MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I.TỔNG QUAN VỀ NGÀNH GỖ VIỆT NAM: 2
1.Giới thiệu sơ lược về lịch sử phát triển của ngành sản xuất và chế biến gỗ: 2
2. Vai trò và những lợi ích kinh tế – xã hội từ việc phát triển ngành sản xuất , chế biến đồ gỗ xuất khẩu: 3
3. Đặc điểm của ngành sản xuất và chế biến gỗ: 4
II.THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU SẢN PHẨM GỖ CỦA VIỆT NAM: 6
1.Những thành tựu ngành sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã giành được trong những năm gần đây: 6
2. Những thuận lợi với ngành chế biến, xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam: 8
3. Những khó khăn mà ngành sản xuất, chế biến gỗ của Việt Nam đang phải đối mặt: 10
III. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CÁC SẢN PHẨM ĐỒ GỖ CỦA VIỆT NAM: 16
1. Phát triển nguồn nguyên liệu, khai thác bền vững tài nguyên rừng: 16
2. Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tíến thương mại, quảng bá, xây dựng thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế: 17
3. Doanh nghiệp cần tìm cách nắm bắt kịp thời các thông tin cần thiết, tìm hiểu kỹ đặc điểm, nhu cầu, xu hướng của từng thị trường, từ đó mà có các chiến lược phát triển cho phù hợp: 19
4. Mở rộng liên doanh, liên kết, hợp tác đầu tư trong và ngoài nước nhằm xoá bỏ lối làm ăn tiểu nông nhỏ lẻ: 22
5. Tăng cường đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến để nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm: 22
6. Đẩy mạnh cải tiến công tác thiết kế sản phẩm, tạo cho sản phẩm sự khác biệt mang lại lợi thế cạnh tranh: 22
KẾT LUẬN 24
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6736 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tổng quan về ngành gỗ Việt Nam, thực trạng của ngành sản xuất chế biến gỗ xuất khẩu và các giải pháp để đẩy mạnh ngành nghề này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g có các cơ chế ngày càng thông thoáng.
Với thị trường Nhật Bản, Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng đồ gỗ khá đa dạng, phong phú, bao gồm đồ gỗ nội thất, đồ gỗ công nghiệp, ván sàn, khung tranh, hòm, hộp, đồ gỗ trang trí… Việt Nam đứng thứ 2, sau Trung Quốc về xuất khẩu mặt hàng này vào Nhật Bản. Đồ gỗ Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt tốc độ tăng trưởng khá. Năm 2004: đạt 180 triệu USD; năm 2005: 240 triệu USD; năm 2006: 286 triệu USD; 9 tháng đầu năm 2997 đạt 228 triệu USD, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2006.
Với thị trường EU, đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam hiện được hưởng thuế GSP với mức thuế suất chủ yếu là 0% (một số mã hàng chịu thuế 2,1%) đã giúp Việt Nam có một lợi thế nhất định khi chen chân vào thị trường EU so với Trung Quốc, Indonesia, Braxin, Malaisia… do các nước này không được hưởng GSP. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gỗ Việt Nam vào EU trong thời gian qua có mức tăng trưởng trung bình 15%/năm, tập trung vào đỗ gỗ nội thất và đồ dùng ngoài trời. Trong năm 2006 đạt 501,9 triệu USD, chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, riêng 3 tháng đầu năm 2007 đạt 200,72 triệu USD. Tuy nhiên so với tổng lượng nhập khẩu của EU thì mức xuất khẩu của Việt Nam còn rất khiêm tốn và chưa phản ánh đúng tiềm năng.
2. Những thuận lợi với ngành chế biến, xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam:
Việt Nam đã gia nhập WTO:
Điều này là một thách thức nhưng cũng là một cơ hội đối với các doanh nghiệp chế biến gỗ Việt Nam. Thông qua quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, lĩnh vực xuất khẩu gỗ được đẩy mạnh, các rào cản thuế quan của nước ngoài với sản phẩm cuả Việt Nam được dỡ bỏ dần dần, các doanh nghiệp sản xuất gỗ xuất khẩu được giảm thuế nhập khẩu gỗ nguyên liệu. Thêm vào đó là làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ nước ngoài vào lĩnh vực này. Ngành sản xuất, chế biến gỗ của nước ta được đánh giá là đầy tiềm năng. Cùng với đó là những điều kiện thuận lợi về kinh tế, chính trị, xã hội như nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh, bền vững, lao động dồi dào, chăm chỉ cần cù, khéo tay…đã khiến cho các nhà đầu tư nước ngoài rất yên tâm khi đầu tư vào Việt Nam. Nhờ sự đầu tư của nước ngoài mà hiện nay đang có xu hướng hình thành các doanh nghiệp chế biến gỗ có quy mô trên trung bình với trình độ quản lý tiên tiến, thiết bị máy móc hiện đại, công nhân có tay nghề cao.
Đồng thời các chính sách về đầu tư ngành gỗ của Đảng và nhà nước rất rõ ràng, công minh, phù hợp với nền kinh tế nói chung và với các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến gỗ nói riêng. Nhà nước luôn kêu gọi và luôn khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào ngành này.
Chúng ta có điều kiện chính trị, an ninh quốc phòng rất ổn định:
Đây là một điều kiện rất thuận lợi, khiến cho các doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu an tâm khi đầu tư và mở rộng đầu tư tại nước nhà. Một nền chính trị ổn định sẽ tạo tiền đề cho một nền kinh tế phát triển. Vì sự ổn định về chính trị và xã hội của đất nước sẽ tạo thành một môi trường thuận lợi cho thu hút các nguồn lực trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp, mở rộng giao thương với các nước trong khu vực và trên thế giới, mở rộng quan hệ hợp tác khoa học công nghệ phục vụ phát triển công nghiệp.
c)Sản xuất và chế biến gỗ là một ngành nghề truyền thống đã có từ lâu đời của dân tộc:
Từ xưa, tay nghề của từng nhóm thợ mộc và chạm khắc tự truyền dạy cho nhau đã đạt tới mức rất điêu luyện thể hiện qua những tác phẩm mộc, điêu khắc trong các đình, chùa. Ngày nay, những sản phẩm chế biến gỗ của chúng ta rất tinh xảo, tinh tế. Tâm hồn, bản sắc dân tộc trong các sản phẩm đồ gỗ chất lượng cao sản xuất tại Việt Nam đã tạo ra sự khác biệt cho sản phẩm, làm nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp và đã thuyết phục được cả những thị trường khó tính trên thế giới. Vì vậy, phát triển sản xuất đồ gỗ xuất khẩu cũng chính là giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
Nhu cầu sử dụng đồ gỗ trên thế giới ngày càng cao.
Ngày nay những thị trường đồ gỗ chính trên thế giới như châu âu, Mỹ, úc có xu hướng chuyển dịch dần đầu tư và mua hàng ở Việt Nam. Thị trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng nên hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này cũng tăng rất mạnh. Chính tốc độ phát triển ngành chế bién gỗ tăng mạnh, đặc biệt là từ cuối năm 2002 đã nói lên điều đó.
Các sản phẩm đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam đã tạo được vị thế mới trên thị trường quốc tế. Trước đây, ít ai nghĩ rằng đồ gỗ Việt Nam có thể chen chân vào các siêu thị lớn, thì nay, hầu hết các siêu thị lớn trên thế giới đều có bán đồ gỗ chế biến tại Việt Nam. Việc có nhiều nhà nhập khẩu đồ gỗ quốc tế tới tham dự hội chợ EXPO
đồ gỗ hàng năm vào tháng 10 tại TPHCM trong 4 năm qua, để tìm hiểu và ký kết hợp đồng đã phần nào khẳng định vị thế của công nghiệp chế biến gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
Nguồn nhân lực dồi dào, phong phú:
Nước ta có dân số trên 84 triệu người, đa phần là dân số trẻ, do vậy lực lượng lao động rất đông đảo. Người dân Việt Nam từ lâu đã có truyền thống chăm chỉ, cần cù, chịu khó, lại thông minh, tháo vát, nhanh nhẹn. Nguồn tri thức của người lao động Việt Nam đủ sức để tiếp nhận và ứng dụng các công nghệ cao cấp, quy trình kỹ thuật tiên tiến của sự phát triển tri thức toàn cầu. Việc phát triển ngành nghề sản xuất gỗ xuất khẩu vừa phát huy lợi thế về lao động, vừa tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội bức xúc của đất nước.
Đã thành lập được Hiệp hội gỗ và lâm sản Việt Nam:
Hiện nay, Hiệp hội này có trên 300 thành viên là các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh gỗ trên toàn quốc. Từ năm 2003 đến nay, hội đã thực hiện hỗ trợ cho các thành viên theo chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Cụ thể như hỗ trợ họ tập huấn, đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên về marketing, trình độ quản lý, kỹ năng buôn bán…; hỗ trợ họ áp dụng công nghệ thông tin vào sản xuất kinh doanh (quản trị mạng, xử lý thông tin trên mạng…); chuyển giao công nghệ mới; tổ chức giao lưu học tập, trao đổi kinh nghiệm cũng như hợp tác sản xuất kinh doanh trong và ngoài nước; quảng bá sản phẩm thông qua website, các phương tiện thông tin đại chúng và qua việc tổ chức các đoàn tham gia triển lãm trong nước và quốc tế. Hiệp hội này cũng đóng góp được một phần vào sự tăng trưởng, phát triển của ngành sản xuất đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam như ngày nay.
3. Những khó khăn mà ngành sản xuất, chế biến gỗ của Việt Nam đang phải đối mặt:
a) Thiếu gỗ nguyên liệu:
Đây chính là khâu yếu nhất của ngành công nghiệp sản xuất và chế biến gỗ Việt Nam. Theo Bộ Công thương, hiện nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến và xuất khẩu sản phẩm gỗ thiếu trầm trọng. Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu trên 80% nguyên liệu gỗ, chiếm tới 37% giá thành sản phẩm. Năm 2006, chúng ta xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD sản phẩm gỗ và nhập khẩu khoảng 716 triệu USD gỗ nguyên liệu. Chỉ trong 8 tháng đầu năm 2007, cả nước đã nhập tới 700 triệu USD gỗ nguyên liệu, chiếm gần một nửa trong 1,5 tỷ USD xuất khẩu đồ gỗ. ước tính có tới khoảng 2 triệu mét khối gỗ nhập về các cảng Việt Nam mỗi năm. Ông Đoàn Xuân Hoà, Cục phó Cục Chế biến Nông lâm sản, Bộ NN-PTNT, thừa nhận cả nước hiện chỉ có 720.000 ha rừng trồng kinh tế có thể tham gia cung cấp nguyên liệu gỗ cho chế biến nhưng các giống cây rừng trồng đa phần có chất lượng gỗ thấp, chỉ phục vụ được cho nhu cầu ván nhân tạo, gỗ dăm hay nguyên liệu giấy là chính. Nhiều cánh rừng được trồng mới chủ yếu trồng bạch đàn và keo chỉ có giá trị phủ xanh còn già trị thương mại là rất thấp. Đặc biệt, công tác xây dựng mạng lưới chế biến gỗ trên toàn quốc chưa có sự thống nhất để sử dụng nguồn nguyên liệu vốn đang rất khan hiếm. Chính bởi công tác quy hoạch còn nhiều bất cập, gỗ rừng trồng chưa có nhiều loại gỗ lớn, chủng loại chỉ tập trung vào một số cây ngắn ngày, nên không đáp ứng được yêu cầu chất lượng với sản phẩm xuất khẩu. Bên cạnh đó, trong nước chưa xây dựng được các khu rừng cấp chứng chỉ, trong khi nhiều thị trường nhập khẩu đã đạt ra yêu cầu gỗ có chứng chỉ được khai thác, nên tình trạng phải nhập khẩu gỗ để đáp ứng là yêu cầu không tránh khỏi.
Do sự phụ thuộc vào thị trường cung cấp nguyên liệu từ nước ngoài cũng như tình trạng giao động của thị trường này nên khi giá nguyên liệu tăng cao và đang ngày càng trở nên khan hiếm như hiện nay thì hoạt động của các doanh nghiệp đang bị ảnh hưởng rất nhiều. Trong khi thị trường đang ngày càng được mở rộng thì nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực đồ gỗ, nhất là các doanh nghiệp tại TP Hồ Chí Minh, Bình Định, Đồng Nai, Gia Lai, Đăc Lắc cho biết họ đang rất khó khăn trong việc tìm kiếm gỗ nguyên liệu để duy trì sản xuất. Nguồn cung cấp nguyên liệu từ các nước cận kề như Lào và Campuchia đang cạn kiệt, trong khi thị trường nhập khẩu gỗ lớn nhất của Việt Nam là Malaisia thì giá đang tăng mạnh, đây cũng là nước thường xuyên thay đổi về chính sách xuất khẩu gỗ, lúc cho xuất khẩu, lúc lại cấm không cho xuất khẩu. Nhiều nước như LB Nga lại tăng thuế xuất khẩu gỗ nguyên liệu. Đó là chưa tính đến giá xăng dầu trên thế giới tăng kéo theo cước phí vận chuyển tăng… Giá gỗ tăng cao từ 40-100% trong năm qua cũng gây không ít khó khăn cho các doanh nghiệp. Điển hình là gỗ lim nhập khẩu từ Lào tăng giá từ 16 triệu/mét khối vào giữa năm 2007 đến 40 triệu/mét khối cuối năm 2007 do nguồn cung cấp gỗ lim từ nước này giảm mạnh.
Có một nghịch lý nữa là hàng năm chúng ta xuất khẩu tới hàng triệu tấn gỗ dăm khai thác từ rừng trồng trong nước. Đây là nguyên liệu chính để sản xuất ván nhân tạo, tuy nhiên, mỗi năm ta lại phải nhập tới gần 1 triệu mét khối ván nhân tạo. Nguyên nhân chính là do ngành công nghiệp sản xuất ván nhân tạo ở nước ta chưa phát triển, hiện nay cả nước mới chỉ có 4 nhà máy sản xuất ván MDF với công suất chưa tới 100.000 mét khối/năm với chất lượng chưa đáp ứng được tiêu chuẩn sản xuất hàng xuất khẩu. Hiện nước ta rất cần thêm nhà máy sản xuất ván nhân tạo để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước và cũng là nguồn cung cấp cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đồ gỗ từ ván nhân tạo. Như vậy, giá thành sản phẩm sẽ giảm đi rất nhiều và có thể cạnh tranh được với các nước.
b) Chưa xây dựng được thương hiệu, chưa hình thành được hệ thống phân phối hàng hoá chuyên nghiệp:
Là một mặt hàng mới phát triển mạnh khoảng nửa thập kỷ gần đây nên việc phát triển thương hiệu đồ gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế và chưa được chú trọng.. Một thực tế đáng buồn là các doanh nghiệp chủ yếu đang làm hàng gia công và hàng thô. Đối tác nước ngoài đến đặt hàng ở Việt Nam và xuất sản phẩm đi nhưng dưới những nhãn hiệu khác. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có rất ít cơ hội bán hàng trực tiếp cho các khách hàng Mỹ, mà chủ yếu qua các thương nhân Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc. Hơn nữa, có đến 60% kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ VN vào thị trường Mỹ thuộc về các công ty 100% vốn của Trung Quốc hay Đài Loan đang đầu tư ở TP HCM, Đồng Nai, Bình Dương. Đối với thị trường Mỹ, để xâm nhập vào thì sản phẩm gỗ Việt Nam có hai phương cách là bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ (như Haverygs, Pottery Bản, Crate and Barel…) hoặc qua các nhà nhập khẩu. Bán qua các nhà bán lẻ sẽ không phải qua môi giới nên sẽ được giá cao, nhưng số lượng đặt hàng ít và họ không biết nhiều về công nghệ chế biến nên sẽ không hỗ trợ được gì cho các nhà sản xuất. Còn đối với các nhà nhập khẩu, do hầu hết họ đều có kinh nghiệm trong chế biến gỗ nên hiểu những khó khăn của nhà sản xuất, vì thế họ có thể giúp các nhà sản xuất cải tiến kỹ thuật, chất lượng và do có mạng lưới tiêu thụ rộng nên dễ dàng cung cấp cho nhà sản xuất thông tin thị trường hoăc tiếp thị hiệu quả cho sản phẩm. Tuy nhiên, việc chúng ta chưa có thương hiệu và các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm qua những nhà nhập khẩu trung gian và sử dụng những nhãn hiệu khác nhau đã làm giảm tính cạnh tranh của mặt hàng này, và đây cũng không phải là một bện pháp chiến lược lâu dài. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải tạo được dấu ấn sâu đậm, tốt đẹp về thương hiệu sản phẩm của mình trong lòng những khách hàng quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích cho khó khăn trên của ngành chế biến, sản xuất gỗ xuất khẩu nước ta. Thứ nhất, là hầu hết các doanh nghiệp đồ gỗ của chúng ta đều có quy mô nhỏ nên chưa có nhiều kinh phí để thực hiện được việc này hoặc chưa nhận thức được một cách đúng đắn về tầm quan trọng của việc xây dựng thương hiệu. Thứ hai, các doanh nghiệp chưa hình thành được một hệ thống phân phối hàng hoá chuyên nghiệp, một doanh nghiệp đảm nhận mọi khâu từ tìm nguyên liệu đến bán sản phẩm. Mô hình này sẽ dần dần không còn phù hợp nữa. Thứ ba, là do thủ tục hành chính còn quá rườm rà. Để xây dựng được thương hiệu, trước khi tung sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp cần đăng ký bản quyền sở hữu mẫu mã lên Cục sở hữu trí tuệ để khẳng định trên cơ sở pháp lý quyền sở hữu của mình và được pháp luật bảo vệ. Nhưng vì thủ tục đăng ký bản quyền phức tạp, rắc rối, có nhiều chồng chéo, mang tính chất hành chính, thời gian hoàn thành khá lâu đã khiến nhiều doanh nghiệp nản mà bỏ cuộc. Nhiều doanh nghiệp không những không đăng ký mà còn ăn cắp bản quyền của nhau dẫn đến tình trạng tranh chấp, kiện tụng tràn lan. Hiện nay, chúng ta vẫn chưa tìm ra lối thoát cho tình trạng vi phạm bản quyền, sao chép mẫu mã giữa các doanh nghiệp dẫn đến hạn chế sự phát triển. Thứ tư, việc nhận gia công và làm theo mẫu đặt sẵn của người mua, hiếm có mẫu sáng tạo của riêng mình đã biến các doanh nhiệp của chúng ta thành người làm thuê cho các doanh nghiệp nước ngoài. Thứ năm, công tác xúc tiến thương mại chưa có sự liên kết tốt, nhất là giữa Cục XTTM với các trung tâm XTTM và các doanh nghiệp gỗ. Tất cả những điều này đang làm ảnh hưởng đến thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường thế giới.
c) Các doanh nghiệp còn đang rất thiếu thông tin do khả năng tiếp cận thị trường còn hạn chế:
Đối với các doanh nghiệp trong ngành sản xuất chế biến gỗ, họ không có bất kì sự tư vấn, tham mưu nào của các công ty tư vấn, của các hiệp hội ngành gỗ, hoặc các cơ quan hữu quan, dẫn đến việc mất phương hướng mở rộng đầu tư, đi sau các nước bạn về đầu tư công nghệ, máy móc, và hiển nhiên thua kém nước bạn về chiếm thị phần trên thương trường quốc tế. Còn đối với các doanh nghiệp mới muốn xâm nhập, đầu tư vào ngành này, cũng không hề có bất kỳ sự tư vấn hướng dẫn nào về các kế hoạch, dự án đầu tư máy móc, thiết bị, công nghệ của thế giới. Họ bị động và dẫn đến nhiều doanh nghiệp tự đầu tư và đầu tư sai, không mang lại hiệu quả trong sản xuất, vì thực tế do các thiết bị, máy móc, công nghệ đầu tư không phù hợp với sự phát triển ngành chế biến gỗ toàn cầu.
Hiện nay, thị trường đầu ra lớn nhất cho các doanh nghiệp sản xuất đồ gỗ xuất khẩu là Mỹ, Nhật và EU. Tuy nhiên, do khả năng tiếp cận thị trường quốc tế còn hạn chế, thiếu thông tin hỗ trợ thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam không am hiểu về văn hoá của họ, chỉ đưa ra các sản phẩm mang bản sắc văn hoá Việt Nam mà quên mất rằng người tiêu dùng cần có những sản phẩm mang dấu ấn văn hoá quê hương họ. Vì thế nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng xuất khẩu các mặt hàng “lệch pha” so với nhu cầu thị trường và “chậm tiến” so với các đối thủ cạnh tranh. Việc thiếu thông tin còn dẫn đến không nắm bắt được giá cả, nhu cầu, xu thế của thị trường, chưa am hiểu văn hoá, thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài… trong khi các thông tin này lại vô cùng cần thiết đối với những người làm kinh doanh, đăc biệt là trong hoàn cảnh hiện nay, đang có một xu hướng thay đổi nhanh về thị hiếu tiêu dùng các sản phẩm đồ gỗ.
d) Lối làm ăn tiểu nông, nhỏ lẻ, chưa phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ:
Ngành chế biến gỗ nước ta còn mang tính đầu tư và sản xuất nhỏ, sản xuất mang tính thủ công, theo kiểu hộ gia đình, việc tích luỹ vốn để đầu tư các thiết bị máy móc hiện đại của các nước tiên tiến không được chú trọng. Các nhà sản xuất nhỏ lại là tác nhân gây nên sự mất cân đối về giá cả xuất khẩu. Do sản xuất nhỏ, chi phí sản xuất chủ yếu là chi phí công lao động thấp, không phải chịu những khoản thuế, các chi phi phí đóng BHXH, BHYT và các chế độ khác cho người lao động, giá thành cấu thành sản phẩm xuất khẩu thấp, tạo nên sự mất cân đối về hệ thống giá cả xuất khẩu trong nước và từ giá cả này mà khách hàng đặt giá và gây áp lực đối với các doanh nghiệp đầu tư sản xuất lớn. Và để có thể nhận được đơn đặt hàng từ khách hàng, các doanh nghiệp buộc phải chấp nhận sản xuất với giá thấp, ít lợi nhuận và có lúc không có lợi nhuận, điều này có thể khiến các doanh nghiệp lớn phải phá sản, đóng cửa. Chuyện cay đắng cũng xảy ra đối với các nhà sản xuất vừa và nhỏ. Để lo được việc làm cho công nhân, doanh nghiệp kỳ công làm hàng mẫu, chi phí tốn kém để tiếp thị và tham gia hội chợ quốc tế. Nhưng khi nhận được hợp đồng lớn thì lại không đủ năng lực sản xuất, chia cơ sở khác cùng làm thì không đúng tiến độ, cuối cùng đành bỏ. Những doanh nghiệp cỡ nhỏ ở địa phương thiếu sự phối hợp, rất khó có thể cung ứng nổi khi nhận được những khối lượng hàng đặt mua thật lớn.
Quy mô các doanh nghiệp trong ngành chủ yếu vẫn ở mức vừa và nhỏ, sản xuất kết hợp giữa thủ công và cơ khí. Số lượng các doanh nghiệp đầu tư mới về thiết bị và công nghệ tiên tiến phục vụ sản xuất còn thấp, mức độ đầu tư chưa cao. Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất gỗ, đặc biệt là đồ gỗ mỹ nghệ có hệ thống thiết bị lạc hậu. Trong khi đó, yêu cầu của thị trường ngày càng cao. Hiện chỉ có 10% trong tổng số hơn 1.800 cơ sở chế biến gỗ tại Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Các doanh nghiệp đồ gỗ hiện nay vừa nhỏ lại vừa phân tán, phát triển tự phát thiếu sự liên kết nên dù các doanh nghiệp Việt Nam có lợi thế là có nguồn nhân công giá rẻ, tay nghề khéo léo, kỹ thuật tinh xảo và sản phẩm đạt chất lượng tương đương hàng nước ngoài, giá bán lại thấp hơn 20% so với hàng hóa cùng loại của nước ngoài vẫn khó cạnh tranh. Khách hàng quốc tế thường đặt yêu cầu cao về sự “an toàn” của hợp đồng trong khi các doanh nghiệp Việt Nam chưa biết liên kết với nhau trong sản xuất.
Ngành chế biến gỗ của nước ta phát triển mạnh trong những năm gần đây, nhưng vẫn mang tính chất đơn lẻ, không có sự kết hợp, phát triển đồng bộ của các ngành cơ khí, chế tạo vật tư, Hardware đi kèm với sản phẩm gỗ, thường chỉ chiếm 5-10% giá trị sản phẩm. Các Hardware, vật tư lại không được đảm bảo, giá thành cao, phần nào làm chậm bước tiến phát triển của ngành này. Ngoài ra, còn các lĩnh vực, ngành nghề khác hỗ trợ cho ngành gỗ, nhưng cho đến nay vẫn hoàn toàn bế tắc, như ngành chế biến và sản xuất hoá chất chẳng hạn. Việt Nam không có bất kỳ nhà máy chế biến, sản xuất hoá chất tầm cỡ, đảm bảo chất lượng và giá cả hợp lý nào cả, giá thành cung cấp quá cao trong khi chất lượng quá yếu kém, không cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp.
e) Những quy định khắt khe từ những thị trường lớn (Mỹ, Nhật, EU…):
Ngày nay, khi các hàng rào thuế quan ngày càng được giảm dần theo xu hướng toàn cầu hoá của thế giới thì các doanh nghiệp xuất khẩu đồ gỗ lại đang vấp phải những khó khăn từ hàng rào phi thuế quan của những thị trường lớn. Đó là những quy định khắt khe từ những nước nhập khẩu mà các doanh nghiệp phải đáp ứng. Như việc các khách hàng ngày càng đòi hỏi các sản phẩm được làm từ nguồn gỗ nguyên liệu có chứng chỉ của một tổ chức như Hội đồng các nhà quản lý rừng (FSC). Hiện ở nước ta chưa nơi nào có chứng chỉ như vậy. Hệ quả là, các nhà sản xuất phải nhập khẩu gỗ có chứng chỉ đó nên giá thành sản phẩm không cạnh tranh được và giá trị gia tăng của ngành gỗ bị giảm xuống khá nhiều so với những quốc gia có hệ thống chứng chỉ cho gỗ nguyên liệu.
Với thị trường Nhật Bản, đồ gỗ nhập khẩu vào bắt buộc phải kiểm tra chất chlorpyrifos và formaldehyde. Với thị trường EU, sản phẩm gỗ phải đáp ứng một số quy định như: phải có đền bù thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể khi sản phẩm không an toàn, gây thiệt hại cho người sử dụng. Kế đến, quy định kiểm soát các chất nguy hiểm có thể có trong sản phẩm, như: cadmium, PCP bị hạn chế dư lượng, các chất amiăng, PCB, PCT bị cấm, hoá chất gây thủng tầng ozôn (bị cấm từ 2015) và cho kiểm soát theo chế độ đặc biệt khắt khe làm từ gỗ gụ, thông Chilê, gỗ hồng sắc của Brazin. Song song đó là các yêu cầu chặt chẽ về bao bì, nhãn mác sản phẩm. Ngoài ra, EU cũng đang có nhiều yêu cầu để bảo vệ người lao động, bảo vệ an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp, các yêu cầu về điều kiện môi trường, như: sản xuất thân thiện với môi trường, nhãn sinh thái và đặc biệt là chương trình phát triển bền vững diện tích rừng.
III. giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm đồ gỗ của Việt Nam:
1. Phát triển nguồn nguyên liệu, khai thác bền vững tài nguyên rừng:
Tập trung trồng rừng theo phương thức thâm canh để tự túc nguồn nguyên liệu gỗ vào năm 2020.
Giải quyết vấn đề nguyên liệu đầu vào không thể chỉ trong một sớm, một chiều mà cần phải có quy hoạch vùng nguyên liệu ngay từ bây giờ. Do vậy, Bộ NN-PTNT đã đề ra mục tiêu phát triển lâm nghiệp, trồng rừng là hình thành vùng nguyên liệu gỗ từ rừng trồng ổn định với diện tích 825.000 ha từ nay tới năm 2020. Để có thể thực hiện được mục tiêu này thì Chính phủ đã chỉ thị các Bộ, ngành, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố tập trung làm tốt một số việc sau đây:
Khẩn trương rà soát, hoàn chỉnh và phê duyệt quy hoạch trồng rừng nguyên liệu, trong đó đảm bảo cung cấp ổn định cho nhu cầu của công nghiệp chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ; quy hoạch diện tích thích hợp để trồng loại rừng cây gỗ lớn, các loại cây bản địa quý hiếm, tạo nguồn gỗ ổn định dể duy trì và phát triển sản xuất hàng gỗ thủ công mỹ nghệ.
Chỉ đạo lựa chọn cơ cấu cây rừng phù hợp với điều kiện của từng vùng, có hiệu quả kinh tế, đảm bảo tiêu chuẩn nguyên liệu cho chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ; đồng thời có biện pháp đảm bảo đủ giống cây lâm nghiệp (bao gồm cả nghiên cứu, sản xuất trong nước và nhập khẩu) để cung cấp cho trồng rừng nguyên liệu; làm tốt công tác khuyến lâm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về sản xuất cây giống, kỹ thuật trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng.
Trên cơ sở quy hoạch trồng rừng nguyên liệu, rà soát bổ sung những chính sách để khuyến khích hơn nữa các thành phần kinh tế đầu tư trồng rừng, hưởng lợi từ rừng, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, sản xuất sản phẩm gỗ, nhất là các chính sách về đất đai, đầu tư, tín dụng, hỗ trợ về giống cây, xây dựng cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu, khuyến lâm, tiêu thụ sản phẩm.
Khuyến khích, đẩy mạnh hơn nữa việc đầu tư công nghệ sản xuất ván nhân tạo trong nước. Đánh giá đầy đủ về hiệu quả đầu tư và thị trường tiêu thụ để có hướng phát triển trong những năm tới.
Bộ Thương mại cần chủ trì phối hợp với Bộ, ngành liên quan, Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, trên cơ sở nhu cầu nhập khẩu gỗ nguyên liệu, hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm, lựa chọn thị trường nhập khẩu; rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách và tổ chức, tạo đều kiện thuận lợi cho việc nhập khẩu cung cấp đủ gỗ nguyên liệu, nhất là gỗ rừng tự nhiên cho sản xuất sản phẩm gỗ. Nghiêm cấm các hoạt động đầu cơ, độc quyền, sách nhiễu, gây khó khăn trong việc nhập khẩu gỗ nguyên liệu
Tạo điều kiện thuận lợi nhất để nhập khẩu và cung ứng nguyên liệu gỗ cho ngành công nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu đáp ứng đúng về số lượng, chất lượng, với thời gian và giá cả cạnh tranh:
Chính phủ cần xúc tiến thoả thuận cấp cao giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới có nguồn nguyên liệu gỗ dồi dào về việc cung cấp gỗ dài hạn cho Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp chế biến gỗ thực hiện. Bên cạnh đó, chúng ta cũng nên thành lập các chợ nguyên liệu cung cấp gỗ đạt chuẩn, khiến cho việc mua bán gỗ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, giá cả thống nhất. Hiện nay, đã có 3 trung tâm giao dịch gỗ ở cả 3 miền đang được xây dựng để giúp các doanh nghiêp nhập khẩu gỗ dễ dàng hơn, giá rẻ hơn. Nhà nước cũng đã có chính sách miễn thuế nhập nguyên liệu gỗ và miễn thuế xuất khẩu để khuyến khích nghề gỗ phát triển.
c) Nhà nước nên khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào trồng rừng, thậm chí là đầu tư nuôi dưỡng rừng tự nhiên.
Hiện nay có một số doanh nghiệp ở nước ta đầu tư trồng rừng ở Nam Phi, Nga… Nhà nước nên có các chính sách khuyến khích và táo điều kiện thuận lợi cho hướng phát triển này. Tuy nhiên về lâu dài vẫn cần đẩy mạnh trồng rừng trong nước. Trong những năm tới, vùng duyên hải miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cần có quy hoạch phát triển các dự án trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ xuất khẩu.
2. Nâng cao chất lượng và tính chuyên nghiệp trong công tác xúc tíến thương mại, quảng bá, xây dựng thương hiệu gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế:
Các giải pháp để xúc tiến thương mại tầm vĩ mô:
Tăng cường mối liên kết giữa xúc tiến thương mại với xúc tiến đầu tư.
Gắn công tác xúc tiến thương mại với yêu cầu tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm gỗ, đẩy mạnh công tác xây dựng thương hiệu đi đôi với việc đề cao chữ “tín” trong thương mại quốc tế.
Nâng cao năng lực tổ chức thị trường nước ngoài của các Thương vụ Việt Nam.
Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữaViệt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất sản phẩm gỗ xuất khẩu.
Đổi mới công tác tổ chức
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12612.doc