Đề án Tình hình tỷ giá hối đoái với nền kinh tế Việt Nam

 

Lời mở đầu

CHƯƠNG 1

Lí luận chung về Tỷ giá hối đoái

1.1.Khái niệm:

1.2. Phân loại

1.3.Vai trò

1.4.Các phương pháp niêm yết tỷ giá.

1.4.1.Phân loại:

1.4.2.Tỷ giá chéo trong yết giá 2 chiều

1.5.Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái.

1.5.1 Các nhân tố thuộc về dài hạn:

1.5.2. Các nhân tố thuộc về ngắn hạn

CHƯƠNG 2

Chính sách tỷ giá hối đoái

2.1.Tổng quát chung về chính sách tỷ giá hối đoái

2.1.1. Khái niệm chính sách tỷ giá hối đoái:

2.1.2. Mục tiêu, nội dung của chính sách tỷ giá hối đoái.

2.2.Các chế độ Tỷ giá hối đoái

2.2.1.Chế độ tỷ giá hối đoái cố định

2.2.2.Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay):

2.2.3.Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi):

CHƯƠNG 3

Tỷ giá hối đoái với nền kinh tế Việt Nam

3.1.Tình hình phát triển của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.

3.1.1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế.

3.1.2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa.

3.1.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay.

3.2. Mục tiêu cho giai đoạn tới.

3.3.Giải pháp cho giai đoạn tới.

KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

doc69 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3587 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tình hình tỷ giá hối đoái với nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quan hệ qua lại, những mặt tích cực và tiêu cực có thể mang lại cho đời sống kinh tế xã hội, không thể xem xét một cách tách biệt và một chiều. 2.2.Các chế độ Tỷ giá hối đoái 2.2.1.Chế độ tỷ giá hối đoái cố định a.Chế độ đồng giá vàng (1880 - 1932): Sau một quá trình phát triển lâu dài, tiền thống nhất từ các dạng sơ khai thành hai loại: vàng và bạc sau đó cố định ở vàng. Chế độ bản vị vàng là chế độ ở đó, vàng đóng vai trò là vật ngang giá chung, chỉ có tiền đúc bằng vàng hoặc dấu hiệu của nó mới có thể đổi lấy nó. Theo đó, đồng tiền của các nước được đổi trực tiếp ra vàng, tỷ giá hối đoái được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của các đồng tiền, sự so sánh đó được gọi là ngang giá vàng (gold parity). Ví dụ: 1 GBP = 5 USD có nghĩa là: 1GBP có chứa "một hàm lượng vàng" tương đương với 5 lần hàm lượng vàng của 1 USD. Nói cách khác, ngang giá vàng của GBP so với USD là: GBP/USD = 5. Trong chế độ bản vị vàng, khi việc đúc tiền vàng , đổi tiền ra vàng và xuất nhập khẩu vàng được thực hiện tự do thì tỷ giá hối đoái tách khỏi ngang giá vàng là rất ít vì nó bị giới hạn bởi các điểm vàng. Thực hiện xuất nhập khẩu vàng sẽ quay quanh "điểm vàng". Giới hạn lên xuống của tỷ giá hối đoái là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng giữa các nước hữu quan. Điểm cao nhất của tỷ giá hối đoái gọi là "điểm xuất vàng" vì vượt quá giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy ra khỏi nước". Điểm thấp nhất của tỷ giá hối đoái là "điểm nhập vàng" vì xuống dưới giới hạn này, vàng bắt đầu "chảy vào trong nước". Nhờ có đặc điểm trên, chế độ bản vị vàng có tính ổn định cao, tiền tệ không bị mất giá, tỷ giá ít biến động, cán cân thương mại tự động cân bằng. Chế độ này có khả năng tự điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông mà không cần đến sự can thiệp của Nhà nước, do đó nó có tác động tích cực đối với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa trong giai đoạn đầu phát triển. Đây cũng là thời kỳ phát triển rực rỡ của thương mại quốc tế. Tuy nhiên chế độ bản vị vàng tồn tại không lâu. Năm 1914 bắt đầu sụp đổ, và đến cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 1929 - 1933 đã đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ bản vị vàng dưới mọi hình thức và điều đó cũng có nghĩa là đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ tỷ giá hối đoái ổn định và sức mua của đồng tiền được giữ vững. b.Chế độ tỷ giá cố định Bretton Woods (1946 - 1971) Nhằm ổn định lại sự phát triển thương mại quốc tế và thiết lập một trật tự thế giới mới sau thế chiến thứ hai, Mỹ, Anh và 42 nước đồng minh đã họp hội nghị tại Bretton Woods (Mỹ) tháng 7/1944 để bàn bạc xây dựng hệ thống tiền tệ và thanh toán chung. Hội nghị được đánh giá là hội nghị thành công nhất thế kỷ. Tại đây 56 nước ký tên hiệp định chấp nhận thành lập Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB) và một chế độ tỷ giá hối đoái mới. Theo chế độ này, các nước cam kết duy trì giá trị đồng tiền của mình theo đồng USD hoặc theo nội dung vàng trong phạm vi biến động không quá ( 1% tỷ giá đăng ký chính thức tại quỹ. Nếu các nước tự thay đổi tỷ giá mà không được sự đồng ý của IMF thì sẽ bị phạt cấm vận. NHTW các nước phải can thiệp vào thị trường tiền tệ nước mình để giữ cho tỷ giá nước mình không thay đổi bằng cách mua bán đồng USD. Điều này cũng có nghĩa là các nước phải cùng nhau bảo vệ giá trị cho đồng USD. Đổi lại, Mỹ cam kết ổn định giá vàng ở mức 35USD/ounce vàng ( biến động giá cả không quá 24 cent/ounce). USD là đồng tiền chủ chốt số 1 với tiêu chuẩn giá cả 1USD = 0,88714 gram vàng. Trong thời kỳ đầu cứ 1USD giấy phát hành ra đã có từ 4 đến 8 USD vàng bảo đảm. Lượng vàng đảm bảo đồ sộ như vậy nên cả thế giới tư bản chỉ lo có vàng để đổi lấy USD mà mua hàng Mỹ chứ không quan tâm đến việc USD có đổi lấy vàng được không. Chính vì vậy, các nước có xu hướng chuyển đổi từ dự trữ vàng sang dự trữ USD để tiết kiệm chi phí. USD đã trở thành tài sản dự trữ quốc tế của các nước vì Mỹ cam kết với các NHTW rằng sẽ chuyển đổi không hạn chế USD ra vàng. Các nước ngày càng mở rộng thương mại với Mỹ, gia tăng dự trữ USD của họ, khiến cho sức hút USD ra ngoài ngày càng tăng. Trong 25 năm độc quyền phát hành tiền tệ, Mỹ đã lợi dụng đồng USD để thu hút của cải các nơi trên thế giới về tay mình. Hàng trăm tỷ USD được thả lang thang đi khắp các nước mà không có gì bảo đảm, gây ra lạm phát USD. Chế độ Bretton Woods ngày càng bộc lộ những hạn chế mà bản thân nó không tự khắc phục được: - Dự trữ không tương xứng do quy mô thương mại quốc tế ngày càng tăng gắn liền với những dòng vận động tiền tệ lớn - Các cuộc khủng hoảng có nguyên nhân đầu cơ: Khi có sự thay đổi về mức giá cả tương đối giữa các đồng tiền làm cho một số đồng tiền được đánh giá quá cao hoặc quá thấp. Vì tỷ giá là luôn cố định, việc các nhà đầu cơ mua, bán lượng tiền lớn khiến cho NHTW phải chi tiêu những lượng ngoại tệ lớn để cố gắng duy trì tỷ giá đã định theo thoả ước cho đến khi nó được thay đổi. - Sức ép từ tương quan thực tế giữa các đồng tiền: Sự tăng trưởng khác nhau về xuất nhập khẩu cũng như tỷ lệ lạm phát rất chênh lệch giữa các nước và hàng loạt các nhân tố tác động khác đã làm cho có sự thay đổi tương đối về giá trị tương đối giữa các đồng tiền xét về dài hạn. Vì vậy, một số nước đã xin thay đổi lại tỷ giá, gây sức ép cho tỷ giá cố định. Vào những năm 60, bối cảnh kinh tế xã hội có nhiều thay đổi, khoa học kỹ thuật phát triển làm cho các nước phục hồi kinh tế, thế giới chia làm 3 cực: Mỹ, Nhật và Tây Âu. Do đó, các nước đã xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ và Mỹ trở thành nước nhập siêu. Về phía mình, hàng hoá Mỹ không còn sức hấp dẫn như trước làm cho cán cân thương mại Mỹ thường xuyên thâm hụt, dự trữ vàng ngày càng giảm, nợ nước ngoài tăng, USD mất giá nghiêm trọng. Thêm vào đó Mỹ sa lầy vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam và một số nước khác khiến chính phủ Mỹ chi tiêu ngày càng nhiều tiền. Các nước khủng hoảng lòng tin với USD, đã chuyển đổi USD dự trữ ra vàng, làm cho dự trữ vàng của Mỹ giảm sút nhanh chóng. Trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và thế giới, tổng thống Mỹ Nixon sau 2 lần tuyên bố phá giá: Lần 1(tháng8/1971) 1USD = 0,81gram vàng ròng và 42 USD = 1ounce vàng, lần 2 (tháng 3/1973) 1USD = 0,7369 gram vàng ròng và 45 USD = 1 ounce vàng. Đồng USD bị phá giá (-10%) thì chế độ tỷ giá hối đoái cố định Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ. c.Nhận định chung về chế độ tỷ giá cố định: Đây là chế độ tỷ giá hối đoái mà ở đó Nhà nước, cụ thể là NHTW tuyên bố sẽ duy trì tỷ giá giữa đồng tiền của quốc gia mình với một hoặc một số đồng tiền nào đó ở một mức độ nhất định. ở đây, NHTW đóng vai trò điều tiết lượng dư cầu hoặc dư cung về ngoại tệ để giữ tỷ giá hối đoái cố định bằng cách bán ra hoặc mua vào số dư đó. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá cố định: + Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế vì nó mang lại một môi trường ổn định, thuận lợi, ít rủi ro cho các hoạt động kinh doanh. + Buộc các chính phủ phải hoạch định và thực thi các chính sách vĩ mô. + Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tránh những xung đột về mục tiêu chính sách và những biến động về tỷ giá. - Hạn chế của chế độ tỷ giá cố định: + Thường chịu sức ép lớn mỗi khi xảy ra các cơn sốc từ bên ngoài hoặc từ thi trường hàng hoá trong nước, bởi khi đó mức chênh lệch thực tế quá lớn về giá trị giữa nội tệ và ngoại tệ sẽ dẫn đến phá vỡ mức cân bằng tỷ giá. + Chế độ tỷ giá cố định làm mất tính chủ động của chính sách tiền tệ, khiến cho NHTW gặp khó khăn trong việc thay đổi lượng tiền cung ứng. + Đặc biệt, nó làm cho các quốc gia dễ rơi vào tình trạng "nhập khẩu lạm phát" không mong muốn. 2.2.2.Chế độ tỷ giá thả nổi (từ năm 1973 đến nay): Sau thất bại của hệ thống tỷ giá hối đoái Bretton Woods, vào tháng 7/1976, tại hội nghị Jamaica, các thành viên của IMF đã thống nhất đưa ra những quy định mới cho hệ thống tiền tệ quốc tế. Đó là "tỷ giá linh hoạt" hay "tỷ giá thả nổi" được các thành viên IMF chấp nhận. Theo chế độ mới, tỷ giá được xác định và vận động một cách tự do theo quy luật thị trường mà cụ thể là quy luật cung - cầu ngoại tệ. NHTW các nước không có bất kỳ một tuyên bố hay cam kết nào về chỉ đạo, điều hành tỷ giá. - Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi: + Giúp cán cân thanh toán cân bằng: Giả sử một nước nào đó có cán cân vãng lai thâm hụt khiến nội tệ giảm giá. Điều đó thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu cho đến khi cán cân thanh toán trở nên cân bằng. + Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ. + Góp phần ổn định kinh tế, tránh được những cú sốc bất lợi từ bên ngoài, vì khi giá cả nước ngoài tăng sẽ làm cho tỷ giá tự điều chỉnh theo cơ chế PPP để ngăn ngừa các tác động ngoại lai. - Nhược điểm: + Là nguyên nhân gây nên sự bất ổn do các hoạt động đầu cơ làm méo mó, sai lệch thị trường, có khả năng gây nên lạm phát cao và tăng nợ nước ngoài. + Hạn chế các hoạt động đầu tư và tín dụng do tâm lý lo sợ sự biến động theo hướng bất lợi của tỷ giá. Khi mới ra đời, chế độ tỷ giá thả nổi tự do được cho là phương thức hữu hiệu vạn năng cho sự phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, thực tế chứng minh rằng, càng thả nổi tỷ giá thì sự phát triển kinh tế càng kém ổn định. Bởi lẽ, biến động của tỷ giá rất phức tạp, chịu tác động của nhiều nhân tố kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội... đặc biệt là nạn đầu cơ. Trên thực tế thì lại không có thị trường thuần tuý nên không thể có một chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá hối đoái có những diễn biến thuận lợi hơn nên chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý ngày càng được nhiều quốc gia lựa chọn đặc biệt là các nước đang phát triển. 2.2.3.Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý (bán thả nổi): Đây là chế độ tỷ giá hối đoái có sự can thiệp của hai chế độ cố định và thả nổi. Ở đó, tỷ giá được xác định và hoạt động theo quy luật thị trường, chính phủ chỉ can thiệp khi có những biến động mạnh vượt quá mức độ cho phép. Có 3 kiểu can thiệp của chính phủ: - Kiểu can thiệp vùng mục tiêu: Chính phủ quy định tỷ giá tối đa, tối thiểu và sẽ can thiệp nếu tỷ giá vượt quá các giới hạn đó. - Kiểu can thiệp tỷ giá chính thức kết hợp với biên độ dao động: Tỷ giá chính thức có vai trò dẫn đường, chính phủ sẽ thay đổi biên độ dao động cho phù hợp với từng thời kỳ. - Kiểu tỷ giá đeo bám: Chính phủ lấy tỷ giá đóng cửa ngày hôm trước làm tỷ giá mở cửa ngày hôm sau và cho phép tỷ giá dao động với biên độ hẹp. Hiện nay, chế độ tỷ giá "bán thả nổi" có nhiều tính ưu việt hơn và được nhiều nước sử dụng, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là "thả nổi" ở mức độ bao nhiêu nên gần với thả nổi hay gần với cố định hơn? biên độ dao động là bao nhiêu? Rất khó để đưa ra một câu trả lời chung cho mọi quốc gia mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện thực tiễn và mục tiêu của từng quốc gia theo đuổi. Nhìn chung, đối với các nước kinh tế đang phát triển trong đó có Việt Nam, với một hệ thống công cụ tài chính còn nhiều yếu kém, sự phối hợp giữa các chính sách còn thiếu đồng bộ, đồng tiền yếu và dự trữ ngoại tệ còn hạn hẹp thì tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý tỏ ra là một chính sách hợp lý nhất. CHƯƠNG 3 Tỷ giá hối đoái với nền kinh tế Việt Nam 3.1.Tình hình phát triển của tỷ giá hối đoái ở Việt Nam. 3.1.1. Sự hình thành và vận động của tỷ giá cùng chính sách TGHĐ trong giai đoạn trước tháng 3/1989 thời kế hoạch hoá , tập trung kinh tế. Năm 1950 được coi như là một cái mốc khi mà Trung Quốc, Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội Đông Âu thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam, đặt nền móng đầu tiên cho việc hình thành các quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và các nước.Từ ngày 25.11.1955, tỷ giá chính thức được quy định giữa đồng Việt Nam(VND) và nhân dân tệ Trung Quốc(CNY) là 1 CNY=1470 VND. Vào thời điểm này, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô là 1 SUR = 735VND. Đến đầu năm 1961 tỷ giá giữa đồng Việt Nam và Rup của Liên Xô được điều chỉnh lại là 1SUR=3,27VND. Năm 1977, các nước XHCN thoả thuận thanh toán với nhau bằng tiền Rup chuyển nhượng. Bên cạnh tỷ giá Nhà nước còn sử dụng tỷ giá kết toán nội bộ. Tháng 3.1989 thì huỷ bỏ chế độ kết toán nội bộ này. Sau khi bắt đầu có chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài năm 1985, nhất là khi Việt Nam thông qua luật đầu tư nước ngoài vào năm 1987, thì vấn đề luồng ngoại tệ bằng Dola Mỹ vào Việt Nam phải được tính đến. Và TGHD chính thức giữa đồng Việt Nam và Dola Mỹ đã được xác định một cách chủ quan theo tỷ giá hiện tại giữa đồng Việt Nam và đồng Rup. Với việc thực hiện tỷ giá kết toán nội bộ, mức tỷ giá chính thức thường cố định trong thời gian tương đối dài và thấp hơn rất nhiều so với mức tỷ giá trên thị trường. Tình hình này dẫn đến một thực trạng là những địa phương, những ngành nghề nào đó càng xuất khẩu nhiều thì ngân sách Nhà nước càng phải bù lỗ nhiều. Nếu bù lỗ không đủ hay chậm trễ sẽ dẫn đến tình trạng nợ chồng chất lẫn nhau và thiếu vốn kinh doanh. Bên cạnh đó, do tỷ giá chính thức quy định thấp, các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ lại tìm cách không bán cho ngân hàng, các tổ chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng hạn chế việc chuyển tiền vào tài khoản ở ngân hàng để chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào hay sử dụng trực tiếp tiền mặt trên thị trường. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho Nhà nước vừa làm phát sinh những tiêu cực trong đời sống kinh tế xã hội, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động phi pháp và chính điều này tác động ngược trở lại làm tình hình tỷ giá trong thị trường càng diễn biến phức tạp. Tóm lại, TGHD được xác lập và vận hành ở Việt Nam trong giai đoạn trước tháng 3/1989 là một hệ thống khá phức tạp, được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do Nhà nước quyết định, không xuất phát từ luật thực tại trong nền kinh tế trong và ngoài nước mà hậu quả là làm cho việc tính toán,phản ánh thu chi ngân sách Nhà nước bị sai lệch, công tác điều hành ngân sách Nhà nước gặp khó khăn, cản trở các quan hệ kinh tế cả trong và ngoài nước. Đây cũng là vừa một biểu hiện và cũng vừa là kết quả của một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. 3.1.2. Sự vận động của tỷ giá và chính sách TGHĐ từ tháng 3/1989 đến nay, thời kì nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. a. Giai đoạn từ 1989-1992. Giai đoạn này có thể được coi là cái mốc quan trọng trong phát triển TGHĐ ở nước ta khi quan hệ ngoại thương được bao cấp với các thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô(cũ) bị gián đoạn, khiến chúng ta phải chuyển sang buôn bán với khu vực thanh toán bằng dola Mỹ. Kể từ đó cơ chế tỷ giá ổn định đã được thay thế dần bằng cơ chế Nhà nước điều tiết theo quan hệ thị trường. Để đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ như ngày nay, cơ chế quản lý ngoại tệ nói chung, quản lý hối đoái nói riêng đã trải qua những điều chỉnh lớn. Chính trong giai đoạn này nền kinh tế chịu tác động của chính sách thả nổi tỷ giá.Tỷ giá hối đoái VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng dola Mỹ tăng liên tục kèm theo các cơn “sốt”. Đỉnh cao của mức tăng tỷ giá USD là cuối năm 1991. Đến đầu năm 1992 Chính phủ đã có một số cải cách trong việc điều chỉnh tỷ giá ( như buộc các doanh nghiệp có dola phải gửi vào ngân hàng , bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá theo nhóm hàng..) làm cho giá dola bắt đầu giảm. b. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993-1996. Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ trong các doanh nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa TGHĐ ở thị trường chính thức và thị trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất hợp pháp, tâm lý đầu cơ, nắm giữ ngoại tệ tăng mạnh. Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã phá rào. Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau: - Quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được công bố bởi Ngân hàng nhà nước. Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định. - Bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước công bố. Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng cường công tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và chính xác chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến động giá vàng… Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang. Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để thể hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy cơ bùng nổ trở lại lạm phát nói riêng. Chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh tế cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập quỹ ổn giá. Theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy, chính phủ thường dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung ứng thêm cho nền kinh tế để tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã phần nào xoá đi tâm lý nắm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm Dola và tỷ giá được ổn định trong những năm tiếp theo. - Đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ để cho các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó, tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9.1994. Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó, Dola có xu hướng giảm giá. Từ năm 1993 đến 1996, tình hình giá cả đồng Dola Mỹ trên thị trường tiền tệ quốc tế thường xuyên có sự biến động mạnh so với hàng loạt các đồng tiền chủ chốt khác như: Yên Nhật. Mác Đức, NDT của Trung Quốc …Trong khi đó, đồng Dollar Mỹ lại có sự ổn định trên thị trường Việt Nam, điều này cho thấy biện pháp can thiệp của chính phủ mà đặc biệt là Ngân hàng nhà nước thật sự phát huy tác dụng một cách mạnh mẽ. Tuy nhiên, từ cuối năm 1992 đến đầu năm 1997, đồng tiền Việt Nam tăng giá mạnh. Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn trong ngoại thương của Việt Nam, đặc biệt nghiêm trọng trong 3 năm liên tiếp 1994,1995, 1996. Phần lớn là do tác động trực tiếp của việc Trung Quốc phá giá mạnh của đồng NDT vào đầu năm 1994. Thực tế đó cũng đã chỉ ra rằng sự điều hành chính sách TGHĐ và chính sách ngoại thương của Việt Nam trong giai đoạn từ cuối năm 1993 đến đầu năm 1997 đôi khi quá thụ động. c. Giai đoạn từ tháng 7 /1997 đến ngày 26/2/1999 Ngày 2/7/1997 Thái lan phải "thả nổi" TGHĐ kết thúc gần 14 năm duy trì một chế độ cố định và cũng là ngày đánh dấu làm nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á với một ảnh hưởng rộng khắp trên phạm vi toàn thế giới. Việt nam cũng không thể tránh khỏi cuộc khủng hoảng. Xét thêm góc độ vĩ mô, sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á đối với nền kinh tế Việt Nam tạo nên một cơn sốc rộng khắp thể hiện trên một số mặt sau: Thứ nhất, đối với lĩnh vực tài chính Ngân hàng : Tạo sức ép giảm giá đồng Việt Nam trên thị trường ;tác động xấu đến hoạt động giao dịch ngoại tệ ; tăng gánh nặng nợ cho các doanh nghiệp ; gây sức ép đối với lãi suất đồng tiền Việt Nam và đe doạ sự mất ổn định của hệ thống Ngân hàng ; làm giảm xuất khẩu của Việt Nam và tình trạng nhập lậu hàng gia tăng mạnh ở các tỉnh biên giới tây nam. Thứ hai, đối với lĩnh vực đầu tư: Do tỷ giá tăng, lãi suất tăng, thị trường hàng hoá diễn biến phức tạp cùng với dự đoán không tốt trong tương lai tất yếu sẽ là các doanh nghiệp hạn chế đầu tư và Ngân hàng cũng rất dè dặt khi cho vay. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có xu hướng giảm ngay từ trước khi nổ ra cuộc khủng hoảng, sau khi cuộc khủng hoảng, nhiều dự án đầu tư dở dang bị đình lại, nhiều phương án đầu tư mới tạm hoãn. Thứ ba, đối với thu chi ngân sách nhà nước. Gánh nặng nợ nần và chi phí nguyên liệu tăng lên cùng với sụt giảm của thị trường tiêu dùng lẫn thị trường xuất khẩu đã làm nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ từ đó sẽ ảnh hưởng xấu đến nguồn thu ngân sách. Bên cạnh đó, sự sa sụt của nền kinh tế tất yếu đòi hỏi phải ra tăng một số khoản chi. Thứ tư , Tăng trưởng kinh tế dự trữ quốc gia và nợ nước ngoài. Khủng hoảng khu vực đã gián tiếp ảnh hưởng đến cán cân vãng lai, đến đầu tư của nước ngoài.Từ đó, gây ra khó khăn cho sự phát triển kinh tế nói chung. Nền kinh tế khó khăn sẽ tác động suy giảm đến tổng cầu, giảm thu nhập và tiêu dùng của cư dân. Dự trữ quốc gia tất yếu sẽ phải chịu sức ép suy giảm một phần do nguồn cung ngoại tệ giảm bớt, một phần do đáp ứng nhu cầu ngoại tệ thiết yếu cho nền kinh tế và hỗ trợ cho đồng Việt Nam vào những lúc cao điểm. 3.1.4. Giai đoạn 26/2/1999 đến nay. Trước ngày 26/2/1999 TGHĐ được ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày và trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng được phép mua bán trong một biên độ nhất định. Đến nay khi nền kinh tế vận động mạnh theo cơ chế thị trường thì việc xác định tỷ giá như trên không còn phù hợp với quan hệ cung cầu trên thị trường và thông lệ quốc tế. Từ 26/2/1999 TGHĐ chính thức công bố hàng ngày được xác định trên cơ sở bình quân mua bán thực tế trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất trước đó, đồng thời biên độ giao dịch cũng được rút xuống là 0,1%. (Quyết định 64/1999 QĐ - NHNN7 và 65/1999/QĐ-NHNN7). Song song với việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá NHNN Việt Nam cũng đã có quyết định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất (QĐ số 241/2000/QD NHNN1 ngày 2/8/2000) bằng việc bãi bỏ cơ chế điều hành lãi suất cơ bản thay bằng và tổ chức tài chính được quyền ấn định lãi suất cho vay đối với khách hàng nhưng không được vượt qua mức lãi suất cơ bản và biên độ quy định trong từng thời kì. Những tháng đầu năm 2008, cung ngoại tệ trên thị trường tăng mạnh, tỷ giá xuống quá thấp. Đến ngày 21/3/2008, tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng do Ngân Hàng Nhà Nước công bố chỉ còn 15.990 VND/USD, giảm tới 15 VND/USD so với ngày 20/3/2008 và giảm gần 100 VND/USD so với thời điểm đầu năm 2008; tỷ giá mua bán của Ngân Hàng Thương Mại với doanh nghiệp cũng chỉ còn 15.830 – 15.840 VND/USD, giảm 1,5% so với đầu năm 2008… Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hạn chế mua ngoại tệ của Ngân hàng thương mại và từ đó NHTM cũng hạn chế mua ngoại tệ của doanh nghiệp. Trước sức ép đó của thị trường, mới đây, NHNN đã cho phép NHTM cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank) thực hiện thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ theo tỷ giá thoả thuận với doanh nghiệp. Vì vậy từ thực tế kinh nghiệm áp dụng thí điểm tại Eximbank, việc NHNN cho triển khai rộng rãi cơ chế tỷ giá thoả thuận cũng là việc thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về biện pháp kiềm chế làm phát. Khi đó tỷ giá giảm làm cho hàng hoá, nguyên nhiên vật liệu chuyển vào Việt Nam rẻ hơn, nhưng các doanh nghiệp xuất khẩu thì khó khăn hơn. Không những vậy, cơ chế thoả thuận về tỷ giá giữa doanh nghiệp và NHTM còn khắc phục được những bất hợp lý trong thực tiễn hiện nay. Bởi vì từ ngày 10/3/2008, NHNN đã nới rộng biên độ giao dịch tỷ giá của các NHTM với khách hàng được tăng từ +/-0,75% lên +/ - 1,0%, nhưng do diễn biến của thị trường, các NHTM và doanh nghiệp đã "lách luật" bằng việc thoả thuận với nhau một mức phí với nhiều tên gọi khác nhau, như: phí “quản lý ngoại tệ tiền mặt“, phí “kiểm đếm ngoại tệ tiền mặt”, phí thu đổi ngoại tệ,... phổ biến ở mức khoảng 2%. Do đó thực tế tỷ giá của doanh nghiệp bán cho NHTM còn thấp hơn rất nhiều tỷ giá danh nghĩa. Hoặc thực tế tỷ giá NHTM mua USD của doanh nghiệp thấp hơn 3% so với tỷ giá do NHNN công bố, chứ không phải 1% như quy định. Nhưng từ tháng 5/2008 đến nay, thị trường ngoại tệ có diễn biến ngược lại, huy động ngoại tệ tăng nhanh, tín dụng ngoại tệ có xu hướng giảm mạnh, nguyên nhân chính là do vào thời điểm giữa tháng 5, tỷ giá VND/USD đảo chiều (VND mất giá mạnh). Những diễn biến bất thường trên thị trường ngoại tệ có

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL7901i m7903 2737847u.doc
Tài liệu liên quan