm cho hệ thống thuế phát huy hết tác dụng. Phương pháp kế toán quản lý thuế GTGT. Trong công tác quản lý và thu thuế, thông tin số liệu kế toán là căn cứ để tính thuế bởi vậy bài viết này xin đưa ra một số ý kiến nhằm hoàn thiện phương pháp kế toán xét từ khía cạnh quản lý thuế GTGT. Kế toán thực hiện việc ghi chép, xử lý, tổ hợp và cung cấp thông tin về thuế GTGT bằng các phương pháp kế toán như: phưong pháp chứng từ, phương pháp tính giá,phương pháp tài khoản và phương pháp tổ hợp cân đối số liệu. Thứ nhất: hệ thống hoá đơn chứng từ chẳng có liên quan đến kế toán, thuế GTGT hiện nay đã đảm bảo tương đối khoa học, hợp lý. Song trên thực tế việc quản lý chứng từ hoá đơn vẫn còn nhiều khó khăn tồn tại nhiều sai phạm, gian lận khó phát hiện do sự thiếu thống nhất về chính sách chế độ mà tạo ra kẽ hở hoặc có sự thông đồng giữa các đối tượng có liên quan. Để quản lý và kiểm soát được các chứng từ hoá đơn GTGT đòi hỏi phải có sự phối kết hợp của nhiều cơ quan, đơn vị, kế toán phải có trách nhiệm kê khai, trình bầy thông tin liên quan đến chứng từ hoá đơn một cách rõ ràng minh bạch,và để kiểm tra kiểm soát. Cần kiên quyết chống việc sử dụng hoá đơn giả. Để phát hiện hoá đơn giả ngoài việc dùng kỹ thuật đèn chiếu đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý hoá đơn do Bộ tài chính phát hành mã và mã số đăng ký thuế của các đơn vị kinh doanh. Khi bán hoá đơn cho mã số nào, sẽ đưa kí hiệu hoá đơn đó lưu vào máy tính. Mặt khác các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, kế toán, tạo thành thói quen bán hàng xuất hoá đơn, mua hàng đòi hoá đơn theo quy định của Bộ tài chính. Thuế suất thuế GTGT Giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ Số thuế GTGT Phải nộp Thứ hai: vận dụng phương pháp tính giá, đòi hỏi kế toán phải xác định được giá tính thuế GTGT. ở đây cần xem xét thêm việc tính giá thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp bởi lẽ theo trường hợp này: x = GTGT của hàng hoá, dịch vụ Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ mua vào tương ứng _ Giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ bán ra = Như vậy cơ sở tính thuế GTGT là phần GTGT được tính trên cơ sở giá thanh toán và hàng hoá dịch vụ bán ra và mua vào là giá bao gồm cả thuế GTGT, và vô hình chung đã đánh thuế chồng lên thuế, điều này trái ngược với ưu điểm vốn có của thuế GTGT. Để khắc phục tình trạng này, cuối mỗi kỳ cần thiết phải tính ra giá trị hàng hoá bán ra, mua vào để tính GTGT từ giá cả thanh toán hàng hoá,dịch vụ bán ra và mua vào theo công thức: Giá thị trường của hàng hoá, dịch vụ bán ra (mua vào) Trị gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35347.doc
Tài liệu liên quan