MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP 3
I. Lý luận chung về đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 3
1. Khái niệm 3
1.1 Doanh nghiệp 3
1.2 Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
2. Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 4
3. Vốn đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 8
Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: 8
4. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 11
4.1 Đầu tư vào tài sản vật chất 12
4.2 Đầu tư vào tài sản vô hình 16
Chương II:THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 23
I. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp Nhà nước 24
1. Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường. 24
2. Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường 25
3. Cơ chế kích thích các DNNN 25
4. Chế độ trách nhiệm 26
II. Tình hình các doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2001-2005 27
1. Giảm doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước 27
2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- con đường dài phía trước 27
2.1) Tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN) 27
2.2) Mô hình công ty cổ phần nhà nước – “bình mới, rượu cũ” 28
3. Từ sắp xếp lại các Tổng công ty đến hình thành các tập đoàn kinh doanh 28
3.1. Sắp xếp lại các Tổng công ty – hai cách đánh giá trái ngược 28
3.2. Hình thành mô hình các tập đoàn kinh doanh ở nước ta 29
4. Giao, bán, khoán và cho thuê DNNN 29
III. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước 31
1. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước 31
2. Thực trạng đầu tư tài sản vốn vật chất 32
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp nhà nước 34
5. Đầu tư vào tài sản trí tuệ 37
6. Đầu tư vào thương hiệu 38
IV. Đánh giá ưu, nhược điểm của hoạt động đầu tư phát triển trong Doanh nghiệp Nhà nước 38
1. Các kết quả tích cực 38
2. Các hạn chế chủ yếu 40
2.1 Quy mô DNNN còn quá nhỏ bé 40
2.2 Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thấp, chi phí sản xuất, giá thành cao 41
2.3 Hiệu quả kinh doanh thấp 41
2.4 Đóng góp của DNNN vào Ngân sách giảm dần 42
2.5 Các vấn đề xã hội 42
Chương III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC 43
1. Đối với bản thân Doanh nghiệp Nhà nước 43
2. Đối với công ty cổ phần 44
3. Đối với nhà nước 45
3.1 Đẩy nhanh việc sắp xếp và đổi mới DNNN: 45
3.2 Đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế 46
3.2.1. Cải cách bộ máy quản lý trong nội bộ doanh nghiệp 46
3.2.2 Hoàn thiện cơ cấu tổ chức hoạt động của DNNN trong cơ chế KTTT 47
3.2.3 Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường 47
3.2.4 Giải pháp đổi mới cơ chế quản lý đầu tư sử dụng vốn nhà nước
KÊT LUẬN 50
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51
53 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2526 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước, Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng nguồn nhân lực
Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
Đầu tư cho hoạt động marketing, xúc tiến hỗn hợp, củng cố uy tín, thương hiệu
Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Đầu tư vào các tài sản vô hình khác
4.2.1 Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo cho các doanh nghiệp dành thắng lợi trong cạnh tranh. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực tạo ra cho doanh nghiệp một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao. Hoạt động đầu tư này rất quan trọng vì chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới tạo cho doanh nghiệp cơ hội ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ mới nhằm tăng năng suất, nâng cao hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nguồn nhân lực có chất lượng cao cũng cho phép công tác tổ chức, quản lý hoạt động của doanh nghiệp trở nên khoa học và hiệu quả hơn.
Như vậy, Bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào đều phải quan tâm đến lao động trong quá trình đầu tư của mình. Việc quan tâm đến lao động trong doanh nghiệp không chỉ về mặt số lượng mà cần quan tâm cả mặt chất lượng. Số lượng lao động ảnh hưởng đến quy mô sản xuất của doanh nghiệp, còn chất lượng lao động ảnh hưởng đến cường độ lao động , năng suất lao động.Việc tăng chất lượng lao động chỉ băng cách đầu tư cho y tế , giáo dục đào tạo, dạy nghề ..Từ đó nâng cao thể lực, trình độ, tay nghề của người lao động .
Trong điều kiện hiện nay nhiều doanh nghiệp coi việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực là chiến lược canh tranh. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bao gồm: Cán bộ quản lí, công nhân sản xuất và cán bộ nghiên cứu khoa học. Đối với từng loại phải có chính sách đào tạo riêng nhưng đều phải liên tục được tu dưỡng rèn luyện nghiên cứu học tập để nâng cao kinh nghiệm, trình độ tay nghề.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bắt đầu từ khâu tuyển người lao động. Đây là cơ sở để có được lực lượng lao động tốt, bởi vậy khâu tuyển người đòi hỏi cần phải rất khắt khe cẩn thận nhất. Tuyển người hiện nay đòi hỏi phải đạt được các yêu cầu như: Trình độ văn hoá, ngoại ngữ, trình độ vi tính… Tiếp đến là quá trình nâng cao khả năng lao động của người lao động thường xuyên. Trong điều kiện đổi mới hiện nay rất nhiều công nghệ hiện đại đã và đang được ứng dụng trong các loại hình doanh nghiệp nước ta. Vì vậy việc đào tạo lao động là yêu cầu vô cùng quan trọng. Cuối cùng là việc khen thưởng tổ chức các hoạt động về tinh thần giúp người lao động hăng say trong công việc từ đó nâng cao năng suất lao động. Các hinh thức khen thưởng đang được thực hiện ở các doanh nghiệp các cá nhân thành viên có thanh tích tốt đều được thưởng xứng đáng góp phần nâng cao trong xí nghiệp , công ty , các cuộc thi các cá nhân …Nhờ có chính sách đào tạo lao động nhiều doanh nghiệp đã đạt được những thanh công to lớn , góp phần không nhỏ trong chiến lược sản xuất kinh doanh cũng như chiến lược cạnh tranh của mình.
Việc trả lương đúng cho người lao động cũng chính là hoạt động đầu tư phát triển. Vì việc trả lượng đúng sẽ gián tiếp thúc đẩy cho các cá nhân người lao động có tiềm lực về thu nhập được trả đúng tự nâng cao trình độ của mình để có được các mức lương cao hơn.
4.2.2 Đầu tư nghiên cứu và triển khai khoa học công nghệ
Cùng với đà phát triển của cơ chế thị trường hiện nay, nhu cầu của con người càng đa dạng, đòi hỏi cao không những về mặt số lượng mà còn về mặt chất lượng. Doanh nghiệp muốn có một chỗ đững vững chắc trên thị trường và nâng cao khả năng với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến, đổi mới sản phẩm, đổi mới phương thức sản xuất, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hoạt động đàu tư nghiên cứu khoa học là thực sự quan trọng, đóng vai trò quyết định sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi vì chỉ có công nghệ mới giúp cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo sức mạnh và vị trí cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hiện tại cũng như tương lai.
Đầu tư nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ có thể là đầu tư nghiên cứu công nghệ mới hoặc là đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn và độ rủi ro cao. Công nghệ được sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm tạo ra. Các chương trình và dự án nghiên cứu và triển khai gắn chặt với chiến lược kịnh doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như các mục tiêu dài hạn vềk inh tế cũng như các ảnh hưởng khác. Vì vậy, đầu tư vào khoa học công nghệ cần phải đầu tư một cách cẩn trọng. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp
4.2.3 Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
Thứ nhất là: đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh nghiệp, sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh, trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp, người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của chính mình, khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế. Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ năng cạnh tranh rất thuần thục, nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc trưng doanh nghiệp
Các kĩ năng này tập trung vào:
Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài nguyên có thẻ sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng. Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và từ đó xây dựng chiến lược Maketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi các tổ chức Maketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
4.2.4 Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Ngoài máy móc thiệt bị thì bí quyết công nghệ là một phần quan trọng của công nghệ. Hiện nay các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến việc mua sắm, đổi mới dây chuyền công nghệ mà không chú ý đến việc đầu tư cho bí quyết công nghệ. Trong khi đó bí quyêt công nghệ có vai trò rất quan trọng. Nó có chứa đựng trong tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất như tổ chức hợp lý hoá, điều hành sản xuất, hệ thống tài chính kế toán, khách hang, thị trường tiêu thụ sản phẩm, đào tạo và thông tin, lập kế hoạch cải tiến công nghệ, sử lý môi trường…
Các công nghệ hiện đại cao thì bí quyết công nghệ lại càng trở lên quan trọng bởi vì mỗi công nghệ đều có cách thức vận hành riêng và có bí quyết sao cho công nghệ hoạt động đạt hiệu quả nhất. Chính vì thế bí quyết công nghệ đóng vai trò quan trọng nó là nhân tố mà các doạnh nghiệp cần phải quan tâm và đầu tư hơn nữa.
4.2.5 Đầu tư vào hoạt động Marketing, xúc tiến thương mại, củng cố uy tín, thương hiệu
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh, hoạt động trong môi trường kinh tế chịu ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô của môi trường đó, nhưng đồng thời hoạt động của các doanh nghiệp cũng tác động ngược trở lại môi trường. Quá trình trao đổi tác động đó ngày càng diễn ra thường xuyên, liên tục, với quy mô càng lớn. Chỉ có marketing mới có vai trò quyết định và điều phối sự kết nối với thị trường, có nghĩa là đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hướng theo thị trường, biết lấy thị trường – nhu cầu và ước muốn của khách hàng làm chỗ dựa vững chắc nhất cho mọi quyết định kinh doanh. Như vậy đầu tư vào hoạt động marketing, doanh nghiệp sẽ tăng cường được vị thế của mình, ngoài ra doanh nghiệp còn xác định được các bước đi tiếp theo trong kế hoạch chiến lược của mình.
Hoạt động đầu tư cho hoạt động marketing bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động quảng cáo: Theo quan điểm của nhà quản lý, quảng cáo là phương sách có tính chất chiến lược để đạt được hoặc duy trì một lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Trong nhiều trường hợp, đầu tư cho quảng cáo là một sự đầu tư dài hạn.
- Xúc tiến thương mại. Trong xu thế kinh tế toàn cầu hiện nay, quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp, các quốc gia ngày càng trở lên mật thiết. Để phát triển, doanh nghiệp cần phải có những biện pháp để thúc đẩy hoạt động thương mại trên những thị trường rộng lớn hơn bằng các.
- Xây dựng thương hiệu. Khi hoạt động các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển thì phải không ngừng đổi mới nâng cao chất lượng của chính doanh nghiệp mình. Mỗi doanh nghiệp phải chiếm được một thị phần nhât định trong tổng cung của toàn nền kinh tế về sản phẩm của mình. Để nâng cao thị phần đó, quảng bá hình ảnh của mình, nâng cao sự ảnh hưởng của doanh nghiệp mình cũng như mở rộng được thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp phải xây dựng tốt nhất thương hiệu của doanh nghiệp mình. Vì thương hiệu chính là bước tiếp cận đầu tiên của thị trường, của người tiêu dung với doanh nghiệp
Đầu tư cho các hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp.
Chương II:
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRONG
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt là những năm gần đây giai đoạn 2000- 2005, Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ngày càng giữ một vai trò vô cùng quan trọng trên mọi phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội:
Vai trò kinh tế: DNNN giúp khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường; đảm nhận các lĩnh vực sản xuất-kinh doanh có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế-xã hội đòi hỏi vốn đầu tư lớn vượt quá khả năng của tư nhân; tham gia vào những lĩnh vực khoa học-công nghệ mũi nhọn, có hệ số rủi ro cao; tham gia vào một số ngành có lợi thế cạnh tranh.
Vai trò chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan trọng liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập kinh tế quốc tế.
Vai trò xã hội: DNNN gánh vác chức năng và vai trò xã hội và khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác, những ngành ở những địa bàn khó khăn có ý nghĩa chính trị-xã hội mà tư nhân không muốn đầu tư, đảm bảo cân bằng về đầu tư phát triển theo vùng, miền, đảm nhận các ngành sản xuất hàng hoá công cộng thiết yếu.
Có được những kết quả như vậy là do hiệu quả của hoạt đông đổi mới hệ thống DNNN đem lại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng về sự đổi mới kéo theo hiệu quả của hoạt động đầu đầu tư trong hệ thống DNNN là rất cần thiết, góp phần đưa ra một cánh nhìn tồng quan về các DNNN Việt Nam hiên nay.
I. Các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp Nhà nước
1. Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường.
DNNN là các cơ sở kinh doanh do nhà nước sở hữư hoàn toàn hoặc một phần. Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là dặc trưng cơ bản nhất, phân biệt DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát của chính phủ bao gồm quyền chủ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh. Do vậy, người quản lý DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay đổi của thị trướng so vơi doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể: Bị chính phủ yêu cầu phải mua hàng hoá sản xuất trong nước, do vậy làm tăng chí phí đầu vào, do công viên chức trong nhà nước nhân số, luôn ổn định cố định nên khó có khả năng thay thế đầu vào về nguồn lao động của mình cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài.
Mặt khác do quyền sở hữu thuộc về nhà nước, là tổ chức không rõ ràng của nhiệm vụ được giao cho các DNNN, trong khi các công ty của khu vực tư nhân lấy lợi nhuận làm mục đích bao trùm thì các DNNN phải hướng vào các mục tiêu khác.
Có thể là các DNNN buộc phải thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi, phải đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do nhà nước yêu cầu, cũng có thể bị yêu cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó hoặc từ những nguồn cho vay trong nước nào đó. Do đó cũng có thể phải đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội.
Bên cạnh đó, sự kiểm soát lỏng lẻo trong khu vực DNNN do sở hữu nhà nước (đôi lúc mang nghĩa vô chủ), vì thế mỗi công nhân, người lao động thường không có mối liên hệ lợi ích đối với DNNN, vì không thấy sự ảnh hưởng nhiều vì thế không có cá nhân nào thấy cần phải có sự giám sát, điều hành, quản lý.
2. Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường
Theo sự phân tích trên, DNNN gần như hoạt động kém hiệu quả so với hoạt động của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, nó vẫn tồn tại và vận động, phát triển trong nền kinh tế.
Ngoài lý do tạo cho chính phủ “một quả đấm mạnh” để giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội to lớn trong những giai đoạn đặc biệt như cạnh tranh, khủng hoảng kinh tế…sự tồn tại và phát triển các DNNN chủ yếu còn do các mục tiêu phi thương mại của chính phủ nhằm điều tiết đời sống kinh tế xã hội. Đó là mục tiêu ngăn chặn ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân trong một ngành công nghiệp nào đó có khả năng gây thiêt hại chung cho xã hội. Đó là mục tiêu phân phối lại thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm và cung cấp hàng hoá cho những thiệt hại kinh tế.
Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu dùng mang tính xã hội không thương mại hoá như giao thông đường thuỷ, những công trình kiến trúc mang tính lịch sử, bảo vệ phong cảnh thiên nhiên…Những sản phẩm náy được coi là thuộc về cộng đồng, chính phủ phải chi phí đảm bảo giao thông đường thuỷ, bảo tồn các di tích lịch sử và phong canh thiên nhiên, khu vực tư nhân không thể cung cấp vì nó không có quyền sở hữu chúng, vì vậy DNNN phải đảm nhiệm.
Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ tầng, tạo cơ sở cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tế trong đó có khu vực tư nhân, sản xuất những hàng hoá này đòi hỏi cũng lớn, vốn thu hồi chậm nên không hấp dân cư, các khu vực tư nhân. Chính vì phái đảm nhận việc cung cấp những loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường được đánh giá thấp hơn thu nhập thực tế, vì không tính đến những lợi ích bên ngoài doanh nghiệp.
3. Cơ chế kích thích các DNNN
Về cơ chế kích thích để nâng cao hiệu quả của các DNNN:
- Trong các doanh nghiệp tư nhân với mục tiêu ưư tiên là lợi nhuận dài hạn thì việc tìm ra được cơ chế kích thích không khó bằng trong DNNN. Lợi nhuận cao thường gắn với lợi ích, thành tích mà cán bộ quản lý, công nhân được hưởng. Bởi vậy do cạnh tranh khốc liệt và quyền lợi được hưởng trực tiêp do lợi nhuận đem lại khiến cho doanh nghiệp tư nhân coi đó là cơ chế kích thich trực thiếp và có hiệu quả. Song, đối với DNNN thì cơ chế kích thích đấy đôi khi không rõ ràng so với doanh nghiệp tư nhân. Bởi do, ngoài mục tiêu lợi nhuận thì những mục tiêu phi thương mại, mục tiêu xã hội. Mặt khác, cơ chể canh tranh giữa các DNNN không khốc liệt như giữa khu vực tư nhân. Do đó hạn chế tính sáng tạo trách nhiệm của các nhà quản lý, làm cho họ ỉ lại, thụ động, kém năng lực quản lý.
Bên cạnh đó do quyền sở hữu trong doanh nghiệp nằm trong tay họ (họ chỉ nắm quyền quản lý mà thôi) cho nên việc làm giàu cho bản thân các nhà quản lý không hấp dẫn so với tham vọng chính trị của họ. Do đó cơ chế kích thích của DNNN còn hạn chế rất nhiều.
4. Chế độ trách nhiệm
Chế độ trách nhiệm của DNNN ít nhất gồm ba khâu:
Thứ nhất: Sự phân quyền và trách nhiệm giữa các ngành của chính phủ có thẩm quyền đối với DNNN (sự phân quyền).
Thứ hai: Đó là hệ thống thông tin trong hệ thống tồn tại mỗi thành viên phải có trách nhiệm báo cáo một cách độc lập và thích hợp, chính xác.
Hệ thống trách nhiệm bao gồm 3 loại thành phần:
- Ban quản trị của DNNN- những người chuyên điều hành hoạt động của doanh nghiệp - là những người am hiểu những vấn đề và những yêu cầu của sự điều hành trong khu vực riêng của họ.
- Là chính phủ - quyết định các mục tiêu dài hạn và mục tiêu phi thương mại.
Thứ 3: là quốc hội-đại diện cho quyền lợi của công nhân quyết định tối hậu về ngân sách và chi ngân sách.
Do vây, 3 hệ thống này hoạt động theo đúng quyền hạn, trách nhiệm của nó, tránh sự hoạt động quá quyền hạn và bộ phận của nó. Hoạt động do quyền hạn chồng chéo đẫn đến sự rối loạn trong điều hành.
II. Tình hình các doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2001-2005
So với tất cả các giai đoạn trước đây, có thể khẳng định giai đoạn từ 2001-2005 là giai đoạn đánh dấu sự thay đổi rõ nét nhất các DNNN và hoạt động của chúng. Trong giai đoạn này, DNNN đã được đổi mới theo các hướng chủ yếu sau:
Giảm doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước
2. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước- con đường dài phía trước
2.1) Tốc độ cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH DNNN)
Bảng 1: Số lượng các DNNN đã Cổ phần hoá
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Số lượng
254
212
140
198
481
830
724
Cộng dồn
370
582
722
920
1.401
2.231
2.955
Kế hoạch
Số lượng
400
450
500
600
700
767
338
Cộng dồn
565
1.015
1.515
2.115
2.815
3.582
3.920
Thực hiện kế hoạch về số lượng
65,49
57,34
48,25
43,55
49,7
62,3
75,38
Nguồn: ThS Phạm Tuấn Anh: CPHDNNN giai đoạn 2001-2005,tạp chí Con số và Sự kiện số 1+2/2006 và các bài có liên quan
2.2) Mô hình công ty cổ phần nhà nước – “bình mới, rượu cũ”
Cơ chế hoạt động của mô hình CTCPNN còn chưa thống nhất và bất cập. Một số DNNN sau khi CPH có tình trạng hiểu sai và làm sai mô hình CTCP, nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động “y như trước”, mô hình tổ chức, tư duy, công nghệ, quản lý và triết lý kinh doanh dập theo bài bản của DNNN.
Khi chuyển sang CTCPNN nhiều cán bộ vẫn còn dè dặt trong cung cách kinh doanh, nhiều cán bộ không đáp ứng được yêu cầu trong môi trường kinh doanh mới theo luật mới quy định.
3. Từ sắp xếp lại các Tổng công ty đến hình thành các tập đoàn kinh doanh
3.1. Sắp xếp lại các Tổng công ty – hai cách đánh giá trái ngược
Đến nay đang tồn tại cả hai đánh giá rất khác biệt về mô hình TCTNN.
Thứ nhất: các đánh giá khả quan. Nhiều tổng giám đốc các TCTNN - những người trực tiếp điều hành hoạt động của các TCTNN cho rằng TCTNN đã:
Thể hiện vai trò nòng cốt, chủ lực, xương sống của nền kinh tế biểu hiện ở việc huy động năng lực sản xuất cao, cung cấp các sản phẩm trọng yếu để xuất khẩu và phục vụ nền kinh tế, không để xảy ra sốt hàng, sốt giá hoặc ứ đọng sản phẩm. Là đầu mối xuất khẩu chính, thu về nguồn ngoại tệ lớn góp phần cân đối ngoại tệ và duy trì sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Có nhiều biện pháp bảo toàn và phát triển vốn. Từng đơn vị đã có vốn để dầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Hỗ trợ chi viện có hiệu quả doanh nghiệp vượt qua khó khăn.
Thứ hai: các đánh giá của những người bên ngoài TCTNN đều là đánh giá không mấy khả quan.
Các kết quả đạt được còn khá khiêm tốn so với mục tiêu đề ra khi thành lập TCTNN. Không thực hiện được mục tiêu từng bước xoá bỏ chế độ bộ và cấp hành chính chủ quan và sự phân biệt doanh nghiệp trung ương và địa phương. Năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh doanh và sức cạnh tranh của các TCTNN còn thấp. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị thành viên ở không ít TCTNN còn rời rạc, chưa tạo lập được thực thể kinh tế thống nhất bằng cơ chế, tổ chức và điều hành. Một số tổng công ty chưa thực hiên tốt vai trò của mình trong bảo đảm cân đối kịp thời nhu cầu của một số mặt hàng thiết yếu trong sản xuất và đời sống; Chưa làm tốt chức năng thị trường, không đủ thực lực làm công cụ điều hành cũng như đầu tư hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp thành viên. Các TCTNN được thành lập khá dàn trải, chưa tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt. Tiêu chí thành lập TCTNN không được tôn trọng. Ngành nào, lĩnh vực nào cũng cố thành lập cho được chí ít 1 tỏng công ty. Quy mô vốn nhỏ: Bình quân 3.900 tỷ/1 tổng công ty, 5/17 tổng công ty có mức vốn dưới 1.000 tỷ.
3.2. Hình thành mô hình các tập đoàn kinh doanh ở nước ta
Đến cuối giai đoạn 2001-2005, Theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ chúng ta đã chuyển đổi 47 TCTNN độc lập có quy mô lớn sang hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh với kiểu tổ chức công ty mẹ - công ty con. Ví mô hình này còn đang trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa có đánh giá cụ thể.
4. Giao, bán, khoán và cho thuê DNNN
Đến tận năm 1999 Chính phủ mới ban hành nghị định về giao, bán, khoán, cho thuê DNNN số 103/199/CĐ-CP đến nay cũng chỉ có 359 DNNN được giao, bán, khoán và cho thuê.
Những hạn chế trong những năm gần đây trong các doanh nghiệp Nhà nước:
- Chất lượng của một số dự án quy hoạch chưa cao, chưa có tầm nhìn xa, quy hoạch chưa phù hợp với cơ chế thị trường, chưa theo kịp với quá trình thay đổi của các yếu tố khách quan. Các dự báo tác động của yếu tố bên ngoài như thị trường thế giới, tiến bộ công nghệ, sự cạnh tranh của các quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm… nên tính định hướng cho doanh nghiệp còn hạn chế. Tính cục bộ, xu hướng khép kín trong quy hoạch đã gây nên sự lãng phí các nguồn lực do sự phát triển chồng chéo dư thừa công suất… hoặc tạo ra độc quyền trong ngành, sử dụng quy hoạch để cản trở thành phần kinh tế khác tham gia. Quy hoạch thường xuyên chưa được cập nhập, bổ xung và điều chỉnh kịp thời, do đó có một số quy hoạch tỏ ra lạc hậu với tình hình thực tế, không đáp ứng nhu cầu, không đủ căn cứ để xây dựng kế hoạch.
- Tình trạng đầu tư dàn trải chưa được khắc phục có hiêu quả. Trong những năm qua mặc dù đã có nhưng tiến bộ nêu trên nhưng tình trạng trong bố trí kế hoạch đầu tư bằng nguồn ngân sách các bộ, ngành và các tỉnh, thành phố vẫn chưa được khắc phục triệt để. Tình trạng này được tích tụ từ nhiều năm trước đây, gây lãng phí lớn dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp. Một số bộ ngành địa phương vẫn chưa chấp hành đúng quy định về quản lý đầu tư và xây dưng, bố trí vốn cho một số công trình, dự án chưa đủ thủ tục về đầu tư.
- Tình hình thất thoát lãng phí còn lớn dẫn đến hậu quả đầu tư chưa cao đang là vấn đề bức xúc. Qua các kết quả kiểm tra như trên ta thấy việc quản lý vốn, đặc biệt là nguồn vốn ngân sách, còn rất yếu kém, thiếu sót dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả.
- Hiệu quả sủ dụng vốn đầu tư chưa cao nhất là vốn ngân sách nhà nước. Cơ cấu đầu tư còn nhiều điểm chưa hợp lý
- Việc giải ngân chậm, nhất là các dự án sử dụng nguồn vốn trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục đã làm chậm đưa các công trình đi vào sử dụng. Mới chỉ chú ý đến đầu tư nhằm phát triển năng lực sản xuất mà chưa chú ý đến đầu ra sản xuất, công nghệ sử dụng, cơ sở hạ tầng…dẫn đến sản phẩm chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh chưa cao.
- Sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển, vốn nhà nước kém hiệu quả, cơ chế quản lý không chặt chẽ dẫn đến tình trạng nợ nần, kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước.
- Tình hình nợ khối lượng các công trình xây dựng cơ bản hoàn thành do chưa có vốn thanh toán diễn ra ở một số bộ, địa phương đang là vấn đề bức xúc.
III. Thực trạng đầu tư phát triển trong doanh nghiệp Nhà nước
1. Hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước
Vốn đầu tư là một nguồn lực quan trọng cho hoạt động đầu tư phát triển. Vì vậy việc sử dụng vốn trong các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là một khâu quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vai trò chủ đạo, dẫn dắt và thu hút các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển.
Kinh tế Nhà nước mà nòng cốt là các DNNN đóng góp khoảng 39 % tổng sản phẩm trong nước. Đến nay, DNNN đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc gia, 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư nhà nước, 60% tổng lượng tín dụng ngân hàng trong nước, hơn 70% tổng vốn vay nước ngoài.
Cơ cấu nguồn vốn phản ánh thành phần, tỷ trọng từng nguồn chiếm trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp tại một thời điểm. Vì vậy vai trò của giám đốc tài chính doanh nghiệp là xây dựng một cơ cấu nguồn vốn tối ưu sẽ đáp ứng được những mục tiêu quan trọng như: Tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, kết hợp hài hoà giưa các nguồn vốn và đảm bảo an toàn tài chính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25095.doc