MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ TIÊU THỤ
SẢN PHẨM Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT 2
I-/ TỔNG QUAN VỀ TIÊU THỤ SẢN PHẨM : 2
I.1. Quan niệm về tiêu thụ sản phẩm trong các nền kinh tế: 2
I.2. Vai trò và ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ sản phẩm: 3
II-/ CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÔNG TÁC TIÊU THỤ SẢN PHẨM
Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT. 4
II.1 Điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường: 4
II.2 Lựa chọn sản phẩm phù hợp: 5
II.3 Tổ chức hoàn chỉnh sản phẩm: 6
II.4 Định giá bán và thông báo giá. 7
II.5. Lên phương án phân phối vào các kênh tiêu thụ: 8
III-/CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ
SẢN PHẨM NÓI CHUNG VÀ THỊ TRƯỜNG BIA NÓI RIÊNG. 12
III.1 Các nhân tố thuộc tầm vĩ mô: 12
III.2 Các nhân tố thuộc tầm vĩ mô: 14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ BIA
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT BIA HIỆN NAY 16
I-/ THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BIA VÀ VẤN ĐỀ TIÊU THỤ BIA
Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT BIA NÓI CHUNG. 16
I.1. Tình hình cung trên thị trường: 16
I.2. Tình hình cầu bia trên thị trường: 19
II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG TRÊN. 23
III. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN -THÁCH THỨC
VỚI HOẠT ĐỘNG TIÊU THỤ BIA TRONG THỜI GIAN TỚI. 24
III.1. Những thuận lợi đối với hoạt động tiêu thụ bia
trong thời gian tới: 24
III.2. Những khó khăn-thách thức đối với hoạt động
tiêu thụ bia trong thời gian tới: 25
IV. TÌNH HÌNH TIÊU THỤ BIA Ở MỘT SỐ DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT 28
IV.1. Tình hình tiêu thụ bia của Tổng Công ty Rượu-bia
nước giải khát Việt Nam. 28
IV.2. Tình hình tiêu thụ ở Công ty bia Đông Nam Á: 29
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH TIÊU THỤ SẢN PHẨM
BIA Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT BIA 30
I. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG BIA Ở
VIỆT NAM VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ BIA. 30
II. BIỆP PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG TIÊU THU BIA. 30
II.1. Chiến lược về sản phẩm: 30
II.2 Chiến lược về giá: 30
II.3. Chiến lược về phân phối: 30
II.4.Chiến lược xúc tiến: 30
III. ĐIỀU KIỆN TIỀN ĐỀ ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP. 30
KẾT LUẬN 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2585 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tiêu thụ sản phẩm ở các doanh nghiệp sản xuất bia hiện nay: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tố bên ngoài vào điều kiện cụ thể của mình.
Chương II
thực trạng của hoạt động tiêu thụ bia của các doanh nghiệp sản xuất bia hiện nay
I-/ thực trạng thị trường bia và vấn đề tiêu thụ bia ở các doanh nghiệp sản xuất bia nói chung.
I.1. Tình hình cung trên thị trường:
Bia là loại đồ uống được sản xuất từ một loại hạt nảy mầm gọi là Malt và hoa Honblong. Vào những năm 57-58, khi lần đầu tiên được bán trên thị trường miền Bắc bia vừa là đồ uống xa lạ với mọi người. Dần dần người ta nhận ra tác dụng của loại đồ uống này đối với sức khoẻ và nó trở nên thông dụng hơn. Khi cánh cửa thị trường bật mở, có lẽ bia là ngành "tiên phong" lao vào nhanh nhất và mạnh nhất. Cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhiều cơ sở địa phương liên doanh vơi nước ngoài để thành lập Công ty liên doanh nước ngoài. Sản phẩm bia của các bên liên doanh có chất lượng tương đương với hàng ngoại nhập, nhưng có lợi thế hơn hẳn hàng ngoại nhập bởi giá cả, chi phí vận chuyển bảo quản... thấp nên khả năng cạnh tranh tốt đối với hàng ngoại nhập.
Hàng loạt các nhà máy bia đã có từ trước được đầu tư, cải tạo mở rộng. Các nhà máy được xây dựng thêm. Các liên doanh với các hãng bia lừng danh trên thế giới chen nhau ra đời. Chưa kể các ngành "ăn theo" cũng đua nhau mọc lên: vo lon nhôm, két nhựa, vỏ chai thuỷ tinh và các loại nút chai, bao bì khác.
Hiện tại, năng lực sản xuất bia của các nhà máy đang hoạt động, đang hoàn tất và đã được cấp giấy phép. Có tổng Công ty suất khoảng 876 triệu lít/năm, được chia ra như sau: các liên doanh với nước ngoài chiếm 46,4% (405 triệu lít) các nhà máy thuộc tổng Công ty rượu bia nước giải khát Việt Nam chiếm 23,6% và còn lại là các địa phương.
Trên cả nước hiện có hơn 320 cơ sở sản xuất bia với quy mô lớn nhỏ khác nhau, song thêm 87% cơ sở chỉ có công suất "còi cọc", dưới 1 triệu lít/năm mà chiếm trên 12% tổng công suất.
Loại có công suất trên 10 triệu lít/năm (gồn các cơ sở vốn đầu tư nước ngoài được cấp phép) là 13 nhà máy, chiếm gần 73% tổng năng lực. Số cơ sở có công suất 6-10 triệu lít/năm chiếm 2,8%, và chiếm 8,4% tổng công suất. Nếu chia đều các nhà máy cho 61 tỉnh, thành thì ngành sản xuất bia rơi vào tình trạng "bia chảy chỗ trũng". Bởi dòng chảy bia chỉ đổ dồn vào 2 cái phễu chính là thành phố Hồ Chí Minh (chiếm 32,4% tổng năng lực cả nước) và Hà Nội chiếm 16,2%. Trong khi đó thì 8 tỉnh lại không có một giọt bia nào là Ninh Thuận, Gia Lai, Đắc Lắc, Bình Dương, Bình Phước, Bến Tre, Kiên Giang và Minh Hải. Các khu vực Tây Nguyên, đồng bằng Sông Cửu Long và trung du miên núi phía Bắc hầu như không có năng lực sản xuất. Tuy nhiên, năm 1995 sản lượng thực tế của cả nước mới đạt 502 triệu lít, chỉ bằng 58% công suất thiết kế. Không ít dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp giấy từ lâu mà nay vẫn chưa động tĩnh gì bia Praha (Hà Tỉnh) và dự án mở rộng giai đoạn 2 Công ty bia Đông Nam á.
Hiện nay, đã có hơn 30 nhãn hiệu bia có mặt tại thị trường Việt Nam kể cả các nhãn hiệu quốc tế sản xuất trong nước như: Carlsberg, Sanmiguel, Tiger, Heineken... và một số nhãn hiệu khác. mặc dù cuộc chiến dành giật thị trường của các hãng bia ngày càng sôi động, lượng bia sản xuất dù có gia tăng đáng kể, nhưng vẫn không đáp ứng được cơn khát của giới tiêu thụ bia trên thị trường.
Tuy số lượng nhiều, song chỉ một số ít nhà máy phát huy hết công suất như nhà máy bia Sài Gòn, bia Hà Nội, liên doanh bia Việt Nam và phần liên doanh của bia BGI tại Tiền Giang. Các nhà máy lớn khác chỉ được "to xác", chiếm thị phần quá thấp. Đặc biệt là các cơ sở sản xuất nhỏ lại càng thảm hại hơn. Công nghệ yếu kém, chỉ cho ra loại bia cấp thị xã thì mấy sức cạnh tranh nổi? Bởi thế lợi nhuận mày ngành bia có được đều trông cậy vào "ông anh cả" là Tổng Công ty Rượu bia nước giải khát. Dẫn đầu là Công ty bia Sài Gòn nộp ngân sách gần 6 triệu đồng trên 1 triệu lít bia, tiếp đó là Công ty bia Hà Nội nộp 4,5 triệu đồng trên 1 triệu lít bia, năm 1995, 2 Công ty đã sản xuất 186 triệu lít bia, nộp ngân sách 954 tỷ đồng. Năm 1996, sản lượng bia của hai Công ty bia Sài Gòn và bia Hà Nội đạt 165 triệu lít bia: bia Hà Nội đạt 48 triệu lít. Ước tính hai Công ty bia này đang chiếm hơn 40% thị phần bia cả nước. Hai Công ty nay đều có tốc độ tăng trưởng cao trong năm 1996, (bia Sài Gòn 8,42%, bia Hà Nội 15,76%) và đã đóng góp 1076 tỷ đồng trong tổng số 1095,4 tỷ đồng nộp ngân sách Nhà nước của toàn tổng Công ty rượu bia giải khát Việt Nam.
Các nhà máy bia ở địa phương, do quy mô nhỏ, hiệu quả kinh tế thấp, nên phần lớn bị lỗ, tất nhiên cũng không tránh khỏi tình trạng trốn thuế. Quả thật, trước tốc độ phát triển quá bốc của ngành này trong mấy năm qua, nên Nhà nước chưa có quy hoạch đầy đủ, nhất là khâu quản lý chưa có sự thống nhất.
Theo thống kê, các nhà máy bia địa phương chỉ nộp khoảng 50% theo quy định, trong khi bia Sài Gòn, bia Hà Nội vẫn nộp đúng và đủ nên đã tạo ra một sân chơi không bình đẳng giữa các xí nghiệp. Hiện tại, thuế tiêu thụ đặc biệt cho bai được đánh trên cơ sở giá bán tại nơi sản xuất chưa tính thuế tiêu thụ đặc biệt, với thuế bia hơi và bia chai bằng 79% và 95% cho bia lon.
- Về bia nhập khẩu.
Trước đây 1993 trở về trước, khi các hãng bia nước ngoài chưa được dphép sản xuất ở Việt Nam và sản xuất dưới mức cầu khá nhiều, một lượng bia lon đã được nhập khẩu. Nhập lậu mạnh nhất qua biên giới là bia Trung Quốc. Ước tính khoảng 25-50 triệu lít được chở vào Việt Nam bằng các đường khác nhau. Sau năm 1993, nhà máy bia Việt Nam đã đi vào sản xuất và đã nhanh chóng "hất" bỏ bia nhập Heineken và Tiger. Đồng thời, do chất lượng bia chai của bia Sài Gòn và bia Hà Nội được nâng cao, có chụp bảo hiểm chống làm giả, bia Việt Nam đã loại bỏ hoàn toàn bia Trung Quốc nhập lậu.
- Cung về các sản phẩm thay thế:
Sản lượng thay thế của bia là các loại đồ uống đóng hộp: nước hoa quả, sữa, rượu, cà phê, trà, nước khoáng. Cùng với sự gia tăng của bia thì các loại sản phẩm giải khát thay thế nó cũng chạy theo "cơn lốc" của sự phát triển. Các loại nước giải khát ngày càng đa dạng về chủng loại, mẫu mã cũng như chất lượng. Một xu thế phổ biến là mức tiêu dùng các loại nước có gas giảm, người tiêu dùng ngày càng quan tâm tới sức khoẻ nên giảm tỷ lệ nước uống có đường, có gas tăng tỷ lệ nước khoáng, nước bổ dưỡng. Sự ra đời của các Công ty sản xuất nước ngọt Cocacola; Pepsicola trong thời gian qua thực sự là mối đe doạ các nhà sản xuất bia trong nước. Trong cơ cấu IBC, Pepsico chiếm 30% cổ phần, Mancondray của Hồng Kông chiếm 30% và 40% là do các Công ty quốc doanh của Việt Nam. Cocacola có mặt tại Việt Nam với Công ty Coca-Cola Indochine Pte.Ltd, một liên doanh với Fraser và Neave Ltd của Singapo và Thai Pure Drinks Ltd của Thái Lan (Coca-cola Co, có cổ phần ở cả 2 Công ty này). Cocacola Indochine có hai liên doanh ở Việt Nam. Pepsi và Cocacola đang quảng cáo tích cực trên TV và báo chí, và đang tài trợ cho các buổi biểu diễn âm nhạc hay các sự kiện thể thao, nhằm tranh giành vị trí độc tôn trên thị trường vốn bắt đầu có sự cạnh tranh gay gắt.
Nhu cầu về độ uống Pepsi và Cocacola là rất lớn. Năm 1995, doanh số của IBC tăng gấp đôi so với năm 1994 và trong cả hai năm, Công ty không sản xuất đủ đáp ứng nhu cầu. Doanh số đồ uống của Cocacola ở Việt Nam tăng 123% trong năm kết thúc vào tháng 9/1996. Và không thể đoán trước thị trường đồ uóng có gas ở Việt Nam sẽ có quy mô lớn chừng nào, nhưng có thể thấy được rằng Cocacola và Pepsi có tiềm năng rất lớn và đang không ngừng mở rộng quy mô.
Cùng với nước ngọt Cocacola và Pepsi thì các loại nước hoa quả, sữa càng ngày càng đa dạng và phong phú về chủng loại và mẫu mã- đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Đây cũng là một sự cạnh tranh của bia đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất bia phải biết nhìn nhận và đánh giá để xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh đúng đắn và đem lại hiệu quả cao.
Sau đây là bảng số liệu cung về bia của một số Công ty cung cấp chính ở nước ta (năm 1996).
Công ty bia
Nhãn hiệu sản xuất
Địa phương
Công suất bia chai lon
Công suất bia hơi
Tổng cộng
Dự kiến 2000
Hà Bắc
Habada
Hà Bắc
10
10
20
40
Hà Nội
Hà Nội
Hà Nội
200
150
350
800
Đông Nam á
Halida
Carlsberg
Hà Nội
200
200
600
Việt Hà
Hà Nội
150
150
300
Hà Tây
Heineken
Hà Tây
600
Nam Hà
Nada
Nam Định
15
10
25
60
Vinh
Vida
Nghệ An
50
10
60
70
Thanh Hoá
Thanh Hoá
Thanh Hoá
100
80
180
200
Công ty khác
Miền Bắc
200
200
450
600
Cộng
Miền Bắc
825
610
1485
3270
Đà Nẵng
Bgi
Đà Nẵng
200
200
200
Huế
Huda Tuborg
Huế
300
300
500
Rồng Vàng
Sanmiguel
Bed horse
Khánh Hoà
200
200
400
Công ty khác
Miền Trung
340
130
470
500
Cộng
Miền Trung
1040
1050
1150
1600
Sài Gòn
Sài Gòn 333
Sài Gòn
1500
100
1600
2100
Việt Nam
Tieger
Heineken
Sài Gòn
1100
1100
1500
Sông Bé
Sabeco
Sông Bé
100
100
100
Mỹ Tho
Bgilarne
Tiền Giang
200
150
350
350
Công ty khác
Miền Nam
280
300
580
700
Cộng
Miền Nam
3050
650
3700
4750
I.2. Tình hình cầu bia trên thị trường:
Với dân số hơn 76 triệu dân sống trong vùng khí hậu nhiệt đới. Nhu cầu về tiêu thụ bia tại Việt Nam tương đối cao. Cùng với đời sống ngày càng cao, bia đã trở thành một sản phẩm giải khát quen thuộc của người dân tiêu dùng.
+ Xu hướng tiêu dùng bia của khách hàng chịu ảnh hưởng của các nhân tố sau:
- Yếu tố mùa vụ: Khí hậu Việt Nam có ảnh hưởng rất rõ nét đến lượng tiêu thụ bia khi so sánh giữa miền Bắc với miền Nam cũng như giữa các vùng thành thị và nông thôn của đất nước. Mùa mưa làm giảm lượng bán hàng xuống bởi vi bia là đồ uống giải khát được khách hàng chủ yếu dùng vào mùa hè.
- Thói quen tiêu dùng bia của khách hàng:
Người tiêu dùng bia Việt Nam thường không trung thành với một nhãn hiệu bia nào cả và họ dễ dàng chấp nhận từ bỏ nhãn hiệu bia này để thử một nhãn hiệu bia khác. Tiêu dùng bia theo mốt cũng đang là phong trào mà thế giới tiêu dùng bia Việt Nam chạy theo để thể hiện sự sang trọng và sành điệu. Mốt tiêu dùng bia hiện nay là sản phẩm bia Carlsbeng, Heineken được người tiêu dùng biết đến như là sản phẩm số 1 thế giới.
- Những kích thích từ phía doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, đa số người tiêu dùng ngày càng bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các hoạt động Marketing, các trào lưu. Hoạt động Marketing của các nhà sản xuất và phân phối tác động mạnh đến quyết định mua, đặc biệt trong quyết định mua những sản phẩm mà người tiêu dùng không trung thành với một nhãn hiệu đó.
+ Nếu căn cứ vào thị hiếu tiêu dùng bia, có thể chia khách hàng sử dụng bia thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Tập hợp những người thích uống loại bia có vị uống nhẹ, dễ uống và uống nhiều không bị say. Họ chủ yếu là những người uống bia kém hoặc là phụ nữ hoặc là những người mới uống bia. Những người này uống được ít và đa số họ chỉ uống vào các dịp lễ tết hoặc các buổi liên hoan.
Nhóm 2: Tập hơp những người thích uống những loại bia nặng. Đây chủ yếu là những người uống được bia và những người nghiện bia. Họ thích loại bia này vì chúng mới đủ độ với họ. Những người này thường uống lai rai vì như thế họ uống được nhiều. Tuy nhiên, số lượng người ở nhóm này lại ít.
Nhóm 3: Gồm những người thích uống loại bia đậm đà, vừa phải vừa là để giải khát vừa tạo thêm sự ngon miệng trong các bữa ăn. Đây thực sự là một nhón tiêu dùng lớn. Họ tiêu dùng thường xuyên trong các bữa ăn mỗi ngày. Đối với họ bia vừa là để giải khát đồng thời có mặt trong các lần bàn bạc làm ăn của mình. Nhóm này chủ yếu là các cán bộ công nhân trong các Công ty xí nghiệp tại các thành phố và những người dân buôn bán. Đây chính là nhóm người mà các cơ sở sản xuất bia cần phải nhằm vào để tạo ra tiền đề tiêu thụ mạnh mẽ hơn nữa.
- Ngoài tính chất thời vụ, thị hiếu người tiêu dùng còn phải tính đến thu nhập của người tiêu dùng và cách phân bổ thu nhập của họ cho đồ uống trong sinh hoạt hàng ngày. Những người có thu nhâp cao thường dùng bia có chất lượng cao đồng thời tiện lợi trong tiêu dùng. Còn những người có thu nhập khá và trung bình trở xuống thì họ lại có mặt hàng đáp ứng cho nhu cầu của mình một cách hợp lý hơn. Đó là bia chai và bia hơi. Các loại bia này có chất lượng tươi ngon giá lại rẻ hơn nên đáp ứng phần lớn người lao động bình thường, có ít tiền vẫn dung được bia ngon.
- Cơ cấu tuổi của người tiêu thụ bia: Qua điều tra cho thấy phần lớn những người từ 20 tuổi trở lên có xu hướng dùng bia cao, trong đó những người từ 20-45 tuổi là có tỷ lệ tiêu dùng cao nhất.
- Phần lớn nam giới thường có tỷ lệ tiêu dùng bia cao hơn nữ. Trong khi đó, nữ giới thường ưa chuộng các loại nước hoa quả- sữa tươi, nước ngọt, nước khoáng. Đây cũng là một yếu tố đòi hỏi doanh nghiệp phải chú ý khi sử dụng các hình thức phân phối cũng như cách thức quảng cáo.
Một thực tế cho thấy là chất lượng bia có vai trò quan trọng đến quyết định tiêu dùng bia của khách hàng. Tuy nhiên có một nhóm khách hàng sử dụng bia không phải vì mục đích giải khát cho chính nhu cầu của bản thân mình mà vì những mục đích khác như giao dịch... do vậy họ thường sử dụng những loại bia có nhãn hiệu nổi tiếng biểu hiện sự sang trọng, thiện chí đối với đối tác. Vì vậy quảng cáo có vai trò quan trọng trong hoạt động tiêu thu bia.
Tình hình tiêu thụ bia được phản ánh qua bảng số liệu sau (H.2)
* Khái quát tình hình tiêu thụ bia qua các năm
Một nhận xét chung là tình hình tiêu thụ bia qua các năm đều tăng lên rõ rệt. Chính thức tháng 6 năm 1999 là 62,7 triệu lít. Ước tính tháng 7/1999 là 65,6 triệu lít, và tổng tháng 7/1999 la 391,4 triệu lít. Nếu xét về tỷ lệ so sánh thì T7/1999 so với tháng 6/1999 là 104,6%, tháng 7/1999 so với tháng 7/1998 là 108,8%. Bia không còn là đồ uống của chỉ người nông dân thành thị mà đã len lỏi vào các vùng sâu, vùng xa, nông thôn cua đất nước. Vài năm trước đây, bia Trung Quốc tràn lan khắp thị trường Việt Nam và đặc biệt rất phù hợp với người dân ở nông thôn cả về hương vị lẫn giá thành. Nhưng bây giờ, chuyện đó đã trở thành dĩ vãng khá xa xôi. Bia chai Hà Nội đang được tiêu thụ mạnh ở các vùng nông thôn phía Bắc. Thực ra, với giá bán từ 6000-7000đ/chai thì uống bia chai Hà Nọi vẫn chỉ là sở thích của tầng lớp có tiền ở nông thôn, nhưng so với bia chai Carlsbeng hoặc Tiger thì bia chai Hà Nội vẫn là rẻ nhất. Quen thuộc nhất đối với người dân nông thôn vào mùa hè là bia hơi. Phải nói, đây đúng là một "lĩnh vực" kinh tế quan trọng vì nó có liên quan đến rất nhiều thành phần: từ chủ xưởng bia đến chủ quản, người giao bia và những người uống.
Hầu hết trong các cuộc họp, hội nghị và giao dịch, các cuộc tiệc thì bia là thành phần không thể thiếu được. Vì vậy cầu về bia ngày càng cao- do đó các nhà máy bia cũng lần lượt chen nhau ra đời, tạo ra một thị trường bia sôi động.
Nhãn hiệu
Lượng bán (1000 H1)
Thị phần
Sử dụng
Bia chai lon
Bia hơi
Công suất
Sử dụng
Habada
5
5
0
20
10
Hà Nội
160
140
7
350
300
Halida
140
3
200
195
Carlsberg
125
150
150
Việt Hà
Heineken
0
0
0
0
0
Nada
15
5
0
25
25
Vida
50
10
1
70
60
Sông Hàn
100
2
200
100
LaRue
30
1
200
30
Huda
200
4
300
200
Tuborb
0,6
Sanmiguel
40
1
200
50
Red Horse
10
Sài Gòn
1400
50
33
1600
1600
333
250
6
Tiger
450
10
1100
530
Sông Bé
80
50
3
100
50
BGI
30
1
350
30
Các loại khác
380
590
22
1300
970
Tổng
3340,6
995
100
6335
4315
* Một số đánh giá chung về thực trạng tiêu thụ ở các doanh nghiệp sản xuất bia hiện nay. Nhìn chung các doanh nghiệp Nhà nước thuộc tổng Công ty Rượu- bia nước giải khát Việt Nam làm ăn có hiệu quả- mức tiêu thụ đều tăng lên so với các năm trước. Tuy nhiên các doanh nghiệp này cũng đang đứng trước một thư thách lớn đó là sự cạnh tranh quyết liệt của các doanh nghiệp liên doanh về cả nhãn hiệu, giá cả, chất lượng và các hình thức quảng cáo, khuyến mãi. Về doanh nghiệp liên doanh tuy số lượng ngày càng nhiều nhưng cũng chỉ một số doanh nghiệp liên doanh làm ăn hiệu quả, hoạt động tiêu thụ đem lại hiệu quả cao- còn một số doanh nghiệp liên doanh còn lại chưa hoạt động hiệu quả- công suất chưa sử dụng hết- tiêu thụ còn chậm.
Còn các doanh nghiệp tư nhân cũng chỉ một số rât ít làm ăn có lãi- còn lại hầu như đều sản xuất không có chất lượng đủ cạnh tranh với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp liê doanh- lấy lãi chủ yếu từ việc trốn thuế- sử dụng các loại nguyên vật liệu chưa đảm bảo chất lượng. Tuy nhiên vẫn nhờ giá rẻ.
Một đánh giá chung là các doanh nghiệp sản xuất bia vẫn chưa thực sự hoạt động có hiệu quả- công tác tiêu thụ vẫn còn gặp nhiều vắng mắc kể cả một số doanh nghiệp làm ăn có lãi, bởi vì những doanh nghiệp này chưa xác định thị trường trọng điểm của mình (khách hàng và túi tiền cũng như thị hiếu của họ), và các doanh nghiệp đang ở trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt. Và khó khăn đối với các doanh nghiệp địa phương là thiếu vốn, khoa học công nghệ cũng như trình độ tổ chức quản lý. Vì vậy đánh giá đúng thực trạng, rút ra những thuận lợi cũng như khó khăn là việc làm cần thiết để từ đó tìm ra được giải pháp nhằm đẩy nhanh hoạt động tiêu thụ sản phẩm bia- góp phần vào sự tăng trưởng xã hội.
II. nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.
Qua thực trạng về hoạt động tiêu thụ bia đã trình bày ở trên. Ta có thể rút ra những nguyên nhân cụ thể sau:
- Cầu về bia lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng do quy mô dân số đông lại nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới cùng với đời sống của nhân ngày càng được cải thiện.
- Do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá do đó phần lớn các nhà máy bia tập trung vào các thành phố lớn, có đông dân cư nên xảy ra tình trạng bia chảy chỗ trũng không phân bố đều, do đó có nơi cung thừa mà lại thiếu cầu và ngược lại có nơi cung thiếu, cầu thừa.
- Do chính sách và cơ chế quản lý của Nhà nước chưa thật hoàn chỉnh, có một số loại bia giả, trốn thuế tạo ra một sân chơi không bình đẳng.
- Do kỹ thuật để sản xuất bia đòi hỏi trình độ công nghệ và một số nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài nên gây khó khaưn cho việc thành lập cũng như việc sử dụng hết công suất của nhà máy. Mặt khác, một số doanh nghiệp sản xuất bia có quy mô quá nhỏ nên hoạt động không đem lại hiệu quả kinh tế.
- Do điều kiện vật chất, cơ sở hạ tầng tuy đã khá hơn so với trước đây nhưng vẫn còn lạc hậu, nghèo nàn vì vậy không tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân phối, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đầy hoạt động tiêu thụ, đặc biệt là bia có những nét khác biệt so với các mặt hàng giải khát khác đó la quá trình sản xuất và tiêu dùng mặt hàng này có liên quan chặt chẽ với nhau. Đặc điểm của tiêu dùng sẽ hướng dẫn đặc điểm của sản xuất. Ngược lại đặc điểm của sản xuất cũng ảnh hưởng tới quá trình tiêu dùng.
- Cạnh tranh ngày càng gay gắt, một số liên doanh bia có điều kiện về vốn nên thực hiện các chương trình quảng cáo rầm rộ. Trong khi đó có một số doanh nghiệp sản xuất bia, không đủ chi phí cho quảng cáo tạo ra sự lép vế tuy chất lượng không kém hơn.
- Một nguyên nhân quan trọng nữa là các doanh nghiệp không xác địh được thị trường mục tiêu của mình. Mà khi không xác định được thị trường mục tiêu sẽ dẫn tới các chiến lược tiêu thụ không hiệu quả từ đó dẫn tới việc không đạt được kết quả mong muốn trong hoạt động tiêu thụ.
Iii. những thuận lợi và khó khăn -thách thức với hoạt động tiêu thụ bia trong thời gian tới.
III.1. Những thuận lợi đối với hoạt động tiêu thụ bia trong thời gian tới:
- Nhu cầu tiêu thụ bia ngày càng cao. Việt Nam là một thị trường tiêu thụ bia đầy tiềm năng với quy mô dân số đông và hiện tại, tuy khả năng tiêu thụ bia tính đến đầu người còn thấp (thấp hơn mức trung bình của thế giới) nên trong tương lai, triển vọng về thị trường bia là rất lớn. Đây là nhân tố rất thuận lợi và cần thiết cho việc đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ bia trong thời gian tới. Bởi vì bất cứ một lĩnh vực kinh doanh nào, muốn đạt được hiệu quả kinh doanh thi phải tiêu thụ được sản phẩm mà mình sản xuất ra. Mà điều đầu tiên muốn tiêu thụ được sản phẩm thì phải có cầu lúc đó nó hoạt động tiêu thụ bia mới thực hiện được.
- Một thuận lợi nữa là Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên cầu về bia rất cao. Cùng vơi sự tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây nâng cao khả năng thanh toán vì vậy hoạt động tiêu thụ bia cũng cao lên.
- Bia là loại đồ uống có tác dụng giải khát cao, kích thích tiêu hoá, trong một giới hạn nào đó (không sử dụng quá nhiều) bia có tác dụng đối với sức khoẻ. Mặt khác bia còn là loại giải khát vừa mang tính bình dân nhưng cũng vừa thể hiện sự sang trọng nên phù hợp với mọi người dân trong xã hội- hay nói cách khác là đối tượng tiêu dùng bia rất lớn. Điều này cũng mở ra một thuận lợi cho hoạt động tiêu thụ bia.
- Bia là loại sản phẩm có nhu cầu sử dụng quanh năm, người ta tiêu dùng bia không những chỉ trong mùa hè nóng nực mà cả mùa đông người ta cũng sử dụng tuy nhiên với số lượng ít hơn vì vậy quy mô và khả năng tiêu thụ được nâng cao.
- Nền văn hoá ẩm thực của người dân Việt Nam cũng là môt thuận lợi cho công tác tiêu thụ sản phẩm bia. Người dân có phong tục hay tổ chức các buổi tiệc, ăn uống trong các dịp lễ, vì vậy nhu cầu về bia cũng tăng lên.
- Chính sách mở cửa của Nhà nước, đây là điều kiện thuận lợi cho các liên doanh bia sản xuất tại Việt Nam, tạo ra một sự cạnh tranh lành mạnh làm cho sản phẩm bia ngày càng nâng cao chất lượng, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng và từ đó đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ. Mặt khác cùng với chính sách mở cửa của Nhà nước tạo điều kiện cho việc nhập nguyên vật liệu cũng như máy móc trang thiết bị công nghệ từ đó đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng tốt hơn do sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao.
- Cùng với sự phát triển của các hoạt động và phương tiện thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động truyền tin, quảng cáo sản phẩm bia tới mọi đối tượng. Vì mặt hàng bia là mặt hàng giải khát đối với mọi tầng lớp nhân dân nên hoạt động quảng cáo rất có hiệu quả. Mặt khác với sự phát triển của khoa học -công nghệ- cơ sở hạ tầng nên tạo điều kiện dễ dàng cho việc bảo quản- lưu chuyển bia tới các vùng của đất nước.
- Môi trường kinh doanh tương đối ổn định, Nhà nước ta ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật hoàn chỉnh mức lạm phát ổn định do đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh . Mặt khác trong những năm gần đây, nhiều hạng mục công trình đã được chính phủ và bộ công nghiệp phê duyệt như Công ty bia Sài Gòn, bia Hà Nộid. Do đó tạo ra khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm- tạo ra sự cạnh tranh lớn- nâng cao hoạt động tiêu thụ.
III.2. Những khó khăn-thách thức đối với hoạt động tiêu thụ bia trong thời gian tới:
- Khó khăn trước hết là bia nằm trong danh sách các mặt hàng không được khuyến khích -lưu thông trên thị trường. Do vậy, nó là một trong số các sản phẩm phải áp dụng biểu thuế tiêu thụ đặc biệt, nên giá thành sản phẩm cao, giá bán cao. Người tiêu dùng biavì thế mà luôn so sánh đồng tiền bỏ ra với những giá trị nhập được. Đó là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm, kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty và khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Mặt khác việc quy định mức thuế tiêu thụ đặc biệt của Nhà nước đối với mặt hàng bia cũng không hợp lý. Trong khi rượu có độ cồn 290 chỉ phải chịu mức thuế thị TTĐB 25%. Trong khi đó, bia có độ cồn 4-50 mà phải chịu mức thuế TTĐB 47%. Hơn nữa, quyết định gần đây về việc không tính thuế TTĐB trên bao bì của rượu đã khiến cho thuế rượu vốn đã thấp hơn bia nay lại càng thấp hơn. Mức thuế này vô hình chung đã khiến người dân uống rượu thay bia. So với các loại nước giải khát thì thuế bia còn bị thiệt thòi hơn. Giá đầu vào 1 lon Vinacola (1 sản phẩm cùng họ với Cola) thấp hơn nhiều so với một lon bia nhưng giá bán lại xấp xỉ. Trong khi đó bia phải chịu thuế TTĐB 47%, còn Cola 6%. Nếu mức thuế công bằng hợp lý hơn, chắc chắn việc tiêu thụ bia tốt hơn và hạn chế được đáng kể số lượng các đơn vị trốn thuế như hiện nay.
Một vấn đề nữa không thể không nói tới là vai trò quản lý Nhà nước trong việc quản lý chất lượng các loại bia (kể cả bia hơi). Bởi các biện pháp mà các doanh nghiệp đang áp dụng như nâng cao chất lượng, hạ giá thành cũng không thể cạnh tranh nổi với các loại bia chất lượng kém, trốn thuế đang lưu hành hiện nay.
- Khó khăn tiếp theo của việc đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ bia là nguyên liệu. Mặc dù trong nước có khả năng sản xuất nhưng các nhà sản xuất bia vẫn phải nhập thường xuyên. Điển hình nhất là vỏ thuỷ tinh+ lon nhôm. Nhưng điều này không có nghĩa là các nhà máy sản xuất bia không muốn hay không thích sử dụng các sản phẩm như vỏ lon nhôm, vỏ chai thuỷ tinh của các nhà máy trong nước sản xuất mà yếu tố quyết định ở đây là giá cả. Trong khi giá mua vỏ lon và chai thuỷ tinh nhập ngoại (tính cả thuế nhập khẩu) lại rẻ hơn các loại vỏ cùng loại sản xuất trong nước thì các nhà máy sản xuất bia chẳng tội gì mà chọn mua hàng nội địa. Công ty bia Đông á, với nhu cầu bia ngày càng gia tăng như hiện nay, từ đầu năm 1997, đang thực hiện đầu tư một dây chuyền mới thứ tư dự kiến phát huy vào năm 1998 để đưa tổng công suất lên 30 triệu lít/năm. Bà NguyễnThị Anh Nhân- Tổng Giám đốc cho biết hiện tại bao bì phục vụ cho sản xuất bia lon cũng như bia chai của nhà máy đều nhập từ nước ngoài về. Vì vậy họ rất mong các doanh nghiệp Việt Nam hoặc các liên doanh sản xuất các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60005.doc