Đề án Tỷ giá hối đoái và vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

A- LỜI MỞ ĐẦU 1

B- NỘI DUNG 2

Chương 1: Lý luận chung về tỷ giá hối đoái, cơ chế điều hành và chính sách tỷ giá hối đoái 2

1.1. Tỷ giá hối đoái 2

1.1.1. Khái niệm 2

1.1.2. Phân loại tỷ giá hối đoái 2

1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái 4

1.1.4 Tác động của tỷ giá đến các hoạt động kinh tế 6

1.2. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái 7

1.2.1. Khái niệm 7

1.2.2. Nội dung 7

1.3. Chính sách tỷ giá 12

1.3.1. Khái niệm 12

1.3.2. Mục tiêu của chính sách tỷ giá 12

1.3.3. Công cụ của chính sách tỷ giá 12

Chương 2: Quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay 14

2.1. Thực trạng vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay .14

2.1.1. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái 14

2.1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái .14

2.2. Hệ quả công tác quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay 17

2.3. Nguyên nhân gây biến động tỷ giá 19

2.4. Những giải pháp chủ yếu cho việc hoàn thiện công tác quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam trong thời gian tới 20

C- KẾT LUẬN 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

MỤC LỤC 25

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4817 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Tỷ giá hối đoái và vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
can thiệp của Ngân hàng Trung ương trên thị trường ngoại hối Khi ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào làm tăng cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm cho tỷ giá tăng và ngược lại khi ngân hàng trung ương bán ngoại tệ làm tăng cung ngoại tệ và làm cho tỷ giá giảm. Tần số và cường độ can thiệp càng mạnh càng khiến cho tỷ giá biến động nhanh và mạnh trong ngắn hạn. Hơn nữa, tín hiệu can thiệp của ngân hàng trung ương có tác dụng tâm lý rất mạnh đến các thành viên thị trường khiến cho tỷ giá thay đổi nhanh chóng Tác động của tỷ giá đến các hoạt động kinh tế Tác động đến hoạt động ngoại thương Khi tỷ giá biến động, nó sẽ làm cho giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu đắt lên hoặc rẻ đi một cách tương đối từ đó ảnh hưởng đến khối lượng hàng hóa xuất nhập khẩu và kim ngạch ngoại thương. Chẳng hạn, khi tỷ giá tăng làm cho giá hàng xuất khẩu tính bằng ngoại tệ rẻ hơn trên thị trường quốc tế do đó làm tăng khả năng cạnh tranh về giá, dễ tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Do vậy khối lượng hàng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu tăng. Đối với nhập khẩu, sự giảm giá của đồng bản tệ sẽ hạn chế nhập khẩu vì giá hàng nhập khẩu bán bằng đồng nội tệ trên thị trường trong nước tăng làm cho cầu tiêu thụ hàng nhập khẩu giảm, do đó khối lượng và kim ngạch nhập khẩu giảm. Xuất khẩu tăng, nhập khẩu giảm dẫn đến cán cân thương mại được cải thiện, lượng ngoại tệ chuyển vào trong nước có xu hướng gia tăng. Do vậy, phá giá hay giảm giá nội tệ là một trong những biện pháp cải thiện cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán quốc tế. Tuy nhiên tác động của nó còn tùy thuộc vào cơ cấu xuất nhập khẩu và do vậy mức độ tác động sẽ khác nhau ở các nước khác nhau và trong từng thời kỳ Tác động đến mức giá cả trong nước Tỷ giá biến động sẽ ảnh hưởng đến giá hàng nhập khẩu bán trên thị trường nội địa từ đó tác động đến mức giá cả trong nước. Chẳng hạn, khi tỷ giá tăng, giá hàng nhập khẩu bán bằng nội tệ tăng dẫn đến mức giá chung trong nước tăng. Nếu hàng nhập khẩu là hàng tiêu dùng, nó trực tiếp làm tăng chỉ số CPI. Nếu đó là hàng tư liệu sản xuất, nó làm cho chi phí sản xuất tăng dẫn đến mức lạm phát cũng sẽ tăng, gây bất ổn cho nền kinh tế. Nếu tỷ giá giảm mức giá chung trong nước cũng sẽ giảm và khi tỷ giá ổn định nó là một trong những yếu tố ổn định giá cả trong nước, ổn định nền kinh tế. Sự tác động trên được thể hiện qua công thức : CPI = α.P + ( 1 – α ).E.P* Trong đó: CPI : chỉ số giá tiêu dùng α : Tỷ trọng hàng hóa tiêu dùng nội địa (1- α): Tỷ trọng hàng hóa tiêu dùng nhập khẩu E : Tỷ giá, P : giá hàng nội địa, P* : giá hàng nhập khẩu Tác động đến môi trường đầu tư nước ngoài Tỷ giá ổn định thúc đẩy đầu tư quốc tế vì khi tỷ giá ổn định sẽ hạn chế được những rủi ro trong đầu tư quốc tế và người đầu tư có thể dự đoán được kết quả kinh doanh. Ngược lại, tỷ giá biến động làm cho kết quả kinh doanh trở nên không chắc chắn, làm phát sinh các rủi ro do đó hạn chế đầu tư, kìm hãm tăng trưởng Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái Khái niệm Cơ chế điều hành tỷ giá là những quy định của một quốc gia phản ánh sự kết hợp khác nhau của các chế độ tỷ giá cố định và thả nổi Nội dung Đồng tiền lưu thông Nội dung này quy định đồng tiền pháp định chính thức của một quốc gia. Một nước có thể chỉ có một đồng tiền của nước đó được phép lưu hành hoặc sử dụng đồng tiền của nước khác thay thế cho đồng tiền quốc gia Cơ cấu tỷ giá Một quốc gia có thể chỉ có một tỷ giá được gọi là hệ thống tỷ giá thống nhất ( một tỷ giá ) hoặc nhiều tỷ giá được sử dụng cho các mục đích khác nhau hoặc cho các thể nhân khác nhau ( đa tỷ giá ). Khi một nước sử dụng hệ thống đa tỷ giá, yếu tố thị trường phản ánh trong tỷ giá bị bóp méo, tỷ giá không phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường Thị trường kỳ hạn Quy định này phản ánh sự kiểm soát của ngân hàng trung ương hoặc chính phủ vào hoạt động của thị trường kỳ hạn, kể cả giao dịch giao ngay và giao dịch hoán đổi của các chủ thể kinh tế Chế độ tỷ giá Chế độ tỷ giá cố định Chế độ tỷ giá cố định là chế độ tỷ giá mà trong đó Ngân hàng Trung ương buộc phải can thiệp trên thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá xung quanh tỷ giá cố định do ngân hàng trung ương xác định trong một biên độ hẹp đã định trước. Trong chế độ này, Ngân hàng Trung ương buộc phải mua hay bán ngoại tệ, trực tiếp tác động đến cung cầu ngoại tệ nhằm giới hạn tỷ giá trong biên độ đã định. Để can thiệp, ngân hàng trung ương phải có nguồn dự trữ ngoại hối đủ mạnh Hình 1.2.2.4.a : chế độ tỷ giá cố định : cầu tăng Trong hình 1.2.2.4a, khi cầu ngoại tệ tăng từ D1 đến D2 tỷ giá tăng từ E1 đến E2, Ngân hàng Trung ương phải bán ngoại tệ để tăng cung ngoại tệ, làm dịch chuyển đường cung ngoại tệ từ S1 đến S2 và giá ngoại tệ trở về mức tỷ giá trung tâm E1 (giả định rằng biên độ dao động là 0). Để duy trì mức tỷ giá E1, lượng ngoại tệ đã phải tăng từ Q1 lên Q3, nghĩa là Ngân hàng Trung ương phải bán một lượng ngoại tệ ( Q3 – Q1), do đó dự trữ ngoại tệ giảm, lượng tiền trung ương (MB) và tiền cung ứng (MS) giảm ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách tiền tệ. MS giảm có thể dẫn đến giảm phát. Để tránh hậu quả giảm phát, Ngân hàng Trung ương phải tiến hành các hoạt động “can thiệp triệt tiêu” như mua chứng khoán trên thị trường mở để tăng MB và MS Khi cung ngoại tệ tăng, Ngân hàng Trung ương can thiệp trên thị trường ngoại hối theo chiều hướng ngược lại. Ngân hàng Trung ương mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá trở về mức cố định. Dự trữ ngoại tệ tăng, lượng tiền trung ương và lượng tiền cung ứng tăng, MS tăng có thể dẫn đến lạm phát, do vậy, có thể can thiệp vô hiệu hóa Trong trường hợp không thể can thiệp, Ngân hàng Trung ương phải điều chỉnh tỷ giá trung tâm, phá giá hoặc nâng giá đồng nội tệ Chế độ tỷ giá cố định có ưu điểm: - Tỷ giá ổn định do đó góp phần ổn định giá cả trong nước và ổn định kinh tế. - Thúc đẩy thương mại và đầu tư quốc tế do hạn chế những rủi ro về biến động tỷ giá và do có sự ràng buộc lẫn nhau giữa các nước. - Chế độ tỷ giá cố định buộc Chính phủ phải có kỷ luật trong việc hoạch định và thực thi chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tránh tình trạng cạn kiệt dự trữ ngoại hối hoặc lượng tiền cung ứng tăng quá lớn. - Hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ gây bất ổn nền kinh tế vì người đầu cơ không có tâm lý trông chờ sự biến động về tỷ giá. Hạn chế của chế độ này là : - Tỷ giá cố định có thể sai lệch với tỷ giá được xác định dựa trên các thông số cơ bản như tỷ lệ lạm phát, mức lãi suất, tăng trưởng kinh tế… do đó sẽ hạn chế tác động tích cực của tỷ giá đối với nền kinh tế. - Dự trữ quốc tế của Ngân hàng Trung ương có thể bị cạn kiệt do phải bán ngoại tệ trên thị trường hối đoái để giữ tỷ giá ổn định. - Ngân hàng Trung ương không được chủ động trong việc thực hiện chính sách tiền tệ, bị chi phối bởi các yếu tố bên ngoài, chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả. Chế độ tỷ giá thả nổi tự do Trong chế độ này, tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Sự biến động của tỷ giá luôn phản ánh những thay đổi cung cầu trên thị trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương tham gia thị trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường Hình 1.2.2.4b: Chế độ tỷ giá thả nổi : cầu tăng Trong hình 1.2.2.4b, khi cầu ngoại tệ tăng từ D1 đến D2, ngoại tệ tăng giá từ E1 đến E2, khối lượng giao dịch ngoại tệ tăng từ Q1 đến Q2. Ngân hàng Trung ương không can thiệp trên thị trường để điều tiết tỷ giá. Khi cung ngoại tệ tăng, tỷ giá giảm, lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường tăng, Ngân hàng Trung ương đóng vai trò trung lập. Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi là : - Ngân hàng Trung ương không phải quan tâm đến tình trạng cán cân thanh toán, cán cân thanh toán sẽ tự điều chỉnh để đạt trạng thái cân bằng, chẳng hạn khi cán cân thanh toán thâm hụt sẽ làm cho tỷ giá tăng, tỷ giá tăng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, kết quả là cán cân thương mại được cải thiện, từ đó cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế, và sẽ dẫn đến cân bằng cán cân thanh toán. - Đảm bảo tính độc lập của chính sách tiền tệ - Chế độ tỷ giá thả nổi làm cho nền kinh tế trở nên độc lập, cho phép các nền kinh tế thích nghi được những ảnh hưởng của các cú sốc về giá cả từ bên ngoài. - Tỷ giá thả nổi góp phần ổn định kinh tế vì không phải khắc phục hậu quả lạm phát như trong chế độ tỷ giá cố định. Nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi là: - Tỷ giá biến động gây rủi ro cho các hoạt động kinh tế quốc tế - Đầu cơ ngoại tệ sẽ tăng cao Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó tỷ giá biến động theo quan hệ cung cầu trên thị trường và Ngân hàng Trung ương có tiến hành can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá nhưng Ngân hàng Trung ương không cam kết duy trì một tỷ giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm. Hình 1.2.2.4c: Can thiệp của Ngân hàng Trung ương trên thị trường ngoại hối khi tỷ giá tăng Trong hình 1.2.2.4c, ban đầu tỷ giá ở mức E1, cầu về ngoại tệ trên thị trường tăng vọt làm tỷ giá tăng mạnh lên E2. Ngân hàng Trung ương phải can thiệp trên thị trường bằng cách bán ngoại tệ làm cung ngoại tệ tăng, tỷ giá giảm xuống E3, kết quả là dự trữ ngoại tệ, MB, MS có giảm nhưng ở một mức độ nhất định và tỷ giá vẫn phản ánh cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Ngược lại, giả sử cung ngoại tệ tăng mạnh làm tỷ giá giảm, ngoại tệ sụt giá mạnh, Ngân hàng Trung ương can thiệp bằng cách mua ngoại tệ trên thị trường để kéo tỷ giá lên tránh những tách động xấu lên nền kinh tế. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là sự dung hòa giữa chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi tự do,vì vậy nó kết hợp được những ưu điểm của hai chế độ nhưng đồng thời cũng có những hạn chế nhất định Ưu điểm của chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là: - Tỷ giá tương đối ổn định do đó góp phần ổn định kinh tế, thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế - Đảm bảo tính độc lập tương đối của chính sách tiền tệ, hạn chế được những ảnh hưởng do các cú sốc từ bên ngoài đến nền kinh tế Nhược điểm của chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý - Ngân hàng Trung ương phải có lượng ngoại tệ đủ mạnh để can thiệp vào thị trường khi cần thiết và phải xác định mức độ can thiệp phù hợp, nếu không sẽ trở thành chế độ tỷ giá cố định. Trong thực tế, chế độ tỷ giá được thể hiện cụ thể trong các cơ chế điều hành tỷ giá khác nhau. Do vậy, với 3 chế độ tỷ giá cơ bản, mỗi nước sẽ có cơ chế điều hành tỷ giá cho riêng mình trong từng thời kỳ, phù hợp với điều kiện kinh tế hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai Chính sách tỷ giá hối đoái Khái niệm Chính sách tỷ giá là những hoạt động của chính phủ mà đại diện thường là Ngân hàng Trung ương thông qua một chế độ tỷ giá nhất định và hệ thống các công cụ can thiệp nhằm duy trì một mức tỷ giá cố định hay tác động để tỷ giá biến động đến một mức cần thiết phù hợp với mục tiêu chính sách kinh tế quốc gia Mục tiêu của chính sách tỷ giá Vì là một bộ phận của chính sách kinh tế, nên mục tiêu của chính sách tỷ giá cũng phải phù hợp với mục tiêu của chính sách kinh tế. Các mục tiêu chủ yếu của chính sách tỷ giá là : - Ổn định tỷ giá trong phạm vi một biên độ giao động nhất định nhằm góp phần ổn định giá cả, ổn định thương mại, ổn định đầu tư và cán cân thanh toán quốc tế - Góp phần vào việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mục tiêu của các chính sách kinh tế vĩ mô khác - Góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công ăn việc làm - Đảm bảo sự ổn định của dự trữ quốc gia để thực hiện các nghĩa vụ tài chính quốc tế - Ổn định sự phát triển của thị trường ngoại hối - Giữ vững chủ quyền thanh toán ở quốc gia và nâng cao vị thế đồng nội tệ Công cụ của chính sách tỷ giá Nhóm công cụ tác động trực tiếp lên tỷ giá Hoạt động của Ngân hàng Trung ương trên thị trường ngoại hối thông qua việc mua bán đồng nội tệ nhằm duy trì một tỷ giá cố định hay ảnh hưởng làm cho tỷ giá thay đổi đạt tới một mức nhất định theo mục tiêu đã đề ra Biện pháp kết hối là việc chính phủ quy định đối với các thể nhân và pháp nhân có nguồn thu ngoại tệ phải bán một tỷ lệ nhất định trong một thời hạn nhất định cho các tổ chức được phép kinh doanh ngoại hối. Biện pháp kết hối được áp dụng trong những thời kỳ khan hiếm ngoại tệ giao dịch trên thị trường ngoại hối. Mục đích chính của biện pháp kết hối là nhằm tăng cung ngoại tệ tức thời để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho thị trường, hạn chế hành vi đầu cơ và giảm áp lực phải phá giá nội tệ Quy định hạn chế đối tượng được mua ngoại tệ, quy định hạn chế mục đích sử dụng ngoại tệ, quy định hạn chế số lượng mua ngoại tệ, quy định hạn chế thời điểm được mua ngoại tệ. Tất cả các quy định này đều nhằm mục đích giảm cầu ngoại tệ, hạn chế đầu cơ và tác động giữ cho tỷ giá ổn định Nhóm công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá Lãi suất tái chiết khấu : Với các yếu tố khác không đổi, khi Ngân hàng Trung ương tăng mức lãi suất tái chiết khấu, sẽ có tác động làm tăng mặt bằng lãi suất thị trường, lãi suất thị trường tăng hấp dẫn các luồng vốn ngoại tệ chảy vào làm cho nội tệ lên giá. Khi lãi suất chiết khấu giảm sẽ có tác dụng ngược chiều Thuế quan và hạn ngạch : đây là một yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá như đã trình bày ở phần trên vì thế nó cũng là một công cụ tác động gián tiếp lên tỷ giá. Khi thuế quan và hạn ngạch cao sẽ có tác dụng hạn chế nhập khẩu làm cầu ngoại tệ giảm và nội tệ lên giá Giá cả : thông qua hệ thống giá cả, chính phủ có thể trợ giá cho những mặt hàng xuất khẩu chiến lược hay đang trong giai đoạn đầu sản xuất. Trợ giá xuất khẩu làm cho khối lượng xuất tăng làm tăng cung ngoại tệ, khiến cho nội tệ lên giá. Chính phủ cũng có thể bù giá cho một số mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, bù giá làm tăng nhập khẩu và kết quả là nội tệ giảm giá Điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại: Khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối, Ngân hàng Trung ương có thể tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với vốn huy động bằng ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, làm cho chi phí sử dụng vốn ngoại tệ tăng, để kinh doanh có lãi buộc các ngân hàng thương mại phải hạ lãi suất huy động ngoại tệ, kết quả là việc nắm giữ ngoại tệ trở nên kém hấp dẫn hơn so với nắm giữ nội tệ, khiến cho những người sở hữu ngoại tệ phải bán ngoại tệ đi lấy nội tệ làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối Quy định mức lãi suất trần kém hấp dẫn đối với tiền gửi bằng ngoại tệ : Tương tự như trên quy định này cũng được áp dụng khi ngoại tệ khan hiếm trên thị trường ngoại hối và nó sẽ làm tăng cung ngoại tệ trên thị trường ngoại hối Quy định trạng thái ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại : Ngoài mục đích chính là phòng ngừa rủi ro tỷ giá, quy định này còn có tác dụng hạn chế đầu cơ ngoại tệ, làm giảm áp lực lên tỷ giá khi cung cầu mất cân đối CHƯƠNG 2 QUẢN LÝ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Thực trạng vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay 2.1.1. Cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái Hiện nay cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam là Ngân hàng Nhà nước điều hành theo tỷ giá trung bình thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có quy định biên độ dao động. Thực chất đây là cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý không công bố trước tỷ giá nhưng có quy định biên độ dao động hẹp. Nội dung của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước công bố tỷ giá thực tế bình quân của VND với USD trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, tỷ giá này cùng với biên độ dao động đã quy định được sử dụng làm cơ sở để các Tổ chức tín dụng kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua, bán ngoại tệ; để tính thuế xuất, nhập khẩu và làm cơ sở để công bố tỷ giá đồng Việt Nam với các ngoại tệ khác. Trong cơ chế điều hành này thì VND do Ngân hàng Nhà nước phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam và cơ cấu tỷ giá là cơ chế một tỷ giá 2.1.2. Chính sách tỷ giá hối đoái Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước đã theo hướng ngày càng linh hoạt hơn. Ngân hàng Nhà nước đã thực thi lộ trình linh hoạt hóa tỷ giá kể từ năm 2004 qua nhiều bước. Trước hết là bãi bỏ các trần cố định về tỷ giá kỳ hạn để thay bằng chênh lệch lãi suất (tháng 5-2004). Tiếp đến là thừa nhận tính tự do chuyển đổi của các ngoại tệ mạnh, cho phép chuyển đổi giữa các ngoại tệ không cần chứng từ, chính thức áp dụng quyền chọn ngoại tệ (tháng 11-2004) .Các ngân hàng thương mại tiến hành thí điểm quyền chọn USD và VND trong điều kiện được tự do thỏa thuận phí quyền chọn (tháng 6-2005). Bỏ biên độ giao dịch USD tiền mặt, cho thí điểm cơ chế mua bán ngoại tệ mặt theo giá thỏa thuận (tháng 7-2006). Những bước đi này có dụng ý để thị trường tự điều chỉnh tỷ giá khi mà Việt Nam chưa thể áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn Năm 2008 là một năm đầy biến động và đáng nhớ đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và với tỷ giá nói riêng, đây cũng là năm mà Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra rất nhiều biện pháp để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Đối với thế giới, có thể nói 2008 là năm của những của những cuộc khủng hoảng. Trong bối cảnh chung ấy, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự tác động tiêu cực của suy thoái kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam đã chứng kiến hai thái cực kinh tế khá rõ nét trong năm 2008. Trong khi phải vật lộn để hạ nhiệt nền kinh tế quá nóng trong những tháng đầu năm, thì những tháng cuối năm lại là giai đoạn Chính phủ Việt Nam phải tìm cách chống lại sự hạ nhiệt quá nhanh của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó thì tỷ giá cũng đầy biến động với những ảnh hưởng từ các yếu tố vĩ mô, cung cầu ngoại tệ và thậm chí cả tin đồn Hình 2.1.2a: Tỷ giá giao dịch USD/VND 2008 Hình 2.1.2b: Tỷ giá giao dịch EUR/VND 2008 Chỉ trong năm 2008, biên độ tỷ giá đã được điều chỉnh 5 lần, một mật độ chưa từng có trong lịch sử. Nếu như trong những năm trước, tỷ giá luôn được định hướng tăng nhẹ (1%/năm) thì trong năm 2008, tỷ giá công bố liên ngân hàng, vốn có xu hướng được duy trì tương đối ổn định, đã tăng ~ 5% và tỷ giá giao dịch liên ngân hàng tăng ~10%. Trên cơ sở các quyết định điều chỉnh biên độ tỷ giá chính thức của Ngân hàng Nhà nước, diễn biến tỷ giá trong năm được chia thành 4 giai đoạn chính: Giai đoạn 1: Từ 01/01/2008 đến 10/03/2008 Trong giai đoạn này, tỷ giá USD/VND trên thị liên ngân hàng giảm mạnh từ 16.112 đồng xuống còn 15.960 đồng. Tỷ giá trên thị trường tự do có lúc rớt xuống thấp hơn tỷ giá liên ngân hàng. Bên cạnh các nguyên nhân như lượng kiều hối chuyển về tăng mạnh trong dịp Tết dương lịch, lượng vốn FDI và vốn FII vào Việt Nam tiếp tục đà tăng mạnh từ năm 2007, VND lên giá chủ yếu do USD đã mất giá quá mạnh trên thị trường thế giới trong giai đoạn đầu năm 2008. Ngân hàng Nhà nước đã tăng biên độ tỷ giá từ +/- 0,75% lên mức 1% vào ngày 10/3/2008. Khác với các lần điều chỉnh tỷ giá khác, tỷ giá USD/VND đã về mức sàn ngay sau khi có quyết định tăng biên độ của NHNN. Giai đoạn 2: Từ 10/03/2008 đến ngày 27/06/2008 Trong giai đoạn này, tỷ giá diễn biến trái chiều với giai đoạn một với sự mất giá của VND so với USD, tỷ giá liên ngân hàng công bố từ 15.960 đ- 15.946 đồng, đặc biệt trong tháng 6/2008 khi tỷ giá trên thị trường LNH có lúc lên tới 19.400 đồng và cao hơn 2.600 đồng so với tỷ giá trần quy định. Nguyên nhân chính của sự mất giá của VND là do những số liệu chothấy nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát tăng cao và thâm hụt cán cân thương mại (~ 15 tỷ USD tính đến hết tháng 6/2008). Nhu cầu USD để nhập khẩu vàng do chênh lệch lớn giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế và nhu cầu rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài do những lo ngại về nền kinh tế trong nước và các tin đồn cũng là những nguyên nhân chính dẫn tới sự trượt giá của VND so với USD. Vào ngày 27/6/2008, Ngân hàng nhà nước đã quyết định tăng biên độ tỷ giá lên +/-2%. Giai đoạn 3: Từ 27/06/2008 đến 07/11/2008 Từ tháng 9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ thế giới đã gây sức ép khiến VND mất giá ngày càng cao do các nguyên nhân như : Xuất khẩu yếu đi do sự xấu đi nhanh chóng của các thị trường xuất khẩu chủ yếu như Mỹ, Nhật, khối EU, sự tăng giá của đồng USD so với các đồng tiền khác (5%-10%) do nhiều nhà đầu tư vẫn coi USD là nơi trú ẩn an toàn trong giai đoạn khủng hoảng toàn cầu, thâm hụt thương mại có dấu hiệu gia tăng trở lại khi xuất khẩu giảm sút nhưng nhập siêu vẫn ở mức cao, nhu cầu rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài. Vào cuối giai đoạn này, biên độ tỷ giá được điều chỉnh vào ngày 7/11/2008 từ +/-2% lên mức +/- 3%. Giai đoạn 4: từ 07/11/2008 đến 31/12/2008 Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá, mặc dù tỷ giá USD/VND liên ngân hàng công bố vẫn duy trì ở mức ~16.500 đồng, tỷ giá tại các ngân hàng thường xuyên được duy trì ở mức trần ~ 17.000 đồng. Tỷ giá giao dịch trên thị trường không chính thức ở mức 17.200 đồng -17.450 đồng. Và ngày 24/12, Ngân hàng Nhà nước đã công bố việc điều chỉnh tỷ giá USD/VND liên ngân hàng tăng 3% từ mức 16.494 đồng lên 16.989 đồng Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần... Thêm vào đó, chính sách hỗ trợ lãi suất bằng VND vô hình đã “khuyến khích” các doanh nghiệp nhập khẩu quay sang vay tiền đồng để mua ngoại tệ, gây căng thẳng thị trường ngoại hối, tạo sự chênh lệch tỷ giá khá lớn giữa thị trường chính thức và thị trường tự do. Trong hoàn cảnh đó tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% , lần thứ 2 là vào tháng 11, Ngân hàng Nhà nước đã phá giá đồng VND xuống 3,44% so với đồng USD và giảm biên độ tỷ giá VND xuống từ 5% xuống 3%. Tiếp theo là quyết định của Thủ Tướng Chính phủ chỉ đạo cho các tập đoàn kinh tế quốc doanh cấm không được găm ngoại tệ mà phải bán ngay theo tỷ giá chính thức cho các NHTM. Việc nâng tỷ giá cũng đã phần nào làm giảm chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường niêm yết và thị trường tự do, phản ánh khách quan hơn cung cầu thực trên thị trường ngoại hối này. Hình 2.1.2c: Diễn biến tỷ giá USD/VND năm 2009 ( Nguồn : Reuters ) Như vậy, ta có thể thấy rẳng chính sách tỷ giá của Việt Nam chủ yếu là sử dụng các công cụ trực tiếp để tác động lên tỷ giá. Ngân hàng nhà nước đã quy định và thay đổi tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và biên độ tỷ giá, thực hiện mua vào và bán ra ngoại tệ, thực hiện biện pháp kết hối trong một khoảng thời gian để điều chỉnh tỷ giá theo mục tiêu của chính sách kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó Ngân hàng Nhà nước cũng sử dụng các công cụ gián tiếp như là thuế quan và hạn ngạch nhằm tăng xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, lãi suất tái chiết khấu, tăng lãi suất cho vay bằng ngoại tệ để giảm áp lực vay bằng ngoại tệ và thúc đẩy các tổ chức đang găm giữ ngoại tệ bán ra nhằm cân đối hài hòa cung - cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ, góp phần kiểm soát nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô. Nhìn chung, chính sách tỷ giá của Việt Nam đang được thực hiện ngày càng linh hoạt và theo tín hiệu của thị trường. 2.2. Hệ quả của công tác quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay Chính sách tỷ giá của Việt Nam theo thời gian đã có những bước tiến đáng kể, tuy nhiên bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt chưa tốt và hệ quả của nó. Sau đây là một vài vấn đề chủ yếu Thứ nhất, việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu. Điều này được chứng minh bằng một thực tế là nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007, 17,5tỷ USD trong năm 2008 và năm 2009 nhập siêu là 12,2 tỷ USD. Nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh, và cùng với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng. Điều này một mặt khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng từ khoảng 23 tỷ USD vào cuối năm 2008 xuống còn khoảng 16,5 tỷ USD vào cuối năm 2009 Hình 2.2a : Dự trữ ngoại hối của Việt Nam (tỷ USD) (Nguồn SBV) Thứ 2 là mặc nhiên hình thành “cơ chế hai giá” trên thị trường, một là tỷ giá niêm yết do Ngân hàng Nhà nước công bố, hai là tỷ giá thị trường tự do và mức chênh lệch giữa hai loại tỷ giá này là khá lớn. Điều quan trọng là hiện nay hầu hết những giao dịch thông qua hệ thống chính thức (ngân hàng thương mại) đều bám vào tín hiệu thị trường tự do. Tỷ giá niêm yết đôi khi chỉ là hình thức, việc hạch toán trở nên méo mó bởi hành vi “chung ngoài, chi thêm” thì mới mong mua được và được bán ngoại tệ. Rất nhiều trường hợp vì bất lực trong việc cung ứng ngoại tệ, ngân hàng thương mại buộc phải đóng vai trò trung gian kết nối khách hàng xuất - nhập khẩu để họ tự “làm giá” với nhau. Điều đáng nói là cho đến nay những biện pháp can thiệp của NHNN vẫn chưa thay đổi một cách căn cơ tình hình nói trên, khiến cho thị trường gần như vận đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTỷ giá hối đoái và vấn đề quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan