MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu. 1
Chương I: Lý luận chung về tổ chức thương mại thế giới 3
I. Một số vấn đề cơ bản về WTO. 3
1. Quá trình hình thành và phát triển của WTO. 3
2. Mục tiêu và chức năng chủ yếu của WTO. 5
3. Các nguyên tắc cơ bản của WTO. 7
4. Tổ chức và hoạt động của WTO. 11
5. Các điều kiện gia nhập WTO. 12
6. Triển vọng của WTO. 15
II. Kinh nghiệm của Trung Quốc gia nhập WTO. 15
1. Về thể chế. 15
2. Về điều chỉnh cơ cấu ngành nghề. 16
Chương II: Thực trạng tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam 18
I. Sự cần thiết gia nhập WTO của Việt Nam. 18
1. Quá trình quốc tế hoá phát triển. 18
2. Thành công của Việt Nam trong cải cách kinh tế. 18
3. Những lợi ích khi gia nhập WTO của Việt Nam. 20
4. Những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO. 22
II. Những vấn đề cơ bản trong quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam. 23
1. Các quy tắc thương mại và việc áp dụng chúng. 23
2. Cơ chế ngoại thương của Việt Nam. 24
3. Thâm nhập thị trường và các hàng rào thương mại. 25
4. Tự do hoá thương mại dịch vụ. 25
5. Bảo về các quyền sở hữu trí tuệ. 26
III. Một vài kết quả bước đầu. 27
1. Tiến trình đàm phán. 27
2. Những kết quả đạt được. 27
IV. Những tồn tại cần khắc phục. 28
Chương III: Một số đề xuất giải pháp để thúc đẩy tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam 30
1. Tiếp tục quá trình đổi mới nền kinh tế theo cơ chế thị trường. 30
2. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch và vững mạnh. 31
3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và đảm bảo thực thi trong cuộc sống. 31
4. Đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính - tiền tệ. 33
5. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cao. 34
6. Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại và thúc đẩy quan hệ với các thành viên WTO. 35
Kết luận. 36
Tài liệu tham khảo 38
Phụ lục 1. 40
Phụ lục 2. 42
50 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3073 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nhà. Dường như WTO đã rơi vào tay những tập đoàn tư bản lớn, những quốc gia tư bản lớn. Chính vì vậy mà tương lai của WTO phụ thuộc rất nhiều ở các nước đang phát triển, những nước đang bị xem là thua thiệt trong quá trình toàn cầu hoá. Thất bại của Hội nghị Siatơn đã cho thấy rằng WTO đang cần một sự cải tổ lớn. Tuy nhiên muốn làm được điều đó thì các nước thế giới thứ ba phải đoàn kết với nhau, đoàn kết với các lực lượng không ngừng lớn mạnh của các tổ chức nhân dân, của những người có lương tri và có hiểu biết thì chắc chắn các tập đoàn tư bản không dễ dàng thao túng bộ máy thương mại thế giới. Và như vậy WTO sẽ không ngừng thay đổi và phát triển, đưa thế giới ngày càng phát triển và thịnh vượng.
II. KINH NGHIỆM CỦA TRUNG QUỐC GIA NHẬP WTO.
1. Về thể chế.
Trung Quốc là nước có nền kinh tế chuyển đổi từ mô hình công hữu xã hội chủ nghĩa, thời gian thực hiện cơ chế kinh tế thị trường còn rất ngắn, thiếu kinh nghiệm, cơ cấu tổ chức chưa hoàn thiện. Để thích ứng với nguyên tắc vận hành của WTO, trước hết cần có sự thay đổi về nhận thức và quan niệm, cần nghiên cứu, tìm hiểu những mặt có lợi và bất lợi khi gia nhập WTO nhằm đi đến nhận thức chung, tạo thuận lợi cho các bước cải cách từ nay về sau. Trung Quốc đã rất thành công trong các việc này. Tiếp đến, Trung Quốc đã không ngừng hoàn thiện cơ chế thị trường, hệ thống luật và văn bản đồng bộ tương ứng. Đồng thời tiến hành điều chỉnh, nâng cấp và đổi mới cơ cấu ngành nghề. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi, đi sâu nghiên cứu về WTO.
2. Về điều chỉnh cơ cấu ngành nghề.
Đối với nông nghiệp: Trung Quốc là một nước có nền nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân. Để gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiến hành rất nhiều các điều chỉnh cần thiết và có thể nói phải trả khá đắt cho cái giá của nông nghiệp. Trung Quốc vừa phải đầu tư vốn để cơ giới hoá nông nghiệp, cấp vốn tín dụng ưu đãi để phát triển trang trại, cam kết đảm bảo đầu ra cho nông sản và áp dụng các biện pháp bảo hộ hết sức linh hoạt và hiệu quả để có được sự đồng ý của các thành viên WTO.
Đối với công nghiệp: Do cần xoá bỏ dần hạn ngạch nên việc gia nhập WTO sẽ đưa lại cho Trung Quốc nhiều cơ hội xuất khẩu các sản phẩm dệt, hàng công nghiệp cơ điện, nhưng lại gây những tác động lớn đối với ngành xe hơi của Trung Quốc. Trong quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đổi mới, nâng cao chất lượng sản phẩm tất sẽ có hàng loạt xí nghiệp phải đóng cửa. Tuy nhiên gia nhập WTO sẽ tạo điều kiện cho Trung Quốc du nhập kỹ thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đối với ngành dịch vụ: Các lĩnh vực bưu chính, ngân hàng, bảo hiểm và tài chính tiền tệ của Trung Quốc cơ bản nằm dưới sự khống chế độc quyền của nhà nước. Nhưng sau khi gia nhập WTO, những ngành này tất phải mở cửa, chính phủ sẽ từng bước giảm can thiệp hành chính, lãi suất và hối suất từng bước được thị trường hoá, vì thế mà thị trường tài chính tiền tệ sẽ chịu nhiều rủi ro hơn. Ngân hàng nước ngoài có chất lượng cao hơn sẽ thu hút hết khách hàng của ngân hàng trong nước. Vì vậy Trung Quốc đã không ngừng cải cách hệ thống ngân hàng của mình, bồi dưỡng thêm cho cán bộ ngân hàng trong nước, hiện đại hoá hệ thống ngân hàng...
Trên đây là vài kinh nghiệm trong quá trình chuyển đổi về thể chế và cơ cấu kinh tế của Trung Quốc nhằm mục đích nhanh chóng gia nhập WTO. Đây là bài học quý giá cho những nước có cơ cấu và thể chế kinh tế tương đồng với Trung Quốc đang trong quá trình gia nhập WTO.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
I. SỰ CẦN THIẾT GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM.
1. Quá trình quốc tế hoá phát triển.
Toàn cầu hoá đang trở thành xu thế tất yếu của thời đại. Trước xu thế như vũ bão của toàn cầu hoá, một quốc gia muốn phát triển được phải tham gia vào quá trình đó. Bởi vì toàn cầu hoá mang lại nhiều lợi ích to lớn cho các quốc gia. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế, hợp tác các lĩnh vực khác giữa các quốc gia. Đại diện tiêu biểu nhất và đầy đủ nhất cho xu thế toàn cầu hoá hiện nay chính là Tổ chức thương mại thế giới. Việt Nam cũng là một quốc gia đang đứng trước thử thách toàn cầu hoá và một điều tất yếu là Việt Nam sẽ tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới để tận dụng những thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước. Thực tế đã chứng minh rằng kể từ khi hoà nhập vào quá trình toàn cầu hoá, Việt Nam đã có nhiều thành công to lớn về kinh tế xã hội.
2. Thành công của Việt Nam trong cải cách kinh tế.
Quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong 10 năm gần đây chỉ ra rằng, sự thành công kinh tế của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều ở mức độ tham gia của đất nước vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính phủ Việt Nam cũng nhận thấy sự cần thiết và lợi ích khi tham gia vào hệ thống thương mại thế giới mà WTO là tổ chức lớn nhất hiện nay. Đặc biệt sau khi đã nghiên cứu các kết quả của vòng đàm phán Uruguay tháng 1/1995, Chỉnh phủ Việt Nam đã quyết định nộp đơn gia nhập WTO. Quyết định này sẽ giúp đất nước đổi mới kinh tế có hiệu quả hơn, đồng thời góp phần mở rộng hơn nữa các quan hệ kinh tế với các nước khác.
Sự ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua chính là cơ sở cho việc tham gia của Việt Nam vào hệ thống thương mại thế giới. Việt Nam đang được xem là một nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh, mức tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1991 - 2000 là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người tăng 1,8 lần. Cũng trong thời kỳ này xuất khẩu của Việt Nam tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm trong 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá xuất nhập khẩu năm 2000 đã tương đương tổng GDP. Với đường lối phát triển kinh tế hướng ngoại đúng đắn, Việt Nam đã tranh thủ được sự ủng hộ và hợp tác của nhiều nước trên thế giới. Tính đến quý I năm 1999 tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký là 35,8 tỷ USD nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD.
Thành công kinh tế của Việt Nam gần đây là kết quả của quá trình chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Quá trình này đã kéo theo một loạt những cải cách, làm thay đổi nền kinh tế Việt Nam. Lĩnh vực nông nghiệp đã được giải phóng, giá cả được tự do, trợ cấp từ ngân sách đã bị cắt giảm nhiều. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX tháng 4 năm 2001 đã đưa ra các quyết định tiếp tục đổi mới nền kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Một sự kiện có ý nghĩa lớn trong việc tham gia WTO của Việt Nam là ngày 28 - 7 - 1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) và đã ký hiệp định để gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Theo Hiệp định này, Việt Nam sẽ cắt giảm thuế quan đối với các nước thành viên ASEAN xuống còn 0 - 5% trong vòng 10 năm, bắt đầu từ này 1 - 1 - 1996. Việc gia nhập ASEAN của Việt Nam đã củng cố thêm vị trí của Việt Nam trong việc tham gia WTO.
Hơn nữa vừa qua Việt Nam đã ký được Hiệp định thương mại với Mỹ là một bước đệm quan trọng nhất cho quá trình đàm phán gia nhập WTO sau này. Bởi vì mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong quá khứ là rất căng thẳng. Trong khi đó Mỹ lại là lãnh đạo WTO cho nên việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ đặc biệt là ký được một hiệp định thương mại song phương với Mỹ là một cơ hội lịch sử cho Việt Nam trong quá trình tham gia WTO và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cuối cùng, việc gia nhập WTO sẽ giúp Việt Nam phát triển thương mại một cách toàn diện hơn. So với trước đây những vấn đề thương mại quan trọng của GATT đã được tự do hoá rất nhiều bởi các hiệp định của WTO (chẳng hạn như ngành dệt và nông nghiệp), mà đối với những vấn đề đó Việt Nam có nhiều tiềm năng và có các thị trường xuất khẩu lớn.
3. Những lợi ích khi gia nhập WTO của Việt Nam.
Một khi trở thành thành viên WTO, các Hiệp định của vòng Uruguay có thể đem lại cho Việt Nam các lợi ích sau:
- Hiện tại thương mại giữa các nước thành viên WTO chiếm 90% khối lượng thương mại thế giới, việc Việt Nam trở thành thành viên WTO sẽ đẩy mạnh thương mại và các quan hệ của Việt Nam với các thành viên khác trong WTO và đảm bảo nâng dần vai trò quan trọng của Việt Nam trong hệ thống kinh tế và chính trị toàn cầu.
- Việc bãi bỏ Hiệp định đa sợi (MFA) sẽ tạo điều kiện cho việc xuất khẩu hàng dệt và sản phẩm may mặc của Việt Nam. Những nhà xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ được đảm bảo trong vòng 10 năm sau khi trở thành thành viên của WTO, các nước nhập khẩu sẽ không có các hạn chế MFA đối với hàng dệt may và hàng may mặc của Việt Nam.
- Là một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều thị trường xuất khẩu hơn vì các hạn chế về số lượng sẽ chuyển thành thuế.
- Việt Nam sẽ có lợi do việc cắt giảm thuế đối với các sản phẩm cần nhiều nhân công, mà về mặt này Việt Nam lại có lợi thế hơn.
- Việt Nam sẽ có lợi từ việc cải thiện hệ thống giải quyết tranh chấp khi có quan hệ với các cường quốc thương mại chính. Việc tham gia WTO sẽ cho phép Việt Nam cải thiện vị trí của mình trong các cuộc đàm phán thương mại, có điều kiện tiếp cận tới các nguyên tắc công bằng và hiệu quả hơn cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Những nguyên tắc của WTO đối với các nước đang phát triển có thu nhập thấp, trong đó có Việt Nam cũng sẽ có lợi vì nhận được một số ưu đãi đặc biệt. Ví dụ, đối với các nước đang phát triển, nghèo như Việt Nam (thu nhập dưới 1.000 USD/người/năm) được miễn trừ khỏi sự ngăn cấm trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên nếu là hàng hoá cạnh tranh sự miễn trừ này sẽ bị loại bỏ trong thời gian 8 năm.
- Việt Nam sẽ có lợi không trực tiếp từ yêu cầu của WTO về việc cải cách hệ thống ngoại thương, bảo đảm tính thống nhất của các chính sách thương mại và các bộ luật của Việt Nam cho phù hợp với hệ thống thương mại quốc tế. Các quy định của WTO sẽ loại bỏ dần dần những bất hợp lý trong thương mại, thúc đẩy cải thiện hệ thống kinh tế, và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ hệ thống kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
- Cuối cùng, so với các nước đang phát triển khác, Việt Nam sẽ có lợi hơn từ các Hiệp định của vòng Uruguay, vì theo quy định của WTO hàng xuất khẩu dưới dạng sơ chế của các nước đang phát triển sang các nước phát triển thường không phải chịu thuế hoặc thuế thấp. Việt Nam là một nước xuất khẩu nhiều hàng sơ chế sẽ rất có lợi từ quy định này.
Như vậy, xét một cách tổng thể thì Việt Nam vẫn phải nhất định gia nhập WTO. Bởi vì vấn đề không phải là e sợ những thách thức mà không gia nhập mà cốt lõi là phải biết tìm cách vượt qua những thách thức đó. Trước xu thế thời đại là quá trình toàn cầu hoá thì một quốc gia muốn phát triển cần phải hoà mình vào xu thế đó. Việt Nam gia nhập WTO cũng không nằm ngoài mục đích đó. Việt Nam vẫn còn đang là một nước nghèo nên vấn đền phát triển kinh tế là vấn đề sống còn, vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Chính vì vậy, việc tham gia WTO cần phải là một điều tất yếu phải được thực hiện. Việt Nam cần phải tận dụng tối đa những cơ hội, những lợi ích do việc gia nhập WTO đem lại để phát triển đất nước.
4. Những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO.
Trước hết, để thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử và áp dụng quy chế tối huệ quốc đối với nhau, Việt Nam phải cam kết cắt giảm thuế quan và phi thuế quan đối với các sản phẩm công nghiệp, thực hiện đối xử bình đẳng đối với các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Điều này đòi hỏi phải loại bỏ những ưu đãi cho doanh nghiệp Nhà nước về quyền kinh doanh trong một số lĩnh vực, đất đai, tín dụng về xuất nhập khẩu và đối xử bình đẳng đối với các loại hình doanh nghiệp. Đây chính là một khó khăn cho ngành công nghiệp non trẻ của Việt Nam trước sự đối đầu với các doanh nghiệp của các nước phát triển và các nước có lợi thế so sánh cao hơn. Việc đóng cửa các doanh nghiệp không có năng lực cạnh tranh và một số ngành vốn được bảo hộ trước đây sẽ dẫn đến sự phá sản của nhiều doanh nghiệp, gây ra những biến động trên thị trường tài chính, thất nghiệp gia tăng... Những hệ quả về xã hội và tâm lý có thể dẫn tới những hiệu quả về chính trị không thể xem nhẹ.
Thứ hai là tác động của việc tự do hoá thương mại. Việc tự do hoá thương mại và cắt giảm thuế quan không chỉ tác động đến công cụ truyền thống nhằm bảo hộ thị trường trong nước của Việt Nam mà còn giảm thu ngân sách quốc gia. Nếu không chủ động phân tích tình hình và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước theo hướng giảm tỷ trọng những ngành đáp ứng nhu cầu thị trường nội phẩm thì chúng ta sẽ mất dần thị trường nội địa và giảm sút kim ngạch xuất khẩu dẫn tới hậu quả thâm hụt cán cân thương mại, thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế và mất ổn định trên tầm vĩ mô.
Thứ ba là nguyên tắc công khai minh bạch đòi hỏi phải thực hiện mọi biện pháp bảo hộ thông qua thuế quan, từ bỏ rào cản phi thuế quan và các hạn chế định lượng, công bố công khai và đơn giản thủ tục nhập khẩu, hải quan, vệ sinh kiểm dịch, các chuẩn mực phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Đặc biệt trong lĩnh vực chuyên môn có hàm lượng trí tuệ cao như: bưu chính viễn thông, vận tải, du lịch, bảo hiểm, ngân hàng, kiểm toán, tư vấn, quản lý và pháp luật... thì việc tham gia WTO sẽ là một thách thức đối với Việt Nam. Bởi vì năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong những ngành này còn thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới. Nâng cao khả năng cạnh tranh trong những ngành này đòi hỏi chúng ta không chỉ giải quyết vấn đề công nghệ mà trước hết là đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ trong nước. Điều này không dễ một sớm một chiều có thể đáp ứng được.
Cuối cùng là sự hạn chế lựa chọn chính sách. Bởi vì khi gia nhập WTO các quốc gia thành viên sẽ phải làm theo những nguyên tắc của WTO và các cam kết cố định trong Nghị định thư gia nhập. Các quốc gia không thể chủ động tuỳ tiện trong hoạch định và điều hành chính sách mà phải xét đến nhiều nhân tố hơn theo quy định về nghĩa vụ của mỗi thành viên WTO.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM.
1. Các quy tắc thương mại và việc áp dụng chúng.
Việt Nam sẽ phải tuân thủ toàn bộ các quy định thương mại của WTO và sẽ phải chuẩn bị để giải quyết các vấn đề như không phân biệt đối xử, thuế cao, cấm nhập khẩu và hạn ngạch, sự không rõ ràng của cơ chế thương mại, thương mại nhà nước, các hạn chế dịch vụ, các yêu cầu về đầu tư và sự vi phạm các quyền sở hữu trí tuệ. Thậm chí trước khi trở thành thành viên của WTO, các nước xin gia nhập WTO cần phải đáp ứng hàng loạt các yêu cầu này trong luật và các quy định để đảm bảo rằng, Việt Nam hoàn toàn áp dụng các hiệp định của WTO.
Tuy quá trình đổi mới của Việt Nam mới diễn ra được một thời gian ngắn nhưng Việt Nam đã đạt được bước tiến đáng kể trong việc tiến tới sự tự do hoá thương mại và hội nhập quốc tế. Trong một thời gian ngắn, Chính phủ Việt Nam đã tạo ra một nền tảng nhằm thiết lập một hệ thống ngoại thương mới đó là việc tăng số lượng các công ty thương mại trên toàn đất nước, cải cách hệ thống ngân hàng phù hợp với cơ chế ngoại thương, thiết lập một cơ chế đầu tư nước ngoài tự do, và một cơ cấu thuế nhập khẩu. Việt Nam cũng đã thành công trong việc tự do hoá cơ chế ngoại hối - một khâu khó khăn nhất của cải cách thương mại.
Tuy nhiên, để trở thành thành viên của WTO, Việt Nam vẫn cần có những cải cách tiếp theo nhằm áp dụng hoàn toàn các quy tắc của WTO và để giữ vững được quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước sang kinh tế thị trường.
2. Cơ chế ngoại thương của Việt Nam.
Một trong các yêu cầu quan trọng đối với tư cách hội viên WTO là sự rõ ràng của các cơ chế ngoại thương. Để đạt được mục tiêu này, WTO yêu cầu các thành viên cung cấp các loại thông tin cần thiết về thực tiễn và chính sách thương mại của mình như định chế hải quan, các thủ tục hành chính hải quan, các tiêu chuẩn nhãn hiệu và xuất xứ. Từng thành viên của WTO được yêu cầu thông báo kịp thời cho WTO về bất kỳ sự thay đổi nào của luật và chính sách thương mại của mình. Nhằm tăng tính rõ ràng của các cơ chế ngoại thương của các thành viên, WTO thiết lập thường xuyên một cơ chế đánh giá chính sách thương mại và để làm được việc đó đòi hỏi từng thành viên của WTO phải đệ trình các báo cáo thường kỳ về các chính sách và thực tiễn thương mại để WTO xem xét.
Yêu cầu về sự rõ ràng của cơ chế ngoại thương là một điều cần phải bàn liên quan đến sự gia nhập WTO của Việt Nam. Điều này Việt Nam mới đáp ứng được một phần, bởi vì những vấn đề được đưa ra gần đây về các cải cách kinh tế và mở cửa thị trường, Việt Nam vẫn thiếu một loạt các luật và quy định điều chỉnh đầu tư và ngoại thương. Điều này yêu cầu Việt Nam cần phải có sự rõ ràng về cơ chế ngoại thương. ở Việt Nam, các vấn đề thậm chí còn có khó khăn ngay cả ở trong các lĩnh vực đã có các luật và quy định cũng thường không được tuân thủ hoặc không tuân theo vì còn có sự can thiệp hành chính, nạn hối lộ. Do đó cần có sự cố gắng nhằm tuân thủ các yêu cầu thông tin về thực tiễn và chính sách thương mại của Việt Nam.
3. Thâm nhập thị trường và các hàng rào thương mại.
Các cam kết thị trường sẽ yêu cầu Việt Nam hạn chế đánh vào hàng nhập khẩu từ các nước thành viên WTO khác. Các nhân nhượng thuế này sẽ căn cứ vào mức thuế cao nhất có thể đánh vào các mặt hàng cụ thể. Sau thuế, các nhân nhượng được thương lượng bởi Nhóm làm việc, được WTO thông qua, và được đưa vào Nghị định thư gia nhập của Việt Nam và Việt Nam sẽ có nghĩa vụ thực hiện chúng.
Việt Nam cũng sẽ được yêu cầu thực hiện vấn đề hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng, các yêu cầu giấy phép nhập khẩu, cấm và hạn ngạch nhập khẩu, và xây dựng các yêu cầu về chứng chỉ và tiêu chuẩn kỹ thuật. Việt Nam cũng sẽ phải cải thiện sự thâm nhập thị trường trong lĩnh vực dịch vụ.
Hiện tại, mức thuế trung bình của Việt Nam là khoảng 30%, cao hơn mức trung bình của các nước đang phát triển (mức 23%), cao hơn nhiều so với mức của các nước phát triển (4 - 5%). Và Việt Nam vẫn còn sử dụng hạn ngạch. Như vậy trong thời gian tới Việt Nam cần phải có những biện pháp tích cực hơn nữa để giảm thiểu các hàng rào thương mại, tạo ra sự thâm nhập tốt hơn cho các công ty ở cả trong và ngoài nước theo yêu cầu của WTO.
4. Tự do hoá thương mại dịch vụ.
Sau vòng Uruguay, sự tự do hoá thương mại đã lan sang cả lĩnh vực dịch vụ. Hiện tại, thị trường dịch vụ nước ngoài của Việt Nam còn nhiều hạn chế như công ty dịch vụ nước ngoài chỉ được phép hoạt động tại Việt Nam trong các ngành công nghiệp đã chọn và ở một mức độ giới hạn, phải đối mặt với những hạn chế hành chính đáng kể trong khi hoạt động tại Việt Nam.
Trong khi thương lượng gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải đưa ra biện pháp cho sự xâm nhập thị trường dịch vụ của mình. Chính phủ Việt Nam sẽ phải nghiên cứu những ảnh hưởng của tự do hoá các ngành công nghiệp dịch vụ tới nền kinh tế và quyết định ngành công nghiệp dịch vụ nào sẽ phải mở cho các đối thủ cạnh tranh nước ngoài và mức độ bảo vệ cần thiết cho các ngành công nghiệp khác. Mặt khác do trách nhiệm quốc gia và thâm nhập thị trường chỉ ràng buộc những bên ký hiệp ước, tự cam kết trong các chương trình của các cam kết ban đầu của mình, Việt Nam phải chọn những lĩnh vực dịch vụ có khả năng cạnh tranh hơn. Trên thực tế Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào và rẻ, nên có thể xem xét để mở cửa những thị trường cần nhiều lao động như các dịch vụ nghề nghiệp, xây dựng, vận tải, du lịch, trong khi mở cửa dần dần các lĩnh vực khác như tài chính, bảo hiểm, viễn thông, môi trường, sức khoẻ và giáo dục.
5. Bảo về các quyền sở hữu trí tuệ.
Bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ là một khái niệm tương đối mới đối với hầu hết người Việt Nam với nghĩa hiện đại của nó. Các quyền sở hữu trí tuệ thường là về nhãn hiệu thương mại, bản quyền tác giả, thiết kế công nghiệp, âm thanh, hình ảnh, phần mềm máy tính... Hiện tại ở Việt Nam không có bộ luật nào để bảo vệ các chương trình âm thanh hình ảnh và phần mềm máy tính. Gần đây có nguồn tin xác định rằng Việt Nam đã ký các hiệp định quốc tế liên quan đến sở hữu trí tuệ: Công ước Paris, Hiệp định Madrid và Công ước Stockholm.
Trên thực tế các quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một phần không thể tách rời của WTO, do đó các thành viên của WTO sẽ nhân cơ hội các cuộc thương lượng tư cách hội viên của Việt Nam và các cuộc thương lượng thương mại song phương khác để yêu cầu Việt Nam phải cải cách hệ thống sở hữu trí tuệ, đồng thời giám sát việc thực hiện các luật về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam. Do vậy trong thời gian tới Việt Nam cần nhanh chóng có những cải cách trong vấn đề này để nó không còn là vấn đề mang ra thương lượng, thoả thuận sau này.
III. MỘT VÀI KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU.
1. Tiến trình đàm phán.
Có thể nói rằng quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu tiên. Tuy đã gặp rất nhiều khó khăn trở ngại nhưng Việt Nam cũng đã thực hiện những công việc sau:
- Tháng 6 - 1994 Việt Nam đã được công nhận là quan sát viên của GATT (nay là WTO).
- Ngày 4 - 1 - 1995 Ban thư ký WTO đã nhận được đơn xin gia nhập WTO của Việt Nam.
- Ngày 26 - 8 - 1996 bản bị vong lục về chế độ ngoại thương của Việt Nam được chính thức nộp cho Ban thư ký WTO và luân chuyển tới các thành viên.
- Tháng 4 - 1997 Việt Nam thành lập tổ công tác liên bộ về WTO. Tổ công tác liên bộ bao gồm đại diện một số bộ, ngành kinh tế có liên quan nhiều nhất đến tiến trình đàm phán.
- Tháng 5 - 1997 Việt Nam nhận được 655 câu hỏi từ các thành viên WTO.
- Ngày 7 - 5 - 1997 Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập đoàn đàm phán chính phủ về vấn đề gia nhập WTO.
- Này 13 - 7 - 2000 Việt Nam đã ký Hiệp định quan hệ thương mại Việt - Mỹ. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là bản hiệp định thương mại song phương đầu tiên của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở nguyên tắc, quy chế, ngôn ngữ của WTO. Đây là bước khởi đầu quan trọng cho quá trình đàm phán gia nhập WTO của Việt Nam sau này.
2. Những kết quả đạt được.
Tiến trình đàm phán gia nhập WTO đã tạo nên một sức ép và đem lại những yêu cầu buộc Việt Nam tự nhìn nhận phương thức hoạch định chính sách và điều chỉnh chính sách của mình. Trước hết, đối với vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong chính sách, chế độ đối với cán bộ đặc biệt là cán bộ trong lĩnh vực kinh tế quốc tế. Chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ đàm phán quốc tế để đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Tiếp đến, Việt Nam đã có nhiều có gắng trong việc điều chỉnh chính sách thương mại của mình. Tìm mọi cách để đa dạng hoá thị trường, tạo quan hệ bạn hàng với nhiều nước, điều chỉnh và cắt giảm thuế... đã tạo được những mối quan hệ tốt đẹp với nhiều quốc gia trên thế giới. Cuối cùng, trong quá trình điều chỉnh chính sách, Việt Nam đã cố gắng tạo môi trường thuận lợi cho các nhà kinh doanh thông qua hệ thống pháp luật đổi mới, cải cách thủ tục hành chính...
IV. NHỮNG TỒN TẠI CẦN KHẮC PHỤC.
Có thể nói rằng hệ thống chính sách thương mại Việt Nam vẫn chưa được rõ ràng gây khó khăn trong việc thi hành. Bộ máy quản lý hành chính quan liêu, thủ tục rườm rà, nhất là ở ngành hải quan làm giảm hiệu quả thương mại quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ và chưa có hệ thống luật bao trùm các lĩnh vực của WTO.
Hơn thế nữa nền kinh tế Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nên có nhiều xáo động. Mặt khác trình độ nền kinh tế vẫn còn đang ở trình độ thấp gây nhiều khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế.
Việt Nam mới tiến hành mở cửa hơn 10 năm, nền kinh tế thị trường vẫn còn đang yếu ớt chưa thể so sánh được với các nước phát triển. Do vậy, còn nhiều yếu tố trong kinh tế thị trường chúng ta vẫn chưa có kinh nghiệm nên rất dễ bị thua thiệt trong quá trình gia nhập WTO. Yêu cầu đặt ra là phải đào tạo một đội ngũ cán bộ chuyên về đàm phán, hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay Việt Nam vẫn còn thiếu rất nhiều cán bộ như vậy.
Đối với một số ngành, lĩnh vực nhà nước chiếm thế độc quyền nên người tiêu dùng bị thiệt vì chi phí cao. Một số ngành được bảo hộ thì làm ăn không hiệu quả dẫn đến thua lỗ ở các doanh nghiệp. Nếu tình trạng này không nhanh chóng giải quyết thì khó có thể bàn đến chuyện gia nhập WTO.
Đối với hàng hoá, thì hàng hoá Việt Nam có sức cạnh tranh tương đối thấp. Đây có thể là do công nghệ lạc hậu, năng suất thấp dẫn đến giá thành cao, chất lượng thấp. Vì vậy, vấn đề nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá cũng là vấn đề nan giải, nếu không giải quyết kịp thời thì Việt Nam sẽ thua ngay khi tham gia AFTA chứ chưa cần đến việc gia nhập WTO.
Những hạn chế nêu trên do một số nguyên nhân gây ra. Trước hết là do nước ta trải qua thời kỳ dài theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung làm trì trệ nền kinh tế. Đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách vẫn còn thiếu kinh nghiệm thực tế, yếu về lý luận. Trình độ công nghệ yếu kém, cơ cấu kinh tế lạc hậu. Việt Nam chỉ mới mở cửa được hơn 10 năm nên quan điểm hội nhập vẫn chưa rõ ràng chiến lược hội nhập còn dè dặt. Đối với vấn đề gia nhập WTO Việt Nam thực sự chỉ mới bắt đầu, chưa nghiên cứu kỹ về WTO, thiếu cán bộ chuyên môn về WTO... cho nên vấn đề đàm phán gia nhập WTO vẫn còn nhiều những khó khăn trở ngại, con đường hội nhập quốc tế của Việt Nam còn rất nhiều chông gai m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiến trình đàm phán gia nhập WTO của VN - Thực trạng & triển vọng.doc