MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG 3
CHỨNG KHOÁN 3
1.1. Khái niệm về thị trường chứng khoán. 3
1.2. Cơ cấu của thị trường chứng khoán 3
1.2.1. Căn cứ vào tính chất phát hành hay lưu hành chứng khoán mà thị trường chứng khoán có thể được chia làm hai cấp 3
1.2.2. Căn cứ vào phương tiện pháp lý, thị trường chứng khoán được chia làm hai loại: 4
1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch thị trường chứng khoán được chia làm hai loại. 4
1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế 5
1.3.1. Thị trường chứng khoán tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân. 5
1.3.2. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn, có hiệu quả hơn. 6
1.3.3. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai. 7
1.3.4. Thị trường chứng khoán là "phong vũ biểu" của nền kinh tế. 8
1.3.5. Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội 8
1.3.6. Thị trường chứng khoán là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá 8
1.4. Những hiện tượng tiêu cực có thể phát sinh trong thị trường chứng khoán 9
1.4.1. Hiện tượng bán khống 9
1.4.2. Hiện tượng mua bán nội gián 9
1.4.3. Hiện tượng thông tin sai sự thật. 9
1.4.4. Hiện tượng đầu cơ chứng khoán, lũng đoạn thị trường 10
1.5. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trên thế giới với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 10
PHẦN 2:GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 13
2.1. Các mục tiêu phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. 13
2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của thị trường chứng khoán Việt Nam 14
2.2.1. Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường còn ít chưa phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế 14
2.2.2. Khuôn khổ pháp lý hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ 15
2.2.3. Hệ thống giao dịch chứng khoán còn hạn chế 15
2.2.4. Các tổ chức trung gian tài chính hoạt động nhỏ lẻ, đơn điệu 16
2.2.5. Nhân lực của thị trường chứng khoán quá yếu và quá thiếu 16
2.3. Giải pháp hoàn phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay 17
2.3.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán 17
2.3.2. Tạo hàng hoá chất lượng cao cho thị trường chứng khoán 17
2.3.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các tổ chức tài chính trung gian 18
2.3.4. Xây dựng hệ thống giao dịch mới đáp ứng yêu cầu phát triển của thị trường 19
2.3.5. Tăng cường công tác quản lý giám sát về chứng khoán và thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo hoạt động thị trường an toàn, hiệu quả 19
2.3.6. Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, tăng cường công tác tuyên truyền phổ cập kiến thức ra quần chúng 20
KẾT LUẬN 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO 22
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1823 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tổng quan về thị trường chứng khoán và giải pháp phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.
1.2.2.2. Thị trường chứng khoán phi chính thức (thị trường OTC).
Thị trường chứng khoán phi chính thức còn gọi là thị trường chứng khoán phi tập trung - là nơi diễn ra hoạt động mua bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung, không có giờ giao dịch cụ thể hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận giữa người mua và người bán...Các chứng khoán giao dịch trên thị trường không chính thức là các chứng khoán chưa được niêm yết, vì vậy mà hiện nay chưa có sự kiểm soát của hội đồng chứng khoán đối với thị trường này.
1.2.3. Căn cứ vào phương thức giao dịch thị trường chứng khoán được chia làm hai loại.
1.2.3.1. Thị trường giao ngay (Spot Market)
Thị trường giao ngay còn gọi là thị trường thời điểm - đây là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo một quy định
1.2.3.2. Thị trường tương lai (Future Market).
Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hoán sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định ở tương lai.
Ngoài những tiêu thức đã nêu trên, nếu căn cứ vào đặc điểm các loại sản phẩm lưu hành trên thị trường chứng khoán, thị trường chứng khoán được chia làm ba loại:
- Thị trường cổ phiếu.
- Thị trường trái phiếu.
- Thị trường các công cụ có nguồn gốc chứng khoán.
1.3. Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế
Thị trường chứng khoán ngày càng có vai trò quan trọng trong quá trình vận hành của nền kinh tế mỗi quốc gia cũng như trong hệ thống kinh tế toàn cầu, cụ thể như sau:
1.3.1. Thị trường chứng khoán tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Vai trò quan trọng đầu tiên của thị trường chứng khoán là thu hút tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, khuyến khích dân chúng tiết kiệm để hình thành các nguồn vốn khổng lồ có khả năng tài trợ cho các dự án đầu tư phát triển kinh tế dài hạn cũng như tài trợ cho các nhu cầu tăng vốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Có thể khẳng định thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn hết sức hữu hiệu không những trong nước mà cả nước ngoài.
Qua tìm hiểu hoạt động của một số thị trường chứng khoán, chúng ta thấy bản thân thị trường này đã huy động được một số vốn đáng kể. Đối với những thị trường chứng khoán kỳ cựu như New York, London, Tokyo… số vốn huy động có thể lên tới hàng ngàn tỷ USD. Còn đối với những thị trường chứng khoán trong khu vực tuy chỉ mới hoạt động cách đây 20-30 năm nhưng cũng huy động được số vốn đáng kể như Đài Bắc 119 tỷ USD, Seoul 114 tỷ USD, KualaLumpur 58 tỷ USD, Singapore 41 tỷ USD, Bangkok 27 tỷ USD.
Sự phát triển “nóng” của thị trường chứng khoán Việt Nam cuối năm 2006 đầu năm 2007 đã thu hút được một lượng vốn rất lớn trong dân chúng khiến các nhà hoạch định chính sách cũng phải ngạc nhiên. Lần đầu tiên, lượng kiều hối của kiều bào nước ngoài gửi về đầu tư đạt mức cao nhất từ trước tới nay và chiếm phần lớn tỷ trọng lượng ngoại tệ vào Việt Nam. Theo dự báo, trong năm 2007 thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ thu hút trên 2 tỷ USD tiền đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt, trong bối cảnh một loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàn Đầu tư và Phát triển… đang trong tiến trình phát hành cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng chắc chắn lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ còn tăng cao hơn nữa. Với đặc thù chi tiêu chủ yếu dùng tiền mặt như Việt Nam (chiếm 95%), lượng vốn tiềm tàng trong nhân dân chưa được đưa vào sản xuất kinh doanh còn rất nhiều thì việc phát triển thị trường chứng khoán song hành với sự ra đời của các công ty cổ phần là một chiến lược phát triển kinh tế trước mắt cũng như lâu dài.
1.3.2. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn, có hiệu quả hơn.
Đối với các nhà đầu tư, lợi ích việc đầu tư vốn vào các giá trị động sản phải dựa vào khả năng linh động tức thì của chứng khoán (tức là tính thanh khoản) kể cả lúc mua cũng như lúc bán. Điều này khác với đầu tư theo lối cổ điển, theo đó vốn bị đọng trong một thời gian đôi khi là khá dài.
Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối ưu: khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng quy mô sản xuất thì doanh nghiệp đó có thể phát hành các loại chứng khoán ra thị trường để huy động vốn.
Mặt khác, khi các doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh và các chứng khoán đó sẽ được chuyển thành tiền khi cần thiết thông qua thị trường chứng khoán. Hơn nữa thị trường chứng khoán còn giúp các doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc mua bán cổ phiếu. Việc sáp nhập, mở rộng hoạt động các doanh nghiệp đều có thể thực hiện thông qua thị trường chứng khoán.
1.3.3. Thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
Các doanh nghiệp tham yết giá tại các sở giao dịch hoặc các trung tâm giao dịch chứng khoán bắt buộc phải cung cấp đều đặn các thông tin về hoạt động của mình để làm cơ sở cho các nhà đầu tư trong việc ra quyết định. Điều này đã định hướng cho các doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán thường xuyên, công khai tài chính chứ không còn hiện tượng lãi giả lỗ thật như trong các năm trước đây.
Sự hình thành thị giá chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng hoạt động của doanh nghiệp đó trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thường thì những cổ phiếu có cổ tức cao thường có giá trị thị trường cao vì chỉ có những doanh nghiệp làm ăn tốt mới có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và chỉ doanh nghiệp có ban quản lý tốt mới có khả năng ăn nên làm ra. Tuy nhiên, cũng có những cổ phiếu chỉ có cổ tức khiêm tốn, nhưng vẫn có giá trị thị trường cao vì đó là những doanh nghiệp có tiến bộ khoa học kỹ thuật và hứa hẹn nhiều lãi trong tương lai, những doanh nghiệp này phát triển nhanh đòi hỏi vốn lớn và vì thế phần lớn lợi nhuận hàng năm được giữ lại làm vốn kinh doanh, phần lợi nhuận để trả cổ tức sẽ thấp hơn các doanh nghiệp khác.
1.3.4. Thị trường chứng khoán là "phong vũ biểu" của nền kinh tế.
Ngoài công cụ đánh giá doanh nghiệp, thị trường chứng khoán còn là "phong vũ biểu" của nền kinh tế. Với phương pháp chỉ số hoá thị giá các loại chứng khoán chủ yếu trong nền kinh tế và việc nghiên cứu phân tích một cách khoa học, có hệ thống chỉ số giá chứng khoán trên các thị trường chứng khoán ở từng nước trong mối quan hệ với thị trường thế giới cho phép dự đoán trước được sự biến động kinh tế, dự đoán được tương lai kinh tế của một hoặc hàng loạt các nước trên thế giới.
1.3.5. Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội
Về mặt kinh tế, việc Nhà nước vay tiền của dân để thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội là thiết thực và lành mạnh vì Chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành thêm tiền giấy vào lưu thông, tạo sức ép lạm phát. Hiện nay ở hầu hết các quốc gia, Chính phủ đều thực hiện phát hành trái phiếu chính phủ thông qua thị trường chứng khoán để vay tiền của nhân dân vì đây là biện pháp thường xuyên và có kỹ thuật tiên tiến.
1.3.6. Thị trường chứng khoán là điều kiện tiền đề cho quá trình cổ phần hoá
Kết quả cuối cùng của cổ phần hoá là chuyển từ một doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước thành một công ty cổ phần hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp cần thiết phải có thị trường chứng khoán bởi vì với những nguyên tắc hoạt động của mình (trung gian, đấu giá và công khai), thị trường chứng khoán sẽ là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự của luật pháp và phù hợp với tâm lý của nhà đầu tư. Chỉ có thông qua thị trường chứng khoán thì Nhà nước mới có thể thực hiện được cổ phần hoá đối với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào vì thị trường chứng khoán là nơi tập trung được toàn bộ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà đầu tư.
1.4. Những hiện tượng tiêu cực có thể phát sinh trong thị trường chứng khoán
Như đã nêu trên, thị trường chứng khoán có vai trò rất tích cực trong việc huy động vốn đầu tư. Hầu hết các quốc gia theo cơ chế thị trường đều có thị trường chứng khoán, kể cả quốc gia đang phát triển, đang chuyển đổi kinh tế như nước ta. Nhưng bên cạnh đó, thị trường chứng khoán cũng có nhiều mặt tiêu cực cần phải phòng tránh để hạn chế thấp nhất những rủi ro, tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó.
1.4.1. Hiện tượng bán khống
Bán khống là thuật ngữ dùng để chỉ việc các nhà đầu tư bán chứng khoán mà họ chưa có quyền sở hữu. Trong thực tế việc bán khống đem lại lợi nhuận rất cao cho các nhà đầu tư nếu họ tiên đoán đúng xu hướng của thị trường. Nhưng đây là một hành vi lũng đoạn thị trường tạo ra nhu cầu giả tạo về chứng khoán.
1.4.2. Hiện tượng mua bán nội gián
Mua bán nội gián là hành vi của những kẻ lợi dụng quyền hành hay sự ưu tiên trong việc nắm giữ những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế có phát hành chứng khoán ra thị trường để mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu trên thị trường và phương hại đến các nhà đầu tư khác. Mua bán nội gián được xem như là phi đạo đức về mặt thương mại và đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau.
1.4.3. Hiện tượng thông tin sai sự thật.
Đây là một hành vi thiếu đạo đức nhằm mục đích làm cho giá cổ phiếu của công ty khác sụt giảm hoặc giá cổ phiếu công ty mình được tăng cao do việc phao tin đồn thất thiệt trên thị trường. Người phao tin đồn thất thiệt có thể được hưởng lợi do việc mua với giá thấp cổ phiếu của công ty khác để khống chế công ty và sau đó chờ khi thông tin được kiểm chứng sẽ bán ra với giá cao hơn.
1.4.4. Hiện tượng đầu cơ chứng khoán, lũng đoạn thị trường
Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu với hy vọng là giá sẽ tăng trong tương lai để thu được lợi nhuận trong từng thương vụ. Trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư có quyền ngang bằng nhau trong việc lựa chọn thời cơ mua và bán chứng khoán nhằm đem lại lợi ích cho bản thân họ. Hoạt động đầu tư làm tăng doanh số giao dịch thị trường, tăng tính thanh khoản của chứng khoán. Nhưng nếu những nhà đầu tư cấu kết với nhau để mua hoặc bán chứng khoán với số lượng lớn gây nên cung hay cầu giả tạo, làm giả cổ phiếu tăng đột biến, lũng đoạn thị trường thì đây lại là hành vi tiêu cực cần phải ngăn cấm.
1.5. Lịch sử hình thành và phát triển thị trường chứng khoán trên thế giới với việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam
Thị trường chứng khoán ban đầu phát triển một cách tự phát và rất sơ khai, xuất phát từ một sự cần thiết đơn lẻ của buổi ban đầu. Vào giữa thế kỷ XV tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi việc mua bán và thương lượng về các loại vật phẩm, hàng hóa, ngoại tệ và giá nông sản, khoáng sản, động sản .... lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, dần dần sau đó tăng lên dần thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ XV, để thuận tiện hơn cho việc làm ăn, khu chợ trở thành "thị trường" với việc thống nhất các quy ước thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung đối vơí các thành viên tham gia “thị trường”.
Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán trên thế giới đã trải qua một sự phát triển thăng trầm lúc lên lúc xuống. Vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán thế giới phát triển huy hoàng cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thế giới lúc đó. Tuy nhiên đến "ngày thứ năm đen tối" - tức là ngày 29 - 10 - 1929 đã làm cho thị trường chứng khoán Tây, Bắc Âu và Nhật Bản rơi vào tình trạng khủng hoảng và mất lòng tin. Đến khi Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc, các thị trường chứng khoán cũng phục hồi dần dần và phát triển mạnh. Nhưng đến năm 1987, một lần nữa thị trường chứng khoán thế giới lại bị điên đảo với "ngày thứ hai khủng khiếp" do hệ thống thanh toán kém cỏi không đảm đương được yêu cầu của giao dịch, gây nên sự sụt giá ghê gớm của chứng khoán, mất lòng tin của khách hàng kéo theo phản ứng dây chuyền mà hậu quả của nó còn nặng nề hơn cuộc khủng hoảng năm 1929 – 1932.
Tháng 11 - 1997, thị trường chứng khoán thế giới lại chao đảo do cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á và Hồng Kông làm tăng lãi suất khiến cho thị trường Chứng khoán ở tất cả các nước đã bị giảm giá trong vòng từ 1 đến 2 ngày.
Cho đến nay, phần lớn các nước trên thế giới đã có khoảng gần 200 sở giao dịch chứng khoán phân tán khắp ở tất cả các châu lục bao gồm cả các nước trong khu vực Đông Nam Á được hình thành và phát triển vào những năm 1960 - 1970, và ở các nước Đông Âu ( Balan, Hungary, Séc, Nga,) và Châu Á ( Trung Quốc ) vào cuối những năm 1980 - đầu những năm 1990.
Tại Việt Nam, với việc ra đời Trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế của nước ta. Nếu như lúc đầu chúng ta chỉ có ba công ty chứng khoán là công ty chứng khoán Sài Gòn, công ty chứng khoán Bảo Việt và công ty chứng khoán Hải Phòng thì hiện nay chúng ta đã có trên 100 công ty chứng khoán với nhiều lĩnh vực được mở rộng. Đặc biệt, với hai Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh chúng ta đã đưa được trên 200 mã chứng khoán lên sàn, đảm bảo luồng huy động vốn cho các doanh nghiệp. Tháng 7 vừa qua, kỷ niệm “thị trường chứng khoán Việt Nam lên 7 tuổi”, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã được nâng cấp thành Sở giao dịch chứng khoán và thực hiện khớp lệnh liên tục vào ngày 30-7 càng chứng tỏ quyết tâm xây dựng một thị trường chứng khoán vững mạnh của Nhà nước ta. Với lợi thế của một nước đi sau, Việt Nam đã rút ra bài học không để thị trường chứng khoán rơi vào trạng thái phát triển “quá nóng” như ở Trung Quốc dẫn đến hàng loạt các công ty chứng khoán phải phá sản. Vì vậy, việc thị trường chứng khoán nước ta “giảm nhiệt” trong thời gian vừa qua được coi là sự điều chỉnh tất yếu và có lợi, đồng thời được coi là cơ hội vàng cho các nhà đầu tư chiến lược lâu dài. Vấn đề đặt ra cho thị trường chứng khoán Việt Nam là phát triển cân đối trong mối quan hệ với cung cầu vốn của nền kinh tế, giảm tính “bong bóng” và sự phụ thuộc của thị trường vào những tin đồn thất thiệt.
PHẦN 2:GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Các mục tiêu phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: “Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường bao gồm thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ"… kể cả trong nước và ngoài nước.
Trên cơ sở đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xây dựng chiến lược phát triển với mục tiêu tổng quát là: “Củng cố, phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, bao gồm cả thị trường tập trung và thị trường không tập trung, hoàn chỉnh môi trường pháp lý, môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm thu hút các nguồn vốn trong xã hội phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đẩy nhanh tốc độc chu chuyển vốn trong nền kinh tế, góp phần ổn định điều hoà lưu thông tiền tệ".
Căn cứ vào mục tiêu chiến lược trên, trong giai đoạn tới Đảng và Nhà nước đã xác định các mục tiêu phát triển cụ thể của thị trường chứng khoán Việt Nam như sau:
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã thông qua lộ trình đến năm 2008 phải cơ bản cổ phần hoá xong tất cả các doanh nghiệp.
- Thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán, mở rộng môi trường đầu tư có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, lành mạnh hoá thị trường chứng khoán Việt Nam.
- Hỗ trợ, tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động, phát huy vai trò của các công ty chứng khoán trong thị trường với tư cách là trung gian tài chính.
- Hoàn thiện đồng bộ khung pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam hoạt động có hiệu quả.
- Đào tạo đội ngũ nhân viên chứng khoán chuyên nghiệp đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường.
Để đạt được những mục tiêu nói trên, đòi hỏi các cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng như các cơ quan chức năng có liên quan phải có nỗ lực cao trong việc hoạch định và thực thi các chính sách phù hợp quy luật của thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thị trường đầu tư… trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
2.2. Những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của thị trường chứng khoán Việt Nam
2.2.1. Số lượng và chủng loại hàng hoá trên thị trường còn ít chưa phản ánh đúng bản chất của nền kinh tế
Ngay từ khi đi vào hoạt động, với đặc điểm của thị trường chứng khoán Việt Nam là quy mô quá nhỏ, dễ dàng bị tác động bởi các nhà đầu tư lớn cùng với sự hiểu biết về thị trường chứng khoán còn sơ khai và tâm lý ban đầu là tham gia để biết nên trong 5 năm đầu (2000 – 2005), số loại cổ phiếu niêm yết của chúng ta quá ít. Trong vòng 1 năm trở lại đây, số loại và số lượng cổ phiếu tham gia yết giá có phần “khởi sắc” nhưng lại bị tâm lý “ăn theo” nên có nhiều cổ phiếu có chất lượng không cao và thị giá cổ phiếu không phản ảnh đúng giá trị của nó.
Mặc dù ở Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều các công ty được cổ phần hoá song vấn đề nan giải là việc chậm cổ phần hoá lại xảy ra trong chính các doanh nghiệp Nhà nước lớn, các Tổng công ty vốn đã quen với cơ chế bao cấp, “xin cho”. Vậy đâu là nguyên nhân làm cho nhiều doanh nghiệp chưa muốn cổ phần hoá, chưa muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán? Có thể kể ra những nguyên nhân sau:
Một là, sức ỳ và thái độ sợ thay đổi “cơ chế” của chính các doanh nghiệp Nhà nước lớn cùng với công tác tuyên truyền, giáo dục về lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng chưa được đẩy mạnh.
Hai là, các doanh nghiệp ngại phải thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin hoạt động sản xuất kinh doanh, sợ đối thủ cạnh tranh biết và ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh cũng như thị phần của mình.
Ba là, theo kết quả kiểm toán 2006 của kiểm toán Nhà nước, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước đều lỗ vì vậy khi cổ phần hoá, các doanh nghiệp này sẽ không còn được Nhà nước bù lỗ mà phải tự trang trải. Do đó, các doanh nghiệp Nhà nước thường có xu hướng làm chậm tiến trình cổ phần hoá.
2.2.2. Khuôn khổ pháp lý hiện nay chưa đầy đủ và đồng bộ
Mặc dù Luật chứng khoán đã ra đời và có hiệu lực tuy nhiên vẫn còn nhiều khía cạnh của chứng khoán chưa có văn bản quy định và đang gây nhiều tranh cãi. Hơn nữa, để Luật chứng khoán thực sự phát huy tác dụng và đi vào đời sống nhân dân thì cần phải có một loạt các thông tư hướng dẫn đi kèm và phải tổ chức phổ biến sâu rộng đến đông đảo tầng lớp nhân dân.
2.2.3. Hệ thống giao dịch chứng khoán còn hạn chế
Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có một Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội. Theo báo cáo mới nhất, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chính Minh chỉ còn khả năng tiếp nhận tối đa đại diện giao dịch của 6 công ty chứng khoán nữa. Như vậy, điều này sẽ làm hạn chế sự phát triển của các tổ chức trung gian và từ đó sẽ làm chậm tốc độ phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Thời gian vừa qua, đã hai lần các nhà đầu tư phải chứng kiến hệ thống giao dịch chứng khoán không thực hiện được (hiện tượng sập sàn), điều này cảnh báo cho thị trường chứng khoán Việt Nam cần phải cải tiến kỹ thuật và đổi mới công nghệ hơn nữa. Mặt khác, với việc Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện khớp lệnh liên tục vào ngày 30-7-2007 càng đòi hỏi việc đầu tư và phát triển ứng dụng khoa học trong giao dịch chứng khoán.
2.2.4. Các tổ chức trung gian tài chính hoạt động nhỏ lẻ, đơn điệu
Mặc dù số lượng các công ty chứng khoán hiện nay rất lớn nhưng hầu hết đều là công ty chứng khoán mới thành lập, số vốn ít ỏi và hoạt động không hiệu quả. Trong số các công ty chứng khoán của Việt Nam, công ty chứng khoán Sài Gòn (SSI) được coi là công ty chứng khoán lớn nhất và hoạt động hiệu quả nhất thì vốn điều lệ cũng chỉ đạt 800 tỷ đồng. Chính điều này đã làm cho các công ty chứng khoán Việt Nam mất đi lợi thế về quy mô so với các công ty chứng khoán nước ngoài, vì thế các công ty chứng khoán Việt Nam thường không được chọn là nhà tư vấn cổ phần hoá cho các tập đoàn, các tổng công ty lớn. Đây được gọi là hiện tượng “tự thua trên sân nhà”. Nếu tình trạng này kéo dài trong thời gian tới, Việt Nam sẽ rơi vào hoàn cảnh như Trung Quốc những năm 1990, hàng loạt các công ty chứng khoán nhỏ lẻ phải giải thể nhường chỗ cho những công ty có đủ tiềm lực về tài chính.
2.2.5. Nhân lực của thị trường chứng khoán quá yếu và quá thiếu
Theo thống kế đầu năm 2006, cả nước chỉ có 300 người có đủ chứng chỉ hành nghề chứng khoán so với nhu cầu cần hàng nghìn nhân lực của các công ty chứng khoán. Chính sự mất cân bằng cung cầu này đã làm cho đội ngũ nhân viên chứng khoán Việt Nam mất đi tính chuyên nghiệp. Các công ty chứng khoán bắt buộc phải chấp nhận hình thức vừa làm, vừa đào tạo.
2.3. Giải pháp hoàn phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho thị trường chứng khoán
Với bất kỳ hoạt động nào đặc biệt là các hoạt động kinh tế đều cần có cần có sự quy định chặt chẽ của pháp luật. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán lại càng cần có một khuôn khổ pháp lý đồng bộ hơn bất kỳ hoạt động kinh tế nào vì đây chính là “phong vũ biểu” của cả nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay, chúng ta đã có Luật chứng khoán tuy nhiên vẫn còn rất nhiều vấn đề chưa có văn bản pháp luật nào quy định như vấn đề về đóng thuế thu nhập với các khoản thu nhập từ chứng khoán, mức đóng thuế... Để có khuôn khổ pháp lý đồng bộ, trong quá trình xây dựng Luật và các văn bản dưới Luật, các cơ quan có chức năng không nên dập khuôn máy móc các luật của nước ngoài vào Việt Nam vì thực tiễn nền kinh tế Việt Nam khác với nên kinh tế thế giới. Mặt khác, hệ thống pháp luật của Việt Nam ra đời sau khi thực tế phát sinh nên thường bị lạc hậu, nhiều khi luật ra đời để điều chỉnh cho một quan hệ kinh tế nhưng quan hệ kinh tế đó đã thay đổi và phát triển sang một quan hệ kinh tế khác.
Để tạo một khuôn khổ pháp lý đồng bộ, ngoài việc hoàn thiện Luật chứng khoán, chúng ta còn phải xây dựng và hoàn thiện các văn bản Luật khác có liên quan trong đó quan trọng nhất là Luật đầu tư, Luật doanh nghiệp, Luật kế toán...
2.3.2. Tạo hàng hoá chất lượng cao cho thị trường chứng khoán
Trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp, Nhà nước nên phân loại các doanh nghiệp theo mức độ hoạt động hiệu quả, lựa chọn những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để cổ phần hoá gắn với việc đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối với những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả, thua lỗ nhiều năm, Nhà nước nên cho giải thể hoặc sát nhập bởi đây là xu thế tất yếu của thế giới.
Trong quá trình cổ phần hoá, Nhà nước cần cải tiến lại cơ chế xác định giá trị doanh nghiệp, thống nhất tỷ lệ nắm giữ của các nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phiếu khi cổ phần hoá và tỷ lệ nắm giữ khi đầu tư trên thị trường chứng khoán, thống nhất mẫu cổ phiếu, từng bước thực hiện phi vật chất hoá cổ phiếu và quy định về đại lý chuyển nhượng cổ phiếu đối với các công ty cổ phần.
Mặt khác, bản thân các doanh nghiệp cổ phần hoá cũng cần tăng cường công tác quản trị công ty. Chính phủ cần ban hành Nghị định về quản trị công ty, trên cơ sở đó Uỷ ban chứng khoán Nhà nước hướng dẫn thông lệ tốt nhất về quản trị công ty cho các tổ chức phát hành và niêm yết. Cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán nên xem xét hoàn chỉnh quy trình xét duyệt hồ sơ phát hành, đăng ký niêm yết để vừa đảm bảo quản lý chặt chẽ, vừa bảo đảm thuận tiện cho các doanh nghiệp, giảm bớt thủ tục hành chính.
2.3.3. Mở rộng và nâng cao chất lượng các tổ chức tài chính trung gian
Thị trường chứng khoán phát triển tốt hay không phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống các tổ chức trung gian vì nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là thực hiện qua các tổ chức tài chính trung gian. Để phát triển hệ thống này cần phải:
- Mở rộng phạm vi hoạt động của các công ty chứng khoán, cho phép thành lập thêm công ty chứng khoán mới và cho phép mở chi nhánh ở các tỉnh, thành phố lớn nhưng phải quy định về các điều kiện bắt buộc ở tầm cao hơn (vốn điều lệ, nhân viên có chứng chỉ hành nghề…)
- Nâng cao chất lượng phục vụ của các công ty chứng khoán, tập trung chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ nhân viên nghiệp vụ hành nghề chứng khoán. Đội ngũ này phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, có đạo đức nghề nghiệp cao.
- Thành lập thêm các tổ chức tài chính trung gian khác như các công ty quản lý quỹ, tổ chức xếp hạng tín nhiệm, cho phép các công ty kiểm soát nước ngoài được tham gia kiểm toán các tổ chức phát hành niêm yết và kiểm toán các tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán.
- Hoàn chỉnh chế độ quản lý tài chính, kế toán đối với các tổ chức tài chính trung gian và nghiên cứu khả năng t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35986.doc