MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU. 1
B. NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: ODA VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT, SỬ DỤNG ODA. 3
I. Những vấn đề chung về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. 3
1.Khái niệm 3
2. Đặc điểm 3
3.Phân loại: 4
4.Nguồn gốc lịch sử của ODA: 5
5.Vai trò của ODA với các nước đang phát triển: 6
II. Những nhân tố ảnh hưởng. 10
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG THỜI GIAN QUA. 15
I.Thực trạngODA trong giai đoạn 1975- 1993:nguồn vốn ODA. 15
II.Thực trạng ODA ở Việt nam từ năm 1993 trở lại đây 15
III.Tồn tại 18
IV, Tổng kết các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút và sử dụng ODA. 19
1.Công tác đàm phán và chuẩn bị dự án: 19
2.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA. 20
3.Thành tựu trong công cuộc đổi mới. 20
4.Đường lối đối ngoại đúng đắn 21
5. Những thay đổi trong bối cảnh quốc tế và khu vực. 21
V.Tính quy luật , mối quan hệ phổ biến. 22
1.ODA gắn liền với tình hình kinh tế , chính trị ổn định trong nước và khu vực. 22
2.ODA gắn liền với hiêu quả sử dụng 22
3.Đường lối đối ngoại đúng đắn. 22
V. Thu thập số liệu và phương pháp dự dáo. 23
1. Mục tiêu của dư báo. 23
2. Thu thập số liệu. 23
CHƯƠNG III: DỰ BÁO VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ. 25
1.Xây dựng mô hình. 25
2.Đánh giá kết quả dự báo: 26
3.Phân tích đánh giá kết quả dự báo 26
C/ KẾT LUẬN 28
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2921 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua, dự báo và phân tích kết quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu hồi vốn lâu, nhiều rủi ro. Vì vậy các nước gặp nhiều khó khăn trong việc thu hồi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này. Nhiều nước đã tranh thủ được nguồn vốn ODA từ các nước giàu. Trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, đài loan đã nhận viện trợ từ hoa kì tới 1,482 tỷ USD. Vốn viện trợ đã góp phần rất đáng kể cho quá trình đi lên của Đài Loan. Từ một nước nhận viện trợ, những năm gần đây Đài Loan đã trở thành một nước cung cấp viện trợ. Hiện nay Nhật Bản là nhà viện trợ hàng đầu trên thế giới, nhưng trước đây cũng là một nước nhận viện trợ. Năm 1945, ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Nhật Bản đã gặp rất nhiều khó khăn và đã nhận được giúp đỡ của Hoa Kỳ cùng các nước khác trên thế giới, quỹ nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) và các tổ chức của Liên Hợp Quốc bằng thực phẩm, thuốc men, các dịch vụ y tế và một số hình thức khác. Trong nhưng năm 50 nhật bản đã phục hồi với một tốc đọ thần kì. Với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, các tổ chức tài chính quốc tế như WB, nhiều dự án lớn đã được thực hiện: các dự án đường xe lửa cao tốc Shinkansen, những dự án đường cao tốc, các dự án xây dựng đập nước… nền kinh tế Nhật Bản đã phát triển nhanh chóng với sự giúp đỡ của vốn ODA. Đầu những năm 60 nhật bản là nước nhận viện trợ từ WB nhiều thứ 2 trên thế giới. năm 1990 Nhật Bản đã trả nợ xong cho ngân hàng thế giới.
ODA giúp các nước nghèo tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực.
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước nhận tài trợ là công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến hiện đại các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tự cho nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng việc phát triển của một quốc gia quan hệ mật thiết với sự phát triển của nguồn nhân lực. đây mới chính là những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận viện trợ. Những lợi ích này thật khó mà có thể lượng hóa được. hộ tác kỹ thuật của Nhật Bản là một ví dụ rất sinh động về vai trò của hỗ trợ phát triển chính thức trong việc giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học hiện đại công nghệ tiến tiến và phát triển nguồn nhân lực.
ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế.
Do dân số tăng nhanh hơn sản xuất và cung cách quản lý kinh tế tài chính kém hiệu quả các nước đang phát triển mà đặc biệt là các nước Châu Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết các vấn đề này, các quốc gia đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức quốc tế khác tiến hành điều chỉnh cơ cấu. chính sách này dự định chuyển chính sách kinh tế nhà nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân.
Thế giới đã thừa nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển và nhật bản cũng chú trọng loại hình này. Nhật Bản đã tích cực tham gia hỗ trợ cho những cuộc cải cách này. Trong giai đoạn 3 năm từ 1993 đến 1995, Nhật Bản đã giành một khoản viện trợ tổng cộng khoảng gần 700 triệu USD để hỗ trợ điều chỉnh kinh tế của các nước đang phát triển.
ODA góp phần tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư trong nước và các nước đang và chậm phát triển.
Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầ tự vào một nước, trước hết họ quan tâm đến khả năng sinh lợi của vốn đầu tự tại nước đó. Họ cảnh giác với nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư. Một cơ sở hạ tần yếu kém như giao thông chưa hoàn chỉnh thiếu thốn và lạc hậu hệ thống cung cấp năng lượng ko đủ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư về những chi phí mà họ phải trả cho việc sử dụng những tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy, xí nghiệp phải dừng vì mất điện công trình xây dựng phải bỏ dở vì ko có nước…
Như vậy, đầu tư của chính phủ vào việc nâng cấp cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết sức cần thiết nhằm làm cho môi trường đầu tư trở lên hấp dẫn hơn. Nhưng vốn đầu tư cho việc xây dựngcơ sở hạ tầng là rất lớn nhiều trường hợp các nước đang phát triển cần dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. một khi môi trường đầu tư được cải thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI.
Rõ ràng, ngoài việc bản than ODA là một nguồn vốn bổ sung quan trọng cho các nước đang và chậm phát triển, nó còn làm tăng khả năng thu hút vốn từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước góp phần thực hiện thành công chiến lược đối ngoại. Tất cả các nước theo đuổi chiến lược đối ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng kinh tế rất nhanh và biến đổi kinh tế trong nước mạnh mẽ để chuyển từ nước nông công nghiệp thành nước công nông nghiệp hiện đại,có mức thu nhập bình quân đầu người cao
. II. Những nhân tố ảnh hưởng.
Điều kiện để các nước có thể nhận được nguồn vốn ODA:
Vốn ODA chỉ dành riêng cho các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Có hai điều kiện cơ bản nhất để các nước đang và chậm phát triển có thể nhận được viện trợ:
- Điều kiện thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc ( gross domestic product – GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có bình quân đầu người càng thấp thì thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn. khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng đói nghèo thì sự ưu đãi này sẽ giảm đi.
Việt Nam sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình( dự kiến đến năm 2010, GDP bình quân đầu người của Việt Nam sẽ đạt 1.050 USD), các nhà tài trợ sẽ tăng lượng ODA cho vay thay vì ODA ưu đãi như hiện nay. Do đó, Việt Nam cần phải sử dụng tốt hơn nguồn vốn ODA hiện nay.
Điều kiện thứ hai: mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên nhận ODA.
Thông thường, các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý…). Đồng thời, đối tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ thể. Vì vậy phải nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước, các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại trong những điều kiện nhất định, một phần GNP từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển. Như vậy, nguồn gốc thực chất của ODA chính là một phần tổng sản phẩm quốc dân của các nước giàu được chuyển sang các nước nghèo. Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận xã hội từ phía nước cung cấp cũng như từ phía nước tiếp nhận ODA. Vì vậy, chúng ta phải hài hoà quy trình và thủ tục ODA giữa Chính phủ và các nhà tài trợ.
Để thu hút được nguồn vốn ODA từ nhà tài trợ thì Việt Nam phải sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA, có như vậy mới tạo được niềm tin từ phía người cung cấp. Về phía nhà tài trợ cũng đánh giá cao hiệu quả và hiệu suất sử dụng nguồn vốn ODA ở Việt Nam nói chung và từng nhà tài trợ nói riêng. Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia thành công nhất trong số các nước nhận IDA. Trên cơ sở này, ngân hàng thế giới đã đánh giá cao hệ số tin cậy tín dụng của Việt Nam và đã quyết định mở kênh tín dụng mới của ngân hàng tái thiết và phát triển dành cho Việt Nam
Xu hướng vận động của nguồn vốn ODA:
Trong thời đại ngày nay, dòng vốn ODA đang vận động với nhiều sắc thái mới. Đây cũng là một trong nhiều nhân tố tác động đến việc thu hút nguồn vốn ODA.Bởi vậy, nắm bắt được những xu hướng vận động mới này là rất cần thiết đối với các nước nhận viện trợ.
Về số lượng:
Tổng khối lượng của ODA trên thế giới tăng chậm trong những năm 1960. trong những năm 1970 và 1980 viện trợ từ các nước thuộc OECD vẫn tăng liên tục. Đến giữa thập niên 80 khối lượng viện trợ đạt mức gấp đôi đầu thập niên 70. cuối những năm 1980 đến những năm 1990 ODA vẫn tăng nhưng với tỷ lệ thấp. năm 1991, viện trợ phát triển chính thức đã đạt tới con số đỉnh điểm là 69 tỷ USD theo giá năm 1995. Năm 1996, 21 nước tài trợ OECD đã dành 55,114 tỷ USD cho viện trợ, bằng 0,25% tổng GDP của họ và bằng 1,71% tổng chi ngân sách của chính phủ các nước này. Cũng trong năm này tỷ lệ ODA/GNP của các nước DAC chỉ là 0,25%. So với năm 1995, viện trợ của OECD đã giảm 3,768 tỷ USD, tức khoảng 4,2%.
Năm 1995, tại hội nghị cấp cao thế giới về phát triển xã hội, chính phủ các nước đã tự nguyện cam kết thực hiện “ thỏa thuận 2020”. Các nước viện trợ cam kết dành 20% nguồn viện trợ và các nước viện trợ dành 20% chi tiêu công cộng cho các dịch vụ cơ bản.
Năm 1969, DAC đã xác định mục tiêu là các nước phát triển dành 0,7% GNP của nước mình cho viện trợ phát triển của nước ngoài. Tháng 6/1997, tại phiên họp đặc biệt của đại hội đồng Liên Hợp Quốc (UNGASS), các nước thành viên DAC một lần nữa khẳng định cam kết dành 0,7% GNP cho viện trợ. Mặc dù từ đó tới nay có rất ít đạt được mục tiêu này và đã có một số nước giảm khối lượng viện trợ trong những năm qua. Các nước thành viên DAC trừ Hoa Kỳ vẫn tiếp tục khẳng định cam kết này.
Năm 1996, DAC đã công bố một công trình có tiêu đề “kiến tạo thế kỷ 21: cống hiến của hợp tác phát triển”. trong công trình này, các nước thành viên DAC cam kết phấn đấu đạt mục tiêu cụ thể đã dược nhất trí tại hội nghị của Liên Hợp Quốc. Đó là:
- Giảm một nửa tỷ lệ những người đang sống trong cảnh nghèo khổ cùng cực vào năm 2015
- Phổ cập giáo dục tiểu học ở tất cả các nước vào 2015.
- Xóa bỏ sự phân biệt giới tính trong giáo dục tiểu học và trung học vào năm 2005, coi đây là một sự tiến bộ bình đẳng về giới và tăng quyền lực của phụ nữ.
- Giảm 2/3 tỷ lệ tỷ vong ở trẻ sơ sinh và trẻ em dưới 5 tuổi và giảm 3/4 tỷ lệ tỷ vong ở tuổi trưởng thành vào năm 2015.
- Thực hiện các chiến lược quốc gia và toàn cầu vào năm 2000 vì sự phát triển bền vững của tất cả các nước.
Tuy ngày càng nhiều cam kết quan trọng trong quan hệ hỗ trợ phát triển chính thức nhưng nguồn vốn ODA tăng chậm. Liên hợp quốc kêu gọi các nước phát triển phấn đấu đạt tỷ lệ ODA/gnp là 1% trong tương lai nhng các nước phát triển vẫn còn cách xa mục tiêu 0,7% GNP cho viện trợ. Nhật Bản và Hoa Kỳ, hai nhà tài trợ hàng đầu thế giới, từ trước tới nay chưa bao giờ dành 0,35%GNP cho ODA. Nhiều nước đang phải đối mặt với những vấn đề mang tính toàn cầu như dịch bệnh, khủng bố…khiến cho ODA tăng chậm.
Tình trạng tài chính của các nghèo mắc nợ nhiều, khả năng hấp thụ ODA còn hạn chế, thiếu chủ động trong thu hút viện trợ… cũng là nguyên nhân “làm nguội” nhiệt tình của nhà tài trợ. Ngoài ra trên thế giới xuất hiện những quan điểm mới, tiến bộ và hiệu quả ODA. Hiêu quả sử dụng ODA được quan tâm hơn bao giờ hết chứ không phải chú trọng vào số lượng. bởi vậy them một lý do để các nước giàu mở hầu bao của mình một cách thận trọng hơn. Hơn nữa, hiện nay ở nhiều nước, người dân muốn chính phủ giảm bớt ngoại viện để tập trung giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội môi trường trong nước.
Cơ cấu:
- ODA không hoàn lại: không quá 25% tổng vốn ODA cam kết
- ODA ưu đãi: cho vay tín dụng với lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài có xu hướng tăng.
- ODA thường ưu tiên các lĩnh vưc:bảo vệ môi trường,vấn đề phụ nữ, giáo dục, y tế, giao thông, xóa đói giảm nghèo…
Mục tiêu và yêu cầu của các nhà tài trợ ngày càng cụ thể, tuy nhiên ngày càng có sự nhất trí cao giữa nước tài trợ và nước nhận viện trợ về một số mục tiêu và yêu cầu ngầy càng cụ thể hơn. Mục tiêu và yêu cầu ngày cụ thể khiến cho nước nhận viện trợ nhanh chóng xác định khả năng thỏa mãn những vấn đề mà nhà tài trợ đặt ra, đồng thời không lệch hướng trong quá trình thực hiện. Các mục tiêu đạt được sự nhất trí ngày càng cao giữa nhà tài trợ và nước nhận viện trợ là:
- Tạo tiền đề tăng trưởng kinh tế.
- Xóa đói giảm nghèo.
- Bảo vệ môi trường.
- Hỗ trợ khai thác tiềm năng và sử dụng chúng một cách hiệu quả.
Cạnh tranh giữa các nước đang phát triển trong thu hút ODA đang tăng lên:
ODA đang là đối tượng cạnh tranh gay gắt trong các ưu tiên phân phối ngân sách. Nguyên nhân thứ nhất: Do các nước Đông Âu và các nước Cộng Hòa thuộc Liên Xô (cũ) mới trở thành các nước nhận viện trợ. Riêng các nước Trung Á với quy mô khoảng 50 triệu dân và thuộc các nước đang phát triển đã cần đến một khối lượng ODA lớn. nguyên nhân thứ hai là quốc tế đang đặt ra trách nhiệm giúp đỡ các nước đang phát triển giải quyết những vấn đề môi trường toàn cầu như sự thay đổi khí hậu, bảo vệ tầng Ozon, bảo vệ sinh thái, bảo vệ nguồn nước. các nước đang phát triển phải cạnh tranh để nhận được sự giúp đỡ này vì cung cấp ODA nhỏ hơn nhu cầu về vốn ODA rất nhiều. Hơn nữa, vốn ODA dành cho các vấn đề môi trường có một tỷ trọng lớn thường là viện trợ không hoàn lại, các nước đều muốn nhận sụ ưu đãi này. Nguyên nhân thứ ba, gần đây trên thế giới đã xuất hiện một loạt các vấn đề mà giải quyết chúng cần đến những khoản ODA khẩn cấp như: khắc phục chiến tranh, giải quyết mâu thuẫn sắc tộc ở Châu Phi… Trong nhiều năm tới sự cạnh tranh thu hút nguồn vốn bên ngoài vào các nước đang phát triển tiếp tục căng thẳng vì mức cầu dòng vốn này sẽ tăng mạnh trong khi mức cung có thể thu hẹp. tuy nhiên, Việt Nam đang dành được sự quan tâm, ủng hộ của tài trợ quốc tế. theo đánh giá của các nhà tài trợ, trong nhóm có thu nhập thấp, Việt nam đang tiến hành cải cách và bước đầu có những thành công. Việt Nam cần phải tranh thủ khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TRONG THỜI GIAN QUA.
I.Thực trạngODA trong giai đoạn 1975- 1993:nguồn vốn ODA.
Chủ yếu từ các nước Xã Hội Chủ Nghĩa mà lớn nhất là Liên Xô(cũ). Tính đến năm 1990, Việt Nam nhân được12,6 tỷ rúp chuyển nhượng của Liên Xô dưới hình thức tín dụng ưu đãi và viện trợ không hoàn lại. Từ năm 1990, nguồn viện trợ từ các nước thành viên CMEA giảm đột ngột và chấm dứt do Đông Âu tan rã và Liên Xô sụp đổ, giải thể CMEA. Một số công trình đã được xây dựng và phát huy hiệu quả như: nhà máy thủy điện Hòa Bình, nhà máy thủy điện Trị An, nhiệt điện Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, mỏ Apatit Lào Cai, cầu Thăng Long.
II.Thực trạng ODA ở Việt nam từ năm 1993 trở lại đây
Kể từ khi quan hệ tài chính giữa Việt Nam và các tổ chức tiền tệ quốc tế như: IM,ADB,WB( bắt đầu từ khi sự kiện chiến tranh biên giới VIệt Nam – Campuchiaxayr ra năm 1968) lượng vốn ODA cam kết tăng liên tục qua các năm.
Đơn vị: tỷ USD.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
ODA cam
kết
1,81
1,94
2,26
2,43
2,4
2,7
2,91
2,4
2,4
ODA giải
ngân
0,41
0,72
0,74
0,9
1,0
1,24
1,35
1,65
1,5
Năm
2002
2003
2004
2005
Tổng
2006
2007
Tổng
ODA cam
kết
2,6
2,83
3,4
3,5
33,58
3.745
4.445
41,77
ODA giải
ngân
1,55
1,42
1,6
1,7
15,78
1,9
2,0
19.68
Nguồn: bộ kế hoạch- đầu tư.
Mặc dù nguồn vốn ODA của thế giới có xu hướng giảm mạnh nhưng nguồn ODA các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam trong những năm từ 2001 đến 2007 vẫn tăng.
Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ (tháng 11-1993), Việt Nam đã đón nhận được sự cam kết và viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Tổng kết 12 năm chính thức tiếp nhận nguồn vốn ODA, bên cạnh những mặt thành công, thì báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng nhấn mạnh rằng, vai trò cũng như lợi ích mà nguồn vốn ODA đem lại chưa như mong muốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội mà nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.
Theo số liệu thống kê, từ năm 1993 đến hết 2005, số vốn các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam (vốn ODA) là 33,58 tỷ USD, trong đó số vốn đã giải ngân là 15,78 tỷ USD. Đặc biệt trong 5 năm gần đây, nguồn vốn ODA mà các nhà tài trợ cam kết dành cho Việt Nam tăng khá đều, năm 2001 đạt 2,4 tỷ; năm 2002 là 2,6 tỷ; 2003 là 2,83 tỷ, 2004 là 3,4 tỷ và năm 2005 là 3,5 tỷ. Những kết quả này cho thấy sự tin tưởng, đồng tình và ủng hộ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới và các chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Hơn nữa, các nhà tài trợ quốc tế đánh giá rất cao về môi trường phát triển kinh tế-xã hội của nước ta đang ngày một hấp dẫn, thông thoáng với những tiêu chí của một nền kinh tế thị trường.
Thời kỳ 1993-2006 tổng cộng đã có 37 tỷ USD được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam, chiếm 2% tổng ODA toàn cầu. Trong đó, có 22,6 tỷ USD đã được ký kết, bình quân mỗi năm Việt Nam thu hút được 2,5 tỷ USD. Tổng cam kết vốn ODA cho hai năm 2006-2007 lên 8,19 tỷ USD, đạt khoảng 40% dự báo cam kết vốn ODA cho cả hai thời kỳ 2006-2010.
Năm 2007 cũng là năm thứ 3 liên tục kế hoạch giải ngân vốn ODA được thực hiện và vượt kế hoạch đề ra. Dự kiến tổng vốn ODA trong năm 2007 sẽ giải ngân đạt khoảng 2 tỷ USD, vượt khoảng 5% so với kế hoạch đề ra. Mặc dù giải ngân đạt và vượt kế hoạch nhưng so với yêu cầu và nhiệm vụ giải ngân 11,9 tỷ USD vốn ODA của kế hoạch 5 năm 2006-2010 thì trong 2 năm 2006-2007 mới giải ngân được khoảng 3,9 tỷ USD, đạt khoảng 32%. Thực tế này đặt ra bình quân cần giải ngân 2,6-2,7 tỷ USD/năm cho 3 năm còn lại và cần tập trung nhiều biện pháp quyết liệt để đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ giải ngân đã đề ra. Chính phủ dự kiến, tổng vốn ODA được ký kết từ năm 2006-2010 sẽ đạt khoảng từ 20,35- 23,75 tỷ USD. Đặc biệt, chính phủ có kế hoạch mở rộng đối tượng thụ hưởng ODA kể cả các thành phần kinh tế tư nhân 4 năm tới vay thêm 23,7 tỷ USD. Có khoảng 8 tỷ USD là vốn ODA chuyển tiếp từ thời kỳ 2001 – 2005 và từ 12,35 – 15,75 tỷ USD là ký kết mới trong giai đoạn 2006 – 2010. Trong khi đó, tổng nguồn vốn ODA sẽ giải ngân trong thời kỳ 2006 – 2010 dự báo đạt khoảng từ 11,46 – 12,41 tỷ USD.
Trong số ODA đã được ký kết, phần lớn tập trung cho các dự án đầu tư (41%), các dự án hỗ trợ kỹ thuật (23%) và phi hỗ trợ kỹ thuật (20%). Chỉ có 13% vốn giải ngân năm 2005 là dành cho các chương trình viện trợ ngân sách và trợ giúp cán cân thanh toán. Do thu hút tốt nguồn vốn quan trọng này, nên giai đoạn 2001-2005, ODA đã bổ sung khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Nhờ vậy đã góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, thúc đẩy kinh tế phát triển. Nguồn vốn ODA với những ưu điểm như: Quy mô lớn, lãi suất thấp (dưới 3%, trung bình từ 1-2%/năm); thời gian cho vay dài (25-40 năm); có một phần viện trợ không hoàn lại khá lớn, thấp nhất là 25% của tổng số vốn ODA... Thông qua nguồn vốn ODA, nhiều công trình, chương trình đã được xây dựng, triển khai. Đặc biệt có nhiều dự án vốn ODA đã được ký kết thực thi đem tới nhiều ý nghĩa kinh tế-xã hội quan trọng đối với quá trình phát triển đi lên của cả nước, như: góp phần vào sự thành công của chương trình dân số và phát triển; chương trình tiêm chủng mở rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em... nhiều công trình lớn được xây dựng từ nguồn vốn ODA: cầu Mỹ Thuận, cầu Sông Gianh, dự án nâng cấp quốc lộ 1A, dự án thủy lợi Cửa Đạt-Thanh Hóa...
Tuy nhiên, qua những năm thực hiện tiếp nhận nguồn vốn ODA đang nổi lên một hạn chế lớn, đó là: Tỷ lệ giải ngân còn chậm, nên chưa phát huy được hiệu quả tốt nhất lợi thế mà nguồn vốn ODA có được. Chỉ tính riêng trong 5 năm (2001-2005) giải ngân vốn ODA ở nước ta mới đạt khoảng 87% so với kế hoạch đã đề ra.
Được biết, không kể các phần chi phí tại các nước tài trợ và chi cho chuyên gia, năm 2001 chỉ giải ngân được 1,5 tỷ USD, năm 2002 giải ngân được 1,55 tỷ USD, năm 2003: 1,42 tỷ USD, năm 2004: 1,6 tỷ USD, năm 2005: 1,7 tỷ USD.
III.Tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được cung còn nhiều yếu kém trong công tác sử dụng ODA.
Thứ nhất , chậm trễ trong việc giải ngân, làm giảm hiệu quả sử dụng và giảm lòng tin của các nhà tài trợ đối với năng lực tiếp nhận của ta.
Thứ hai, thiếu quy hoạch vận động và sử dụng ODA, các văn bản pháp quy về quản lý và sử dụng ODA còn thiếu tính đồng bộ, nhất quán, minh bạch, nhất là trong các vấn đề liên quan đến quản lý đầu tư và xây dựng, thực thi các văn bản pháp luật về quản lý ODA chưa nghiêm.
Thứ ba, công tác theo dõi và đánh giá dự báo bị buông lỏng. Nhiều cơ quan chủ quan ở Trung ương và các tỉnh chưa quản lý được các dự án của mình. Kỷ luật báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình, dự án thực hiện thiếu nghiêm túc.
Thứ 4, năng lực cán bộ ở các cấp còn nhiều bất cập và thiếu tính chuyên nghiệp trong quản lý và sử dung ODA những yếu kém nêu trên còn có nguyên nhân sâu xa là cơ quan thụ hưởng ODA chưa phát huy đầy đủ vai trò làm chủ trong việc khai thác nguồn lực này phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù của ODA. Điều này thể hiện trong nhiều khâu như: công tác quy hoạch, kế hoạch và điều phối, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ODA công tác huấn luyện và đào tạo về ODA chưa được chú ý đúng mức cũng như trong việc theo dõi, đánh giá dự án.
Nguyên nhân c ủa tình trạng giải ngân chậm.:
+ Nguyên nhân khách quan:
- Thủ tục phức tạp từ phía nhà tài trợ.
- Trình độ và hiểu biết hạn chế của tư vấn nước ngoài: Một số không nhỏ các dự án đầu tư bằng vốn ODA gặp phải tình trạng tuyển dụng các tư vấn quốc tế thiếu kinh nghiệm hiểu biết về các đièu kiện của Việt Nam nên chất lượng thiết kế không đảm bảo dẫn đến hậu quả phải kéo dài thời gian để chỉnh sửa, làm chậm dự án.
+ Nguyên nhân chủ quan:
- Chậm giải phóng mặt bằng.
- Sự khác biệt về quy trình thủ tục giữa các nhà tài trợ và phía Việt Nam.
- Mức quản lý và giám sát thực hiện Dự án của các ban quản lý dự án còn hạn chế.
IV, Tổng kết các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình thu hút và sử dụng ODA.
1.Công tác đàm phán và chuẩn bị dự án:
Thông qua các hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ thường niên ( vào cuối năm), việc đàm phán được diễn ra giữa nước nhận viện trợ là Việt Nam và nước tài trợ được diễn ra, khả năng đàm phán cùng với việc chuẩn bị dự án tốt phù hợp với mong muốn và đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ sẽ góp phần thu hút ODA.
2.Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA.
Trong thời gian qua Việt Nam đã sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA. Cơ sở hại tầng kinh tế - xã hội được cải thiện rõ rệt.. Các nhà tài trợ tin tưởng thì mới tài trợ cho nước mình.
3.Thành tựu trong công cuộc đổi mới.
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, Việt Nam đã hỗ trợ ODA bởi nhiều nhân tố thuận lợi.
Đảng ta và nhân dân ta đã kiên trì thực hiện đường lối đổi mới do đại hội Đảng Cộng Sảng Việt Nam lần thứ VI đề ra và Đại hội VII của Đảng năm 1991 quyết định chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 – 2000. Đại hội VIII năm 1996 quyết định phương hướng nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 1996 – 2000. Đại hội IX đánh giá việc thực hiện chiến lược đó và quyết định chiến lược phát triển 10 năm 2001- 2010: Chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa, xây dựng nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong công cuộc đổi mới Việt Nam có truyền thống ngân sách thận trọng với thâm hụt ngân sách tương đối thấp và tỷ lệ nợ(trong và ngoài nước) trên GDP thấp. Điều này được phản ánh trong mức chi trả nợ lãi trong ngân sách vào khoảng 3% tổng chi tiêu.luật Ngân sách chỉ cho vay nợ cho chi đầu tư phát triển và quốc hội giới hạn thâm hụt ngân sách dưới 5% GDP.
Những thành tựu kinh tế và xã hội đạt được trong sự nghiệp đổi mới đã tạo ra những điều kiện có tính chất nhất định để thu hút ODA trong thời gian qua .Những thành công này của Việt Nam đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với các nhà tài trợ Quốc tế tin tưởng và ủng hộ công cuộc phát triển kinh tế -xã hội của Việt Nam .
Từ năm 1993 trở lại đây ,khối lượng vốn ODA liên tục năm sau cao hơn năm trước.
4.Đường lối đối ngoại đúng đắn
Thực hiện chính sách đối ngoại mở rộng với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, bình đẳng cùng có lợi” ta đã từng bước phá thế bao vây , cấm vận , mở rộng các quan hệ hợp tác với bên ngoài , đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước.
5. Những thay đổi trong bối cảnh quốc tế và khu vực.
- Tháng 10 năm 1993 , sau gần 15 năm ngưng trệ , quan hệ tài chính giữa Việt Nam và IMF,WB, ADB được khai thông.
- Tháng 11/1993, Hội nghị các nhà tài trợ Việt Nam lần đầu tiên đã được tổ chức tại Pari mở ra giai đoạn hợp tác phát triển mới giữa nước ta và các nhà tài trợ Quốc tế .
- Tháng 12/1993, hội nghị các nước thành viên câu lạc bộ Paris ra khuyến nghị xóa và giảm nợ cho Việt Nam.
- Ngày 03/02/1994 , Hoa Kỳ bỏ cấm vận chống Việt Nam .
- Tháng 8/1994, Thượng viện Mỹ bãi bỏ cấm viện trợ cho Việt Nam.
-Tháng 7/1995 , Việt Nam ra nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN).
- Tháng 7/1995, bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt Nam- Hoa Kỳ .
- Tháng 7/1995 Việt Nam đã ký Hiệp định hợp tác khung với Cộng đồng Châu Âu.
- 13/7/2000 , Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký .
- Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO vào đầu năm 2006.
Các sự kiện trên đã tạo ra một môi trường quốc tế thuận lợi cho việc vận động và phối hợp những sự hợp tác Quốc tế cho công cuộc phát tri
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24889.doc