MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Những vấn đề cơ bản về TTNH 2
1. Khái niệm 2
1.1. Ngoại tệ: 2
1.2. Các phương tiện thanh toán quốc tế ghi bằng ngoại tệ, thường gồm có: 2
1.3. Các chứng khoán có giá ghi bằng ngoại tệ như: 2
1.4. Vàng, bạc, kim cương, ngọc trai, đá quý được dùng làm tiền tệ. 2
1.5. Tiền của Việt Nam dưới các hình thức sau đây: 2
2. Đặc điểm của TTNH 3
3. Vai trò của TTNH 3
4. Cấu trúc của TTNH 4
4.1. Các chủ thể tham gia TTNH 4
4.2. Các bộ phận cấu thành TTNH: 5
5. Các nghiệp vụ cơ bản của TTNH: 6
5.1. Giao dịch có kỳ hạn: 6
5.2. Giao dịch hoán đổi ( Swap) 6
5.3. Giao dịch quyền chọn 7
5.4. Giao dịch tương lai 8
6. Các nhân tố tác động tới hoạt động của TTNH 8
II. Thực trạng hoạt động của TTNH ở Việt Nam - Những tồn tại và giải pháp 10
1. Thời kỳ trước năm 1991 10
2. Thời kỳ 1991-1994 12
a. Các chính sách lớn của Chính phủ 13
b. Về phía NHNN: 14
3. Thời kỳ 1994 đến nay: Thay đổi trong cơ chế quản lý ngoại hối 16
4. Những vấn đề tồn tại cần sớm được giải quyết 19
4.1. Cơ chế can thiệp và điều tiết thị trường của Nhà nước vẫn còn những bất cập nhất định 19
4.2. Ngoại tệ trôi nổi ngoài sự kiểm soát: 20
4.3. Tâm lý sùng bái ngoại tệ nặng nề: 21
4.4. Hệ thống Ngân hàng đang trong quá trình tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, công nghệ chưa phát triển, việc thanh toán không dùng tiền mặt chưa được mở rộng, các hoạt động của Ngân hàng chưa thu hút được tối đa lượng ngoại hối có trong dân cư. 21
5. Giải pháp 21
Kết luận 27
Danh mục tài liệu tham khảo 28
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1674 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tìm hiểu về thị trường ngoại hối, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vĩ mô theo một kế hoạch quy mô tập trung toàn quốc. Sự can thiệp này đã ngăn cản khả năng phát huy tác dụng của quy luật cung cầu trên thị trường, nếu có thì cũng bị bóp méo, sai lệch. Hơn nữa, hệ thống các nước XHCN lại áp dụng một chiến lược phát triển kinh tế hướng nội, đóng cửa, các mối quan hệ với bên ngoài đều thông qua hệ thống độc quyền của Nhà nước về ngoại thương và ngoại hối. Do vậy, việc áp dụng chế độ tỷ giá cố định do Nhà nước độc quyền xác định, không cần tính đến những yếu tố cung cầu của thị trường. Với cơ sở kinh tế như vậy, Việt Nam, cũng như các nước XHCN khác đều duy trì phương pháp xác định tỷ giá dựa trên cơ sở so sánh sức mua đối nội và sức mua đối ngoại giữa các đồng tiền và sau đó được quyết định bằng những thoả thuận đa biên trong các Hiệp định thanh toán được ký kết giữa các nước XHCN với nhau. Sản phẩm của cơ chế xác định tỷ giá này là, các nước XHCN duy trì chế độ tỷ giá cố định và đa tỷ giá, bao gồm tỷ giá mậu dịch (hay tỷ giá chính thức), tỷ giá phi mậu dịch ( bao gồm cả tỷ giá kiều hối) và tỷ giá kết toán nội bộ, đồng thời triệt tiêu môi trường và mọi điều kiện để hình thành và phát triển các thị trường nói chung, trong đó có TTNH.
Hậu quả của một cơ chế tỷ cố định và đa tỷ giá mang tính áp đặt bất chấp quy luật cung cầu tiền tệ đã để lại hậu quả hết sức nghiêm trọng. Đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với các đồng tiền tự do chuyển đổi. Tỷ gía chính thức ngày càng chênh lệch xa tỷ giá thực tế, làm cho hoạt động xuất khẩu gặp khó khăn, cán cân thương mại bị thâm hụt nặng. Đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu đã rơi vào tình trạng khó khăn thua lỗ, tuy có chế độ thu bù chênh lệch ngoại thương( lỗ thì ngân sách cấp bù, còn lãi thì nộp ngân sách) nhưng dù sao cũng triệt tiêu động lực phát triển xa hơn.
Ngày 26/3/1988, Nghị định 53/HĐBT ra đời, tách hệ thống Ngân hàng Việt Nam từ một cấp thành hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và hệ thống Ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng Nhà nước là NHTƯ thực hiện chức năng quản lý vĩ mô, ban hành chính sách tiền tệ, tín dụng và ngân hàng; hệ thống Ngân hàng chuyên doanh thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ tín dụng. Bước đầu từng Ngân hàng chuyên doanh hoạt động theo đặc thù gắn liền với từng lĩnh vực kinh tế. Cụ thể là: Ngân hàng Ngoại thương hoạt động về lĩnh vực đối ngoại, như kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế…; Ngân hàng Công thương hoạt động trong lĩnh vực công – thương nghiệp; Ngân hàng nông nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp và Ngân hàng đầu tư hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Như vậy, chỉ duy nhất có Ngân hàng Ngoại thương là được phép hoạt động và kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế và mở tài khoản ở nước ngoài; các ngân hàng khác chỉ được hoạt động trong nước.
Nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới của đất nước, bảo vệ độc lập và chủ quyền về tiền tệ, phát triển nền kinh tế quốc dân, góp phần mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá với nước ngoài, ngày 18/10/1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 161/ HĐBT về “Điều lệ quản lý ngoại hối” của nước CHXHCN Việt Nam, thay thế Điều lệ quản lý ngoại hối Ban hành theo Nghị định số 102/ CP , ngày6/7/1963 của Hội đồng Chính phủ. Sau khi Nghị định 161 ra đời, ngày 15/3/1989 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Thông tư số 33-NH/TT hướng dẫn thi hành. Một trong những quan điểm mới về quản lý và kinh doanh ngoại hối theo tinh thần Nghị định 161 và thông tư 33 có thể nêu ra như sau:
“Nhà nước CHXHCN Việt Nam thông qua NHNN Việt Nam thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về ngoại hối và kinh doanh ngoại hối. Mọi việc kinh doanh ngoại hối đều được thực hiện theo quy định của NHNN Việt Nam. NHNT Việt Nam là cơ quan được phép kinh doanh ngoại hối. Ngoài ra, các Ngân hàng chuyên doanh khác, các Ngân hàng liên doanh với nước ngoài, các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, các tổ chức kinh tế trong nước muốn kinh doanh ngoại hối hoặc dịch vụ thu ngoại tệ đều phải được NHNN Trung ương Việt Nam cho phép”.
Như vậy có thể nói lần đầu tiên ở Việt Nam thế độc quyền trong kinh doanh ngoại hối đã được dỡ bỏ. Từ nay, các NHTM nói chung muốn kinh doanh ngoại hối có thể làm thủ tục để NHNN cấp phép. Đây được xem như sự khởi đầu tạo ra môi trường và điều kiện cho hoạt động của TTNH có tổ chức, hình thành một sân chơi chứa đựng yếu tố cạnh tranh của thị trường. Trong thực tế, trước sự đòi hỏi phát triển các hoạt động ngan hàng, đặc biệt là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. NHNN đã lần lượt cấp giấy phép kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế…cho các NHTM hoạt động ở Việt Nam. Tuy nhiên, về tỷ giá ( yếu tố quan trọng nhất của TTNH), sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài, đặc biệt là sau khi thông qua Luật đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam năm 1987, luồng vốn ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt Nam. Song, do chúng ta vẫn duy trì tỷ giá chính thức do NHNN áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mua thực tế của VNĐ và thị trường tự do. Tỷ giá mua bán của Ngân hàng được phép dựa trên cơ sở tỷ giá chính thức do NHNN công bố cộng trừ 5% và chênh lệch giữa tỷ giá mua bán quy định là 0,5%.
Cho dù có những bước chuyển biến, nhưng ở Việt Nam vẫn thiếu vắng một thị trường ngoại hối chính thức hoàn chỉnh hơn để chắp nối cung cầu ngoại tệ và tạo cơ sơ xác định tỷ giá chính thức một cách khách quan sát với quan hệ cung cầu trên thị trường, nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư nước ngoài và thu hút nguồn lực ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, Thống đốc NHNN đã ra Quyết định số 107-Nh/QĐ, ngày 16/8/1991 ban hành quy chế hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ đã được thành lập và đi vào hoạt động tại TP.HCM và Hà Nội.
2. Thời kỳ 1991-1994
Thời kỳ 1991-1994 là giai đoạn tiếp theo của quá trình chuyển đổi theo hướng thị trường. Trong giai đoạn này đứng về phương diện thanh toán quốc tế, Việt Nam đứng trước một tình thế vô cùng khó khăn. Thị trường với các nước XHCN cũ bị thu hẹp đáng kể, bên cạnh hệ thống thanh toán đa biên bị tan rã, tất cả các nước XHCN đều đồng loạt chuyển đổi đồng tiền thanh toán với Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi( chủ yếu bằng USD). Việc chuyển đổi đồng tiền thanh toán có ảnh hưởng lớn đến khả năng thanh toán của Việt Nam bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Vì từ trước năm 1991, hầu hết nguồn thu ngoại tệ của Việt Nam đều bằng đồng Rúp chuyển nhượng, chỉ có một tỷ lệ nhỏ bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Cán cân vãng lai và cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt lớn, nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu, sự thiếu hụt trong cán cân thương mại được bù đắp bằng các khoản viện trợ, cho vay của các nước XHCN và chủ yếu là Liên Xô cũ.
Đứng trước tình thế hết sức khó khăn về cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế và nhu cầu bức bách về ngoại tệ cho thanh toán quốc tế, một câu hỏi đặt ra là:làm thế nào để giải quyết được vấn đề trên mà không tác động mạnh đến tình hình giá cả và sản xuất trong nước? Xử lý vấn đề này không chỉ có ngành Ngân hàng mà phải có sự phối hợp đồng bộ giữa các chính sách lớn của chính phủ và của từng ngành. Các chính sách đó bao gồm:
a. Các chính sách lớn của Chính phủ
Đề ra 3 chương trình kinh tế lớn mà Chính phủ phải tập trung chỉ đạo, đó là: Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu; Chương trình khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng; và Chương trình tăng cường sản xuất lương thực.
Với 3 chương trình kinh tế mà Đảng và Chính phủ quan tâm chỉ đạo hỗ trợ đắc lực cho cung ngoại tệ của nền kinh tế và giảm nhu cầu chi ngoại tệ tạo nên thế cân bằng cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, đồng thời tạo tiền đề để hình thành và phát triển TTNH sau này.
Chương trình sản xuất hàng xuất khẩu: Đã tạo thêm nguồn thu ngoại tệ vững chắc cho nền kinh tế. Nếu như trước năm 1991 nhập khẩu gấp 3 lần xuất khẩu thì đến năm 1991 xuất khẩu đã tăng lên và liên tục tăng trong các năm như: 1991 là 2.078 triệu USD ; năm 1992 là 2.580 triệu USD; 1993 là 2.985 triệu USD; 1994 là 4.054 triệu USD; 1995 là 5.198 triệu USD và 1996 là 7.330 triệu USD. Hơn nữa, do xuất khẩu tăng khá đã tạo thêm công ăn việc làm, tạo lòng tin cho giới đầu tư nhiều hơn và giảm được áp lực các vấn đề xã hội.
Chương trình khuyến khích sản xuất h àng tiêu dùng:Nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng gia tăng, nếu như trước năm 1991 hàng tiêu dùng của Việt Nam hết sức nghèo nàn và thiếu nghiêm trọng, các nhu cầu tiêu dùng bình thường của người dân như từ xà phòng, thuốc đánh răng hay vải vóc còn phải phân phối. Khi Đảng và Chính phủ thực hiện chính sách mở cửa để khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng như nới lỏng chính sách ngoại thương thì hàng tiêu dùng ngoại tràn vào Việt Nam cũng làm cho nhu cầu về ngoại tệ để nhập khẩu tăng lên. Tuy nhiên, chính sách khuyến khích sản xuất hàng tiêu dùng cũng làm cho nguồn hàng tiêu dùng phong phú giảm sức ép về nhu cầu ngoại tệ nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng.
Khuyến khích sản xuất lương thực: Lương thực đối với nước ta là một mặt hàng chiến lược, quốc kế dân sinh. Trong những năm trước năm 1990 sản xuất lương thực nước ta chưa đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, hàng năm nhà nước phải bỏ ra một lượng ngoại tệ đáng kể để nhập khẩu lương thực cho nhu cầu của đất nước. Từ khi Chính phủ tập trung chỉ đạo và có chính sách khuyến khích lương thực thì nguồn lương thực của Việt Nam đã không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường quốc tế. Việc ta xuất khẩu được gạo đã tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ tăng cung và giảm cầu ngoại tệ của nền kinh tế.
Ngoài 3 chương trình kinh tế lớn tác động tích cực đến cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối thì chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp vào Việt Nam cũng như các nguồn chuyển tiền kiều hối và chuyển tiền đơn phương khác đã làm cho nguồn ngoại tệ của nền kinh tế ngày một tăng.
b. Về phía NHNN:
Là cơ quan được Nhà nước giao cho trọng trách quản lý nguồn ngoại tệ vào và ra của nền kinh tế, phục vụ đắc lực cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước và xây dựng điều hành chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối của Việt Nam. Trong thời gian đó, NHNN đã đề xuất với Chính phủ thành lập Quỹ điều hoà ngoại tệ tại NHNN để tập trung đáp ứng nhu cầu cần thiết của nền kinh tế trong những giai đoạn đầu còn khó khăn và can thiệp TTNH nhằm ổn định tỷ giá. Đồng thời năm 1991 là năm đánh dấu mốc lịch sử về việc hình thành nền móng cho TTNH Việt Nam, đó là việc Thống đốc NHNN ra quyết định số 107-NH/QĐ ngày 16/8/1991 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ (TTGDNT). Trên cơ sở Quy chế này, hai Trung tâm giao dịch ngoại tệ tại TP.HCM và Hà Nội lần lượt ra đời vào tháng 8 và tháng 11/1991. Những nội dung chính của Quy chế tổ chức hoạt động của Trung tâm giao dịch ngoại tệ có thể tóm lược như sau:
Mục đích hoạt động:
Nhằm hình thành một TTNH có tổ chức ở VN. Thông qua hoạt động của TTGDNT. NHNN nắm bắt được thực tế về cung cầu ngoại tệ, đồng thời tăng cường công tác giám sát việc quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ.
Thông qua phiên giao dịch ở trung tâm xác định một tỷ giá hợp lý phản ánh đúng sức mua thực tế của VNĐ
Là bước đệm cho việc thiết lập một thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở VN.
NHNN từng bước bổ sung Quỹ dự trữ ngoại tệ và tiến tới can thiệp thị trường trong cả nước.
Đối tượng tham gia:
Các NH được phép kinh doanh ngoại tệ
Các tổ chức xuất nhập khẩu kinh doanh trực tiếp với nước ngoài các tổ chức, đơn vị kinh doanh dịch vụ thu ngoại tệ.
NHTƯ
Đồng tiền giao dịch: Đô la Mỹ và Đồng VN
Nguyên tắc hoạt động: Theo nguyên tắc đấu giá từ thấp đến cao hoặc ngược lại để đạt được cân bằng cung cầu về ngoại tệ.
Tỷ giá áp dụng: là tỷ giá được ấn định khi đạt được sự cân băng cung cầu về ngoại tệ….
Có thể nói, việc thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ tại ngân hàng Nhà nước và chính phủ uỷ quyền cho thống đốc được toàn quyền điều hành một cách linh hoạt và hiệu quả, một mặt quỹ điều hoà tạo cho NHTƯ một lực thực sự để can thiệp có hiệu quả nhằm ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế về ngoại tệ.
Việc thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ là bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Hai trung tâm này là tiền thân của thị trường ngoại hối Việt Nam ngày nay. Thông qua hoạt động mua bán tại hai trung tâm, với vai trò là người tổ chức và điều hành, NHNN đã kịp thời nắm bắt cung cầu ngoại tệ trên thị trường để điều hành chính sách tiền tệ cũng như tỷ giá phù hợp với tín hiệu thị trường và hướng nhu cầu ngoại tệ vào các mục tiêu thiết yếu của nền kinh tế.
Việc các NHTM và các tổ chức kinh tế có hoạt động ngoại tệ lớn giao dịch tại hai trung tâm là bước tập dượt đầu tiên trong giao dịch mua bán ngoại tệ theo cơ chế thị trường. Tỷ giá VNĐ/USD được hình thành theo quan hệ cung cầu một cách tương đối khách quan. Cách thức giao dịch mua bán ngoại tệ tại hai trung tâm theo phương thức đấu giá. Khi cung lớn hơn cầu thì tỷ giá giảm và ngược lại.
Trong thời kỳ đầu, cung ngoại tệ còn thấp hơn cầu ngoại tệ khá lớn, nếu để tỷ giá hình thành hoàn toàn theo quan hệ cung cầu, thì tỷ giá sẽ biến động rất mạnh, điều này sẽ gây tác động tiêu cực đến hệ thống giá cả, hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư. Vì vậy, thông qua hình thức can thiệp của NHNN, tỷ giá chỉ biến động với một mức độ hợp lý, một mặt vẫn phản ánh xu hướng quan hệ cung cầu nhưng mặt khác không gây những biến động lớn về mức giá cả, đồng thời tạo một tâm lý ổn định cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như dân chúng yên tâm đầu tư và gửi tiền để phát triển kinh tế.
Sau một thời gian dài từ 1991 đến 1993, tỷ giá được duy trì ổn định đã tạo tâm lý ổn định cho thị trường và thu hút được một lượng kiều hối và đầu tư nước ngoài khá lớn vào Việt Nam, mặt khác việc duy trì lãi suất thực dương của VNĐ cao đã khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ để gửi VNĐ. Cả hai yếu tố trên đã đồng thời ảnh hưởng tích cực đến sự ổn định giá trị VNĐ và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia, ổn định giá trị VNĐ không phải chỉ về danh nghĩa mà cả giá trị thực của nó. Việc ổn định tỷ giá có ảnh hưởng tốt đến mặt bằng trong nước dẫn đến chỉ số lạm phát được duy trì ở mức chấp nhận được và có chiều hướng giảm, trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua các năm không ngừng tăng làm cho quan hệ tiền hàng được đảm bảo và giá VNĐ được ổn định và đã tạo ra môi trường ổn định vững chắc cho phát triển kinh tế ở Việt Nam. Giai đoạn đầu khi mới bắt đầu điều hành tỷ giá theo cơ chế thị trường, việc can thiệp của NHNN trên thị trường rất chặt chẽ, tuy nhiên thời gian tiếp theo khi nguồn ngoại tệ vào Việt Nam tăng lên, quan hệ cung cầu không còn khoảng cách quá lớn thì NHNN đã từng bước giảm sự can thiệp và để cho tỷ giá hình thành một cách khách quan hơn theo quan hệ cung cầu.
Từ khi hai trung tâm ra đời thì tỷ giá chính thức của VNĐ được xác định căn cứ vào tỷ giá đóng cửa tại các phiên giao dịch tại hai trung tâm, do đó tỷ giá đã phản ánh trung thực hơn về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, rút ngắn được khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do. Từ đây có thể nói thị trường ngoại hối có tổ chức đã từng bước nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế được thị trường tự do.
Tóm lại, hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tích cực vai trò của mình trong việc điều hoà cung cầu ngoại tệ, tạo ra phương thức kinh doanh giao dịch mang tính thị trường góp phần ổn định tỷ giá, giá cả và kích thích đầu tư tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, với nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu phát triển của thị trường thì hai trung tâm giao dịch ngoại tệ đã bộc lộ những hạn chế không đáp ứng được nhu cầu ngoại tệ của toàn quốc gia, cũng như tính nhanh nhạy kịp thời trong giao dịch và thanh toán của cơ chế thị trường ngày càng sôi động. Thực tế đòi hỏi phải có một mô hình mới linh hoạt hơn, toàn diện hơn cả về chiều rộng lẫn chiều sâu trong phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại Hà Nội và TP HCM. Đứng trước tình hình đó, NHNN đã ra quyết định số 203- QĐ NH9 ngày 20/09/1994 về việc thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và quyết định số 203/QĐ-NH13 ngày 20/9/1994 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
3. Thời kỳ 1994 đến nay: Thay đổi trong cơ chế quản lý ngoại hối
Để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, từng bước thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng Việt Nam trong các hoạt động ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam, tăng cường sự giám sát và quản lý ngoại hối của Nhà nước, chính phủ đã ra nghị định số 63/1998 – NĐ- CP về quản lý ngoại hối, thay thế nghị định số 161-HĐBT ngày 18/10/1988 của hội đồng bộ trưởng ban hành điều lệ quản lý ngoại hối của nước CHXHCN Việt Nam.
Nghị định quản lý ngoại hối đã bổ sung nhiều nội dung mới mà từ trước đến nay chưa có, bao gồm:
Phân định rõ khái niệm về người cư trú và người không cư trú nhằm thuận lợi cho công tác quản lý ngoại hối của nhà nước.
Phân định rõ giao dịch vãng lai với giao dịch vốn.
Quy định cụ thể về việc phát hành giấy tờ có giá ghi bằng ngoại tệ.
Quy định nguyên tắc xác định tỷ giá của VNĐ.
Quy định về việc mở tài khoản ở nước ngoài và việc sử dụng ngoại tệ.
Quy định về việc chuyển ngoại tệ vào và ra khỏi Việt Nam đối với các tổ chức và cá nhân.
Quy định nghĩa vụ bán ngoại tệ và quyền được mua ngoại tệ của các tổ chức.
Quy định cụ thể về việc hoạt động ngoại hối của các TCTD và bàn thu đổi ngoại tệ, quản lý vàng tiêu chuẩn quốc tế…
Có thể nói nghị định quản lý ngoại hối đã đưa ra một khung pháp lý hoàn chỉnh đối với việc quản lý và sử dụng ngoại tệ trong các giao dịch thanh toán quốc tế, đánh dấu một bước tiến trong công tác quản lý và khẳng định mục tiêu quản lý ngoại hối cũng như chủ quyền của đồng Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong những năm gần đây, nhất là năm 2004 và 2005 , TTNH đã đạt được những thành công nhất định, đặc biệt là sự thay đổi cơ bản trong cơ chế quản lý đối với TTNH nhằm tạo tiền đề cho TTNH phát triển. Một thành quả cũng đáng ghi nhận là chính sách tỷ giá và các chính sách về phát triển TTNH đã thiết lập được lòng tin của thị trường. Do có nhiều sản phẩm phòng chống rủi ro về tỷ giá được các TCTD cung cấp cho doanh nghiệp,làm các doanh nghiệp xuất khẩu đã chủ động bán nguồn ngoại tệ của mình cho các Ngân hàng, đồng thời các doanh nghiệp nhập khẩu đã sử dụng các công cụ kỳ hạn để chủ động nguồn ngoại tệ cho kế hoạch nhập khẩu của mình .Quy mô giao dịch trên TTNH cũng không ngừng tăng lên tương ứng với tốc độ tăng trưởng xuất, nhập khẩu, bình quân hàng năm khoảng 15-30% đảm bảo đáp ứng nhu cầu giao dịch của khách hàng. Doanh số giao dịch kỳ hạn cũng không ngừng được tăng lên, tính riêng trong năm 2004 doanh số giao dịch kỳ hạn tăng gấp đôi so với năm 2003. Điều này được thể hiện rõ trong sự biến động tương đối ổn định của tỷ giá USD/VND mặc dù lạm phát tăng cao và tỷ giá đã hỗ trợ đắc lực cho hoạt động xuất khẩu với sự tăng trưởng ngoạn mục. Có thể điểm lại một số thay đổi cơ bản sau đây:
Thứ nhât, về sự xác định tỷ giá kỳ hạn: NHNN cho các TCTD thực hiện giao dịch kỳ hạn từ năm 1998. Các giao dịch kỳ hạn ra đời đã góp phần làm giảm bớt căng thẳng ngoại tệ trên thị trường giao ngay, tạo thêm công cụ để các doanh nghiệp phòng ngừa rủi ro tỷ giá, giúp TTNH Việt Nam từng bước làm quen với các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ mới của thị trường quốc tế. Tuy nhiên thị trường ngoại tệ kỳ hạn tại Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Cụ thể doanh số giao dịch nhỏ, kỳ hạn tập trung chủ yếu vào các kỳ hạn ngắn, cơ cấu giao dịch bất hợp lý (bán ngoại tệ là chủ yếu), đối tượng giao dịch tập trung vào nhiều các NH nước ngoài. Một trong những nguyên nhân cơ bản làm hạn chế các giao dịch kỳ hạn là do việc xác định tỷ giá kỳ hạn chưa theo đúng thông lệ quốc tế mà NHNN tự ấn định các trần kỳ hạn theo các mốc kỳ hạn 30,60,90,180…
Thấy được vấn đề này, ngày 28/5/2004 NHNN đã ban hành quyết định 648/2004/QD-NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của quyết định 679/2002/QĐ-NHNN với nội dung chính cho phép các TCTD được xác định tỷ giá kỳ hạn sẽ do các NHTM tự xác định trên cơ sở lãi suất giữa hai đồng tiền. Phương án này hoàn toàn phù hợp với cơ chế thả nổi của lãi suât . Mỗi NHTM có một mức lãi suất khác nhau, mỗi kỳ hạn lại có một mức trần khác nhau nên để có một cách tính thống nhất, việc xác định điểm kỳ hạn sẽ đựơc tính toán trên cơ sở chênh lệch lãi suất giữa : lãi suất cơ bản của đồng Việt Nam ( do NHNN công bố hàng tháng) và lãi suất cơ bản của cục dự trữ liên bang Mỹ. Đây là hai mức lãi suất cơ bản của hai đồng tiền ( USD và VND) làm cơ sở cho các NHTM Việt Nam và Mỹ đặt mức lãi suất tương ứng cho VNĐ và USD. Đồng thời NHNN cho các TCTD được giao dịch kỳ hạn, hoán đổi giữa đồng VN với ngoại tệ với kỳ hạn từ 3 đến 365 ngày.
Thứ hai, về phát triển TTNH:
Trong năm 2004 NHNN cũng không ngừng hoàn thiện các công cụ thị trường như chỉnh sửa các qui định về giao dịch kỳ hạn theo hướng ngày càng tự do hoá để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, đồng thời tiếp tục bổ sung các điệu kiện thông thoáng về giao dịch hoán đổi để cơ chế tự do hoá lãi suất phát huy tác dụng tạo cung trên thị trường ngoại tệ. Tiếp theo Quyết định số 648/2004/QĐ-NHNN qui định cơ chế tự thoả thuận tỷ giá kỳ hạn giữa NHTM với khách hàng trên cơ sở chênh lệch lãi suất, NHNN cũng cho phép một số Ngân hàng làm thí điểm nghiệp vụ Option ngoại tệ và kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài nhằm tạo điều kiện cho các NHTM tiếp cận với các công cụ mới trên thị trường quốc tế.
Đặc biệt để khắc phục những hạn chế về Quy chế giao dịch hối đoái chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường ngoại hối, như vấn đề cấp giấy phép giao dịch kỳ hạn, hoán đổi phần nhiều còn mang tính hình thức;các loại hình giao dịch còn đơn giản; vấn đề thu phí trong mua bán ngoại tệ chưa hợp lý; các điều khoản trong hợp đồng quá chi tiết và không còn phù hợp với cơ chế thả nổi lãi suất, hạn chế quyền tự chủ của TCTD và khách hàng; các vấn đề về chứng từ trong giao dịch chưa được đề cập đến gây khó khăn cho TCTD và khách hàng trong quá trình thực hiện, ngày 10/11/2004, Thống đốc NHNN đã ký Quyết định số 1452/2004/QĐ-NHNN về giao dịch hối đoái của các TCTD được phép hoạt động ngoại hối khắc phục những hạn chế nói trên và nhằm góp phần thúc đẩy sự phát triển của TTNH Việt Nam. Nhìn chung, Quyết định 1452 đã thể hiện một sự đổi mới trong tư duy quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc đề cao tính tuân thủ thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các công cụ thị trường được phát triển và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh của các tổ chức tín dụng và khách hàng. Điều này thể hiện ở một số điểm mới nổi bật trong quyết định.
Thứ nhất, nghiệp vụ giao dịch phái sinh nói chung và giao dịch kỳ hạn hoán đổi nói chung đều là các nghiệp vụ đã được giao dịch phổ biến trên TTNH quốc tế, vì vậy quyết định mới không qui định chi tiết kỹ thuật tác nghiệp từng giao dịch mà chỉ nêu định nghĩa của giao dịch. Kỹ thuật giao dịch sẽ được các tổ chức tín dụng hướng dẫn khách hàng và thực hiện theo thông lệ quốc tế. Đồng thời chỉ đặt ra nguyên tắc chung cho phương thức giao dịch, thoả thuận hợp đồng, xử lý vi phạm và nhằm đề cao tính tự chủ của TCTD và khách hàng trong quá trình giao dịch.
Thứ hai, cho phép bổ sung thêm loại hình giao dịch quyền lựa chọn tiền tệ, giúp khách hàng có thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá trong hoạt động kinh doanh. Sau một năm thí điểm, nhiều doanh nghiệp đã nhận thức được tính hiệu quả của giao dịch quyền lựa chọn trongviệc phòng ngừa rủi ro tỷ giá. Doanh số giao dịch đến nay đã lên đến xấp xỉ 20 triệu USD. Do vậy, quyền lựa chọn sẽ là một giao dịch tiềm năng tại thị trường Việt Nam trong thời gian tới đặc biệt khi đã được chính thức đưa vào thực hiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu này, quyền lựa chọn mới được thực hiện giữa các ngoại tệ để đảm bảo tính an toàn trong các giao dịch( do có khả năng thực hiện giao dịch đối ứng phòng ngừa rủi ro với nước ngoài.
Thứ ba, quy định rõ trương hợp cần chứng từ khi thực hiện giao dịch song không quy định chi tiết từng chứng từ cần thiết mà chỉ nêu nguyên tắc của chứng từ hợp pháp để đề cao trách nhiệm của các TCTD. Đặc biệt trong phần chứng từ, đã tháo gỡ các vướng mắc cho giao dịch hoán đổi, chuyển đổi ngoại tệ ( cho phép thực hiện không cần chứng từ) để tăng khả năng chu chuyển ngoại tệ nhàn rỗi trong nền kinh tế.
Thứ tư, mở rộng phạm vi giao dịch( cho phép làm kỳ hạn và quyền lựa chọn) cho đối tượng khách hàng là cá nhân là các tổ chức khác nhằm tạo thêm công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá cho các đối tượng này, đồng thời khuyến khích khách hàng bán ngoại tệ cho NH với mức tỷ giá kỳ hạn linh hoạt hơn.
Thứ năm, bỏ giấy phép kỳ hạn hoán đổi, quyền lựa chọn tiền tệ đối với các TCTD được phép hoạt động ngoại hối, coi đây là nội dung của các giấy phép hoạt động ngoại hối.
Với hàng loạt những điểm đổi mới cơ bản về tư duy quản lý theo hướng thông thoáng, linh hoạt hơn và đề cao sự tuân thủ và phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho các công cụ thị trường được phát triển và phát huy quyền tự chủ trong kinh doanh của các TCTD và khách hàng. việc đưa quyết định 1452/2004/QĐ-NHNN của thống đốc NHN
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35726.doc