MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU . 1
B. NỘI DUNG . 3
Phần I: Lý luận chung . 3
I. Đầu tưphát triển . 3
1. Khái niệm . 3
2. Đặc điểm của đầu tưphát triển . 4
3. Vai trò của đầu tưphát triển . 5
4. Nguồn vốn đầu tư. 8
II. Ngành dầu khí và sựcần thiết phải huy động vốn đầu tưvào ngành
dầu khí . 15
1. Đặc điểm của ngành dầu khí . 15
2. Sựcần thiết phải huy động vốn đầu tưvào ngành dầu khí ởViệt Nam . 16
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯVÀO NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY . 18
I. Khái quát thực trạng ngành dầu khí ởViệt Nam hiện nay . 18
II. Tình hình đầu tưvào ngành dầu khí . 21
III. Đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tưvào ngành dầu khí ở
Việt Nam thời gian qua . 23
1. Những kết quả đạt được . 23
2. Những hạn chếcòn tồn tại . 26
PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯVÀO PHÁT
TRIỂN NGÀNH DẦU KHHÍ ỞVIỆT NAM . 29
I. Định hướng phát triển những cơhội và thách thức trong vấn đề
phát triển ngành dầu khí Việt Nam . 29
1. Định hướng phát triển ngành dầu khí Việt Nam trong những năm tới . 29
2. Những cơhội và thách thức trong vấn đềphát triển ngành Dầu khí . 31
II. Yêu cầu đặt ra và giải pháp đểhuy động vốn vào phát triển ngành
dầu khí Việt Nam . 34
1. Những yêu cầu đặt ra đểhuy động vốn có hiệu quả. 34
2. Những giải pháp cơbản đểhuy động vốn vào phát triển ngành dầu khí
ởViệt nam . 35
C. KẾT LUẬN . 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 42
46 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2566 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình đầu tư vào ngành dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thượng nguồn gồm các
hoạt động nghiên cứu địa chất, tìm kiếm, thăm dò, khai thác mỏ. Nhóm
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
trung nguồn gồm các hoạt động tàng trữ vận chuyển, và nhóm hạ nguồn gồm
các hoạt động xử lý, chế biến ( lọc dầu, hoá dầu, hoá khí ) và phân phối. Ba
nhóm này có những đặc điểm riêng nhưng gắn kết với nhau tạo thành một
vòng khép kín của một ngành công nghiệp hoàn chỉnh.
Trong ngành công nghiệp dầu khí để khai thác được một tấn sản phẩm thì
phải mất nhiều năm từ việc thăm dò khai thác, khảo sát địa chất công trình,
thẩm định trữ lượng, đánh giá tiềm năng, phát triển đưa mỏ vào khai thác
cũng phải qua rất nhiều công đoạn. Thêm vào đó điều kiện địa lý thiên nhiên
ngày càng xấu đi, việc khai thác vận chuyển đòi hỏi chi phí tăng nhanh. Nói
cách khác, đối với ngành dầu mỏ càng khai thác được nhiều thì ngày càng
khó khai thác. Một vấn đề nữa của ngành dầu khí là công nghệ rất hiện đại,
vốn đầu tư cực kỳ lớn, rủi ro cao, lợi nhuận nhiều và tính quốc tế cao. Vì các
đặc điểm đó mà cho đến giữa thế kỷ 20, ngành này hoàn toàn nằm trong tay
các nước phát triển cao, cùng các tập đoàn siêu quốc gia mang tính độc
quyền. Cho nên các quốc gia đang phát triển dù có một tiềm năng lớn về tài
nguyên dầu khí thì vấn đề phát triển dầu khí vẫn còn khó khăn.
2. Sự cần thiết phải huy động vốn đầu tư vào ngành dầu khí ở Việt
Nam
Từ nhiều năm nay dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn nhất.
Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan trọng
đối với nền kinh tế nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, đặc
biệt là trong môi trường thềm lục địa và tiềm năng dầu khí của Việt Nam, cơ
hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư có hạn. Vì vậy vấn đề huy động vốn
đầu tư vào phát triển ngành dầu khí không những phục vụ cho lĩnh vực thăm
dò khai thác dầu thô, mà điều quan trọng nữa là chúng ta cần vốn để trang bị
công nghệ, kiến thức tơi tinh lọc dầu. Khi đó mới hy vọng đất nước đi theo
con đường CNH-HDH mà ngành dầu khí là ngành dẫn đầu.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Nếu đặt nền kinh tế Việt Nam trong quỹ đạo kinh tế thế giới: ta thấy hiện
nay năng lượng và nhiên liệu luôn được coi là đầu tàu cho sự phát triển kinh
tế-xã hội, vậy mà vẫn chưa tìm ra một năng lượng, nhiên liệu nào thay thế
than, dầu khí. Dự báo trong vòng 15 năm tơi tiêu thụ dầu mỏ trên toàn thế
giới sẽ đạt mức cao nhất, khoảng 90-95 triệu thùng/ngày, so với hiện tại là
70-77 triệu thùng. Sau đó sẽ giảm dần vì khai thác giảm đi, giá dầu tăng vọt,
các nước có thể rơi vào khủng hoảng năng lượng. Thực tế là hiện nay, giá
dầu thô tăng kỷ lục. Ngày 14/2/2000, giá dầu trên thị trường NewYork tăng
vượt quá mức giá 30USD/ thùng tại thời điểm này năm 1999. Đây là mức
giá cao nhất kể từ cuộc chiến tranh vùng vịnh 1991. Nguyên nhân khiến cho
giá dầu tăng mạnh là do tốc độ phục hồi kinh tế toàn cầu đã đẩy mạnh nhu
cầu sử dụng dầu thô, đặc biệt là ở châu á và Nhật Bản. Dự báo giá dầu thô
vẫn có thể tăng trong thời gian tới.
Chính vì nhu cầu dầu trên thế giới ngày một tăng lên Việt Nam cần có sự
ưu tiên trong vấn đề khai thác dầu khí, nguồn năng lượng mà thiên nhiên ban
tặng.
Một thực tế ở Việt Nam hiện nay trong vấn đề phát triển ngành dầu mỏ
là: Chúng ta chỉ mới tập trung thăm dò và khai thác dầu khí, còn khâu chế
biến thành dầu tinh hầu như ta chưa có khả năng. Một trong những nguyên
nhân của vấn đề này là ta chưa có nguồn vốn đủ lớn để tập trung công nghệ
và trí tuệ chế biến dầu tinh. Mặt khác nếu chỉ riêng vấn đề khai thác thăm dò
và khai thác chúng ta vẫn gặp nhiều trở ngại do thiếu vốn, thiếu máy móc
thiết bị. Vì vậy việc huy động vốn vào ngành dầu khí là việc cần thiết.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
PHẦN II : THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. KHÁI QUÁT THỰC TRẠNG NGÀNH DẦU KHÍ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Ngành dầu khí Việt Nam đến nay về cơ bản đã được xây dựng gần hoàn
chỉnh, bao gồm các hoạt động đầu tư thượng nguồn đến hạ nguồn. Các tổ
chức được xếp vào ngành này hiện ở Việt Nam là:
1. Tổng công ty dầu khí Việt Nam (Petro Vietnam)
2. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (PetroLimex)
3. Công ty xăng dầu hàng không (Vinapco)
4. Công ty dầu khí TPHCM (Saigon Petro)
5. Công ty dầu khí Hà nội (Hanoi Petro)
Trong các tổ chức kể trên chỉ có tổng công ty dầu khí Việt Nam với tiền
thân của nó là “ Tổng cục dầu khí Việt Nam “ hoạt động trong tất cả các
khâu từ nghiên cứu tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, tàng trữ, kinh
doanh dầu thô, khí đốt và sản phẩm dầu khí, dịch vụ dầu khí.
Một thực tế là Việt Nam có một tiềm năng dầu khí không phải là nhỏ.
Cùng với việc công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước, ngành dầu khí Việt
Nam cũng từng bước phát triển. Từ chỗ phải nhập từng lít dầu hoả để thắp
đèn, sau 27 năm thành lập, Tổng cục dầu khí Việt Nam đã đưa ngành công
nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Theo
thống kê của thế giới, nước ta được xếp hạng thứ 35 từ năm 2001 và năm
2002 được nâng thứ 31 trong danh sách các nước sản xuất dầu khí. Như vậy
trong 27 năm từ khi được thành lập đến nay, ngành dầu khí Việt Nam đã có
những bước phát triển to lớn, là một trong những ngành kinh tế hàng đầu của
đất nước, đóng góp đáng kể cho nguồn thu ngân sách của quốc gia, phục vụ
Tích cực cho công cuộc phát triển và đổi mới nền kinh tế Việt Nam.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Ta xem xét tình hình phát triển của ngành dầu khí Việt Nam qua các lĩnh
vực như sau:
Về hoạt động tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí:
“Ở hoạt động tìm kiếm thăm dò” với phương châm chủ yếu là phát huy
Nội lực, kết hợp tăng cường hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư về khoa học và
công nghệ của nước ngoài. Hiện nay, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đang
quản lý giám sát và tham gia hoạt động điều hành 19 hợp đồng trong giai
đoạn tìm kiếm thăm dò, nghiên cứu TM và chuẩn bị phát triển.
Bên cạnh đó, PetroVietnam đã triển khai nhiều dự hợp tác nghiên cứu,
Khảo sát khu vực với các công ty dầu khí nước ngoài để đánh giá tiềm năng
dầu khí tổng thể của Việt Nam, quy hoạch khí tổng thể, nghiên cứu địa lý,
vật lý vùng thềm lục địa Việt Nam... Tổng công ty đã triển khai một số đề án
độc lập đạt kết quả tốt, khẳng định trình độ, khả năng quản lý và điều hành
của mình.
Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát thu thập được tiềm năng dầu khí của
Việt Nam dự báo có khoảng 3-3,5 tỷ tấn dầu quy đổi. Cho đến nay công tác
tìm kiểm thăm dò khai thác dầu khí mới được thực hiện trên 30% diện tích
vùng biển Việt Nam, phát hiện xác minh khoảng 30-35% trữ lượng báo, đảm
bảo cho khai thác với sản lượng 22-24 triệu tấn quý đầu vào năm 2005.
“Ở hoạt động khai thác dầu khí” của Tổng công ty dầu khí Việt Nam
Được duy trì tại 6 mỏ: Bạch Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông, PM3 và
Ruby. Toàn ngành đã đặt mức khai thác 100 triệu tấn dầu vào ngày
13/2/2001. Sản lượng khai thác của xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro năm
2001 đạt 13,46 triệu tấn bằng 105,15% kế hoạch năm.
“Về công nghiệp khí”: Được triển khai tích cực theo quy hoạch tổng thể
Sử dụng khí, nhiều dự án khí sẽ phát huy hiệu quả ngay trong giai đoạn
2001-2005. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng hành vận hành ổn định công
Suất cấp khí đạt 4,8-5,3 triệu m3/ ngày. Năm 2001 đã đưa vào bờ trên 1,7 tỷ
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
m
3
khí đồng hành. Đề án Nam Côn Sơn chính thức phát động cuối tháng
5/2001, hiện đang được triển khai khẩn trương để hoàn thành công trình vào
cuối năm 2002. Dự án đường ống dẫn khí PM3-Cà Mau nhà máy Đạm và
nhà máy Điện Cà Mau đang triển khai các công tác chuẩn bị.
Về lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Trong điều kiện chưa có được nhà máy
lọc dầu và một liên hợp lọc hoá dầu hoàn chỉnh. Tổng công ty Dầu khí Việt
Nam đã triển khai kế hoạch phát triển ngành công nghiệp hoá dầu theo
hướng nhập nguyên liệu trung gian từ nước ngoài để chế biến và sản xuất
các sản phẩm hoá dầu, sau đó dần dần phát triển và tiến tới chuyển sang sử
dụng nguyên liệu trong nước tạo thành một chu trình khép kín từ khâu lọc
dầu đến hoá dầu.
Về các dịch vụ kỹ thuật dầu khí: Trong những năm gần đây, Tổng công
ty Dầu khí Việt Nam đã đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển các dịch vụ
kỹ thuật chuyên ngành và dịch vụ phục vụ sinh hoạt hết sức đa dạng với quy
mô từ thấp đến cao, từng bước vươn lên cung cấp các dịch vụ có hàm lượng
công nghệ cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, mở rộng ra thị trường khu vực và quốc
tế. Mức tăng trưởng của lĩnh vực dịch vụ dầu khí trong giai đoạn 1996-2000
đạt từ 15-20%/năm, doanh số thực hiện khoảng 3000 tỷ đồng.
Về công tác nghiên cứu khoa học và đào tạo cán bộ:
Trong nghiên cứu khoa học; giai đoạn 1996-2000 Tổng công ty Dầu khí
Việt Nam đã thực hiện được 150 đề tài. Nhiều đề án trong lĩnh vực nghiên
cứu địa chất, dầu khí, công nghệ trong các lĩnh vực khoan và khai thác, kỹ
thuật an toàn, bảo vệ môi trường...được đánh giá cao.
Đội ngũ cán bộ khoa học, các nhà quản lý, kỹ sư, công nhân lành nghề
của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đang tự khẳng định năng lực của mình,
đảm nhiệm hầu hết các khâu quan trọng của ngành công nghiệp dầu khí.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Tổng số cán bộ công nhân viên ngành dầu khí đến nay khoảng 14000
người, tỷ lệ cán bộ khoa học công nghệ và công nhân kỹ thuật là khá cao
(chiếm 83%).
II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH DẦU KHÍ.
Từ nhiều năm nay, dầu khí là một trong những ngành đầu tư hấp dẫn
nhất. Kim ngạch xuất khẩu dầu khí chiếm tỷ lệ đáng kể và đóng góp quan
trọng đối với nền kinh tế nhiều nước. Trong lĩnh vực thăm dò và khai thác
dầu khí, đặc biệt là trong môi trường thêm lục địa và tiềm năng dầu khí của
Việt Nam cơ hội đầu tư có nhiều nhưng vốn đầu tư của ta có hạn. Tuy vậy,
đến nay vốn đầu tư vào ngành dầu khí đã đạt mức độ đáng kể.
• Ta xem tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác mỏ, cớ cấu nguồn vốn
thuộc khu vực Nhà nước và nguồn vốn không thuộc khu vực Nhà nước ( bao
gồm vốn khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài).
Qua bảng số liệu các năm sau:
Bảng 2:
(Nguồn niên giám thống kê 2002).
Năm Tổng vốn đầu tư Vốn thuộc khu
vực Nhà nước
Vốn ngoài quốc
doanh
Tỷ
đồng
Cơ
cấu(%)
Tỷ
đồng
Cơ
cấu(%)
Tỷ
đồng
Cơ
cấu(%)
Giá
thực tế
1996 3645 100 1089.8 30 2555.2 70
1997 3788.7 100 1458.8 38.5 2329.9 61.5
1998 4374.6 100 1789.5 40.9 2543.1 59.1
1999 3735.5 100 2492.1 66.7 1243.4 33.3
2000 3688.6 100 2864.5 77.66 824.1 22.34
2001 3737.7 100 2778 74.32 959.7 25.68
1995 4140 100 3080 74.4 1060 25.6
Giá
thực tế
1996 3255.4 100 973 29.9 2282.4 70.1
1997 3221.7 100 1263.4 39.2 1958.3 60.8
1998 3576.8 100 1463.2 40.9 2113.6 59.1
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
1999 2900.5 100 1935.1 66.7 965.4 33.3
2000 2808.3 100 2180.6 77.6 6282 22.4
2001 2845.3 100 2114.7 74.3 730.6 25.7
2002 3143.4 100 2338.6 74.4 804.8 25.6
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: Tổng vốn đầu tư vào ngành khai thác có xu
hướng ổn định đến năm 2002 đã tăng nhanh cho thấy đầu tư vào ngành dầu
khí ngày càng hấp dẫn. Riêng khu vực nhà nước những năm 1995, 1996,
1997 đầu tư vào ngành còn thấp, nhưng đến năm 2002 đã tăng lên nhanh
chóng, cho thấy rằng ngành dầu khí ngày càng được nhà nước quan tâm đầu
tư phát triển, nhất là lĩnh vực khai thác mỏ.
Nhìn chung, ngành dầu khí ngày càng thu hút các nhà đầu tư, đầu tư vào
ngành từ lĩnh vực tìm kiếm thăm dò khai thác dầu khí đến lĩnh vực chế biến,
lọc hoá dầu.
Nếu năm 2000 tổng vốn đầu tư vào ngành dầu khí là 4200 tỷ đồng, thì
năm 2002 tăng lên 5600 tỷ đồng và năm 2002 ước tính trên 700 tỷ đồng,
trong đó, vốn ngân sách lấy từ phần lãi dầu được để lại chiếm 25%, vốn vay
các loại 63% và vốn tự bổ sung 12%.
Một ngành công nghiệp muốn phát triển, nhất là ngành công nghiệp mũi
nhọn như ngành dầu khí rất cần nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Và thực tế, những năm gần đây để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài,
pháp luật Việt Nam đã thông thoáng đối với đầu tư nước ngoài nên vốn FDI
vào lĩnh vực dầu khí tăng nhanh. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư,
vốn FDI thực hiện trong năm 2002 dạt 2345 triệu USD, tăng 2% so với năm
2001. Trong số các ngành kinh tế, ngành công nghiệp dầu khí có số vốn trực
tiếp thực hiện lớn nhất, đạt gần 1 tỷ USD do có nhiều hợp đồng thăm dò khai
thác dầu khí chuẩn bị phát triển mỏ và do dự án đường ống dẫn khi Nam
Côn Sơn với vốn đăng ký 581 triệu USD đi vào giai đoạn kết thúc.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Như vậy: Nguồn vốn huy động được vào ngành dầu khí ở Việt Nam
trong thời gian qua là những con số không nhỏ, từ đó đã mang lại những kết
quả khả quan trong ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp dầu
khí
nói riêng. Song ngành dầu khí như ta đã thấy đặc điểm của công nghiệp dầu
khí là cần vốn lớn, chịu nhiều rủi ro, hơn nữa Dầu khí còn là ngành công
nghiệp mũi nhọn của Việt Nam và tiềm năng vốn có của thiên nhiên ban
tặng. Việt Nam trong thế kỷ 21 này cần có nhiều biện pháp để huy động vốn
vào ngành dầu khí.
II/ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO NGÀNH
DẦU KHÍ Ở VIỆT NAM THỜI GIAN QUA:
1. Những kết quả đạt được:
Trong thời gian qua, ngành dầu khí đã được đầu tư phát triển, nguồn vốn
đầu tư vào không phải là nhỏ. Nhìn chung, các mỏ dầu khí được đầu tư vào
những năm trước đây đã và đang phát huy hiệu quả. Ta có thể thấy kết quả
mà ngành dầu khí đã làm được trong những năm gần đây như sau:
- Trong hoạt động tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí, những năm gần
đây Việt Nam đã ký 43 hợp đồng dưới nhiều hình thức với công ty nước
ngoài (riêng năm 2000 đã ký 6 hợp đồng), thu hút trên 3 tỷ USD vào lĩnh
vực này. Nhiều mỏ dầu và khí có giá trị thương mại đã được phát hiện và
đưa vào khai thác.
- Về hoạt động khai thác dầu khí tính đến ngày 13/2/2001 PetroVietnam
đã khai thác được 100 triệu tấn dầu thô và 50722 tỷ m3 khí, đóng góp đáng
kể cho ngân sách nhà nước (trong giai đoạn 1996-2000 khoảng 5 tỷ USD và
5000 tỷ VND) PetroVietnam được xếp trong số 100 công ty có doanh số bán
ra lớn nhất tại khu vực châu á- Thái Bình Dương (không kể Nhật Bản và
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Trung Quốc). Hiện nay liên doanh Vietsovpetro là đơn vị có sản lượng khai
thác lớn, chiếm trên 80% toàn bộ sản lượng dầu thô và 1,58 tỷ m3 khí đồng
hành.
- Tính đến hết tháng 6/2002, sản lượng khai thác dầu khí đạt 9,505 triệu
tấn dầu thô quy đổi, trong đó 8,423 triệu tấn dầu thô bằng 50,4% kế hoạch
năm, khai thác khí đạt 1082 triệu m3 khí, bằng 54% kế hoạch; xuất khẩu dầu
thô đạt 8,31 triệu tấn, bằng 50,36% kế hoạch, kim ngạch xuất khẩu đạt
256771 tỷ đồng, đạt 56% kế hoạch, nộp ngân sách 13411 tỷ đồng.
Trong lĩnh vực công nghiệp khí. Hệ thống đường ống dẫn khí đồng
hành Bạch Hổ vận hành ổn định, đạt mức công suất thiết kế 6 triệu m3/ngày.
Lượng khí đồng hành đưa vào bờ 6 tháng đầu năm dạt 1082,6 triệu m3. Đề
án khí Nam Côn Sơn đang được triển khai theo đúng tiến độ ở hầu hết các
khâu để công trình hoàn thành vào cuối năm 2002.
Trong lĩnh vực chế biến lọc hoá dầu: Ngoài đề án nhà máy lọc dầu số 1
Dung Quất, đề án Đạm Phú Mỹ (800 000 tấn/ năm) là dự án hoá dầu đầu tiên
và lớn nhất Việt Nam đang được triển khai theo tiến độ nhằm đưa nhà máy
vào hoạt động năm 2004. Đề án lọc dầu số 2 đang được chính phủ xem xét
phê chuẩn báo cáo nghiên cứu tiền khả thi.
Như vậy: Bằng những nỗ lực không nhỏ để huy động vốn đầu tư vào
ngành Dầu khí. Bên cạnh đó nhờ tiếp xúc thường xuyên với các đối tác nước
ngoài và công tác đào tạo cán bộ rất cần được coi trọng, nên PetroVietnam
có thể nói là đơn vị kinh tế hội nhập khá thuận lợi vào ngành dầu khí thế
giới. Trong nhiều năm liên tục công tác tài chính kế toán luôn đạt được
những kết quả cao nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh luôn phát triển vượt
mức kế hoạch đề ra.
Tổng doanh thu của PetroVietnam năm 2001 đạt 50415 tỷ đồng thì năm
2002 đạt 61 000 tỷ đồng, gần tương đương với GDP của TPHCM. Trong số
đó doanh thu từ dầu thô năm 2002 ước đạt 2732 triệu USD, từ kinh doanh
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
sản phẩm khí đạt 3551 tỷ đồng, từ các hoạt động sản xuất kinh doanh khác
đạt 10 861 tỷ đồng và có 5 đơn vị thành viên đạt doanh thu trên 1000 tỷ
đồng/năm. Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu bình quân toàn Tổng công ty đạt
18,8%, đơn vị đạt cao nhất đến 32%. Một chỉ tiêu quan trọng khác để đánh
giá hoạt động của một đơn vị kinh tế là số thu nộp ngân sách. Theo chỉ tiêu
này thì năm 2000 đạt 26616 tỷ đồng, năm 2001 đạt 26 682 tỷ đồng và năm
2002 ước đạt 27 000 tỷ đồng.
Ta có thể thấy tổng doanh thu, nộp ngân sách của ngành dầu khí Việt
Nam từ 1995 đến năm 2001 ở bảng 3a, sản lượng và doanh thu của các sản
phẩm dầu khí từ 1995 đến 2000 ở bảng 3b, để từ đó so sánh qua các năm và
rút ra cho mình những nhận xét về kết quả mà ngành dầu khí Việt Nam đã
đạt được trong những năm qua.
Bảng 3 a:
Năm 1995-
1996
1997 1998 1999 2000 2001
Tổng
doanh thu
trong đó
Triệu
USD
1437 1247 1911 3194 3900
Tỷ
VND
1870 2374 4113 4866
Nộp ngân
sách
trong đó
Triệu
USD
2196 781 692 1030 1778 2300
Tỷ
VND
723 893 906 752
Bảng 3b
Năm Dầu thô Khí đồng hành
1995 Sản lượng 7.7 Triệu tấn 182 Triệu m3
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Doanh thu (USD) 1.03 Tỷ 9.1 Triệu
1996 Sản lượng 8.6 Triệu tấn 274.5 Triệu m3
Doanh thu (USD) 1.35 Tỷ 19.5 Triệu
1997 Sản lượng 9.8 Triệu tấn 527 Triệu m3
Doanh thu (USD) 1.44 Tỷ 41.3 Triệu
1998 Sản lượng 11.8 Triệu tấn 828 Triệu m3
Doanh thu (USD) 1.13 Tỷ 70 Triệu
1999 Sản lượng 14.88 Triệu tấn 1031 Triệu m3
Doanh thu (USD) 2.062 Tỷ 71.16 Triệu
2000 Sản lượng 15.5 Triệu tấn 1400 Triệu m3
Doanh thu (USD) 3.194 Tỷ
Qua bảng số liệu trên ta thấy sản lượng dầu thô và khí đồng hành từ 1995
đến nay liên tục tăng, nếu năm 1995 sản lượng dầu thô là 7,7 triệu tấn thì
đến năm 2000 đạt 15,5 triệu tấn, chỉ trong vòng 5 năm mà sản lượng dầu thô
đã tăng lên gấp đôi. Sản lượng khí đồng hành năm 1995 là 182 triệu m3 thì
chỉ sau 5 năm sản phẩm khí đã tăng hơn gấp 7 lần (14 000 triệu m3). Rõ ràng
nguồn vốn huy động tăng và sử dụng hiệu quả, khi đó sản lượng các sản
phẩm dầu khí mới tăng một cách nhanh chóng như vậy. Và dẫn đến doanh
thu từ ngành dầu khí cũng tăng nhanh, năm 1997 doanh thu là 1 437 triệu
USD nộp vào ngân sách là 781 triệu USD thì đến năm 2001 doanh thu tăng
lên 3 900 triệu USD, nộp vào ngân sách là 2 300 triệu USD.
Để có được những kết quả khả quan như vậy, những năm gần đây ngành
dầu khí không những được sự đầu tư phát triển của Nhà nước để trở thành
một ngành công nghiệp mũi nhọn, mà ngành đã thu hút lượng vốn đầu tư
vào rất lớn, có thể nói là lớn nhất trong các ngành công nghiệp ở Việt Nam.
Thật vậy, theo số liệu của Bộ Kế hoạch & Đầu tư, nguồn vốn FDI năm 2002
đầu tư vào ngành dầu khí chiếm 42,6% tổng nguồn vốn FDI thực hiện. Dẫn
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
đến doanh thu xuất khẩu dầu thô năm 2002 đạt 1/2 tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Đây là một tỷ lệ lớn mà ngành dầu khí đã đóng góp vào nền
kinh tế quốc gia. Với tốc độ thu hút vốn đầu tư và phát triển như hiện nay,
nhất định trong tương lai ngành dầu khí sẽ là ngành công nghiệp mũi nhọn
không thể thiếu được góp phần thực hiện CNH-HĐH của đất nước ta.
2. Những hạn chế còn tồn tại.
Một vấn đề bao giờ cũng có hai mặt của nó, bên cạnh những kết quả to
lớn mà ngành dầu khí đã làm được, vẫn tồn tại những sai sót hạn chế trong
vấn đề huy động vốn vào ngành và đưa ra một số đánh giá sơ bộ về tình hình
phát triển của ngành dầu khí Việt Nam.
Trong vấn đề huy động vốn đầu tư vào ngành, mặc dù những năm gần
đây Nhà nước rất quan tâm đến phát triển công nghiệp dầu khí và tích cực
kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò
khai thác, chế biến dầu khí. Song cần thẳng thắn thừa nhận rằng, môi trường
đầu tư nước ta chưa có sức cạnh tranh so với các nước trong khu vực.
Trong số những mặt tồn tại của môi trường đầu tư Việt Nam có lẽ trước
hết cần nhắc nhở tới sự thiếu quy hoạch dài hạn và rõ ràng về ngành và về
sản phẩm. Từ đó dẫn tới những chính sách hạn chế và thay đổi trong một số
lĩnh vực, rất khó lường trước đối với các nhà đầu tư. Thứ hai là chi phí đầu
tư tại Việt Nam tuy đã có xu hướng giảm xuống, nhưng so với các nước
trong khu vực thì tính cạnh tranh vẫn còn thấp. Thứ 3 là việc hạn chế cho
việc chấp hành luật pháp chưa nghiêm, vận dụng luật pháp chưa nhất quán
giữa các ngành, các cấp. Đặc biệt trong bối cảnh đẩy nhanh tiến trình hội
nhập quốc tế việc am hiểu và vận dụng các điều khoản của các hiệp định
quốc tế song phương và đa phương còn không ít bất cập không chỉ có các cơ
quan địa phương mà còn ở các cơ quan quản lý ở TW. Ngoài ra vẫn còn
không ít vướng mắc liên quan đến chính sách thuế, nhất là thuế tài nguyên
và thuế lợi tức.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Bên cạnh những hạn chế trong môi trường đầu tư của Việt Nam, đã làm
giảm các nhà đầu tư vào Việt Nam. Một hạn chế lớn trong vấn đề huy động
vốn vào ngành dầu khí là: Giá dầu hiện nay đang biến động nên khiến các
nhà đầu tư nước ngoài thường chú trọng đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm khai
thác dầu thô ở Việt Nam rồi mang dầu thô ra nước ngoài tinh lọc hóa dầu.
Ngành dầu khí là ngành cần đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị, đầu tư công
nghệ thì các nhà đầu tư nước ngoài không muốn đầu tư. Còn nguồn vốn
trong nước thì hạn hẹp nên vấn đề huy động vốn vào hệ thống công nghiệp
lọc hoá dầu còn rất hạn chế.
Chính vì thiếu nguồn vốn, hơn nữa nguồn vốn huy động vào ngành sử
dụng không còn phù hợp trong các lĩnh vực của ngành dầu khí, nên ngành
dầu khí nước ta phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của nó.
Một đất nước bán nguyên liệu để nhập thành phẩm là một nước lạc hậu và
Việt Nam đang là nước bán dầu thô để nhập từng lít xăng. Mặc dù đề án lọc
dầu ở Việt Nam được đặt ra từ rất sớm, trước cả khi thành lập Tổng công ty
Dầu khí Việt Nam. Lợi nhuận biên của công nghiệp lọc dầu rất thấp nên việc
huy động vốn nước ngoài gặp nhiều khó khăn. Nhà máy lọc dầu số 1 Dung
Quất, một liên doanh giữa PetroVietnam và Zarubeznheft (Nga) với tỷ lệ
góp vốn 50/50 đã được Bộ Kế hoạch & Đầu tư cấp giấy phép và đi vào hoạt
động từ 28/12/1998 nhưng trong điều hành triển khai gặp nhiều trắc trở nên
chính phủ đã quyết định tự đầu tư từ cuối năm 2002. Vì vậy PetroVietnam
phải phấn đấu nỗ lực rất cao mới hy vọng hoàn thành đúng tiến độ xây dựng
do nhà nước quy định. Dự án khu liên hợp lọc hoá dầu số 2 ở Nghi Sơn-
Thanh Hoá có công suất 7 triệu tấn/năm, báo cáo nghiên cứu khả thi đã được
chính phủ phê duyệt trong tháng 8/2002 nhưng hình thức đầu tư còn chưa
xác định PetroVietnam còn đang trong giai đoạn tìm kiếm đối tác. Do đó
mục tiêu đưa nhà máy này vào hoạt động trong năm 2008 như trước đây đã
công bố có lẽ khó thành hiện thực. Tất cả những điều nói trên có nghĩa là
Việt Nam trong thập niên đầu thế kỷ 21 sẽ vẫn bán dầu thô và nhập sản
phẩm xăng dầu.
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
Trong lĩnh vực hoá dầu cho đến nay mới có hai dự án sản xuất nhựa PVC
công suất 100 000 tấn/ năm và dự án sản xuất DOP công suất 30 000
tấn/năm đã đi vào sản xuất. Còn tất cả các dự án khác, như chế biến
Condensat thành xăng thương phẩm (công suất 270 000 tấn/năm), dự án đạm
Cà Mau, các dự án polypropylen (m3), LAB (công suất 30 000 tấn/năm)...
đều trong giai đoạn triển khai xây dựng hoặc đang lập báo cáo khả thi. Nói
cách khác tất cả đều đang ở phía trước và đang cần nguồn vốn lớn để đầu tư
vào ngành lọc hoá dầu, hy vọng ngành lọc hoá dầu sẽ vươn lên đúng với tầm
vóc mà nó phải có để góp phần vào phát triển ngành dầu khí xứng đáng là
ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Muốn vậy, Việt Nam cần có các
giải pháp cơ bản để huy động vốn và có định hướng để phát triển ngành dầu
khí trong thế kỷ 21 này.
PHẦN III: GIẢI PHÁP NHẰM HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO
PHÁT TRIỂN NGHÀNH DẦU KHÍ Ở VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
TRONG VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DẦU KHÍ VIỆT NAM.
1. Định hướng phát triển ngành dầu khí Việt Nam trong những năm
tới.
Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá các nền kinh tế, việc hội nhập
thành công và phát triển đều tuỳ thuộc vào sự nổ lực vươn lên của từng quốc
gia, từng doanh nghiệp trong nền kinh tế. Nhận thức được điều đó, ngành
Dầu khí đã xác định mục tiêu chiến lược phát triển của mình từ nay đến năm
2020 là: Phấn đấu xây dựng ngành Dầu khí Việt Nam phát triển toàn diện,
xây dựng tổng công ty Dầu khí Việt Nam trở thành một tập đoàn kinh tế
mạnh, hoạt động đa chức năng, tham gia tích cực vào quá trình hợp tác khu
vực và quốc tế, đáp ứng nhu cầu nhiên liệu năng lượng, sản phẩm hoá dầu
§Ò ¸n m«n häc
Vi V¨n HiÖu - §Çu t− 43A
cho nền kinh tế trong thế kỷ 21, đồng thời góp phần v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tình hình đầu tư vào ngành dầu khí Việt Nam.pdf