Đề án Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường

Trong nền kinh tế hàng hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải cố gắng tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội của hàng hoá. Nhà tư bản sẽ chiếm số chênh lệch giảm giá trị xã hội và giá trị cá biệt chừng nào năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa. Phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội được K.Mazx gọi là giá trị thặng dư siêu nghạch. Giá trị thặng dư siêu nghạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh, nó là động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động hợp lý để tăng năng sức lao động.

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1837 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được sử dụng tư bản. Như vậy ADam Smith và David Ricazdo là những người đầu tiên thấy được nguồn gốc của lợi nhuận là lao động không được trả công, bản chất của lợi nhuận là quan hệ bóc lột. 3-/ Học thuyết kinh tế thời kỳ hậu cổ điển với đại biểu Jcan Baptiste say: Jcan Baptiste say cho rằng lợi nhuận là hiệu suất đầu tư của tư bản mang lại. Nếu đầu tư tư bản vào sản xuất sẽ làm tăng thêm sản phẩm, phù hợp với phần tăng thêm về giá trị - từ đó máy móc tham gia vào sản xuất sẽ tham gia vào việc làm tăng thêm giá trị. Điều đó có nghĩa cùng đầu tư nhiều thì càng mang lại nhiều lợi nhuận, lợi nhuận chính là do tư bản đầu tư mang lại. Quan điểm này là thiếu cơ sở và hoàn toán chủ quan, nó thể hiện sự xa rời đối với tường phái cổ điểm. II-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mac về lợi nhuận: 1-/ Giá trị thặng dư, nguồn gốc của lợi nhuận. Kế thừa có phê phán những quan điểm của ADam Smith và David Ricazdo, Kanl Mdix đã xây dựng nên học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết đã chỉ rõ nguồn gốc bản chất của lợi nhuận. Khi xem sét quá trình lưu thông trong chủ nghĩa tư bản, Mazx đã thấy rằng tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức T- H- T. ở đây ta thấy rằng nếu số tiền thu về (T’) bằng số tiền ứng ra (T) thì quá trình vận động trên trở nên vô nghĩa, mục đích của lưu thông tiền tệ ở đây không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị tăng thêm bởi vậy số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra. Vậy nên T’ = T + DT Trong đó DT Mazx gọi là giá trị thặng dư. Một câu hỏi lập tức được đặt ra là DT ở đâu ra, phải chăng chính lưu thông đã làm cho tiền tăng thêm và hình thành giá trị thặng dư ? về điểm này Mazx đã nêu ra 3 trường hợp: + Nếu hàng hoá được trao đổi ngang giá thì chỉ có sự thay đổi hình thái giá trị, còn tổng số giá trị cũng như phần giá trị thuộc về mỗi bên trao đổi thì trước sau vẫn không thay đổi và như vậy không ai có thể thu được từ lưu thông một lượng giá trị lớn hơn hưởng giá trị đã bỏ ra. + Trong trường hợp trao đổi không ngang giá thì những ai có hàng hoá bán đều bán được với giá cao nhưng khi là người mua thì lại phải mua với giá cao. Xét trong toàn bộ xã hội thì giá trị không tăng lên, do đó trong trường hợp này cũng không tạo ra giá trị thặng dư. + "Giả sử trong xã hội có một loại người “bịp bợm” chuyên mua rẻ bán đắt thì cái mà họ được chẳng qua chỉ là của người khác mất đi mà thôi, đó là những hành động móc túi nhau ngoài xã hội". Theo Mazx việc mua rẻ bán đắt mà giàu lên thì chỉ là một vài trường hợp cá biệt chứ không thể giải thích được sự làm giàu của toàn bộ giai cấp tư bản: “Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản của một nước không thể làm giàu trên lưng giai cấp mình” Như vậy dù trao đổi ngang giá hay không ngang giá thì lưu thông cũng không tạo ra giá trị thặng dư. Tuy nhiên để thực hiện một giá trị thặng dư thì giá trị thặng dư phải ở trong lưu thông, có nghĩa là hàng hoá phải bán được thì giá trị thặng dư mới được thực hiện. TLSX SLĐ SX H’ T’ H T - Công thức chung của tư bản không thể giải thích đầy đủ về sự xuất hiện của giá trị thặng dư, bởi vậy Mazx đã đi sâu hơn vào chính trị chung của tư bản. Nhìn vào công thức này bản chất của vấn đề đã đều bộc lộ. Đi sâu nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa Mazx đã khám phá ra quy luật kinh tế cơ bản của PT sản xuất tư bản chủ nghĩa là sản xuất ra giá trị tín dụng. Để tiến hành sản xuất nhà tư bản phải bỏ tiền ra mua TLSX và thuê công nhân (mua hàng hoá sức lao động). Nhà tư bản đã tìm thấy một loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường đó là sức lao động. Đặc điểm của loại hàng hoá này là khi tiêu dùng nó thì nó tạo ra một giá trị lớn hơn. Như vậy giá trị sử dụng của sức lao động chính là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư. Quá trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có hai đặc trưng là: + Người công nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiệu quả nhất. + Sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản chứ không phải của công nhân. Chính hai đặc trưng trên đã dẫn đến giá trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua (giá cả sức lao động) luôn nhỏ hơn giá trị mà sức lao động đó có thể tạo ra. Điều này có thể được giải thích như sau: ngày lao động của công nhân được chia thành 2 phần: Phần lao động mà người công nhân tạo ra một lượng giá trị ngang bằng với giá trị sức lao động của mình gọi là thời gian lao động cần thiết, phần còn lại của ngày lao động là thời gian lao động thặng dư. Như vậy thời gian lao động thặng dư là thời gian lao động mà nhà tư bản không phải trả tiền cho người lao động. Trên thực tế trong quá trình lao động người công nhân sáng tạo ra một giá trị mới là v+m trong đó. v là giá trị sức lao động (tư bản khả biến). m là giá trị thặng dư. Tuy nhiên họ chỉ nhận được tiền công bằng giá trị hay giá cả sức lao động, còn phần giá trị thặng dư là thuộc về nhà tư bản. Từ những lập luận trên ta thấy giá trị thặng dư là giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, các bộ phận khác nhau của tư bản có tác dụng khác nhau. Có bộ phận tư bản được sử dụng trong nhiều quá trình sản xuất. Có bộ phận được sử dụng vào sản xuất lại tiêu hao toàn bộ và chuyển biến giá trị của nó vào sản phẩm trong một chu kỳ sản xuất. Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào trong sản phẩm , tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất được K.Mazx gọi là tư bản bất biến và ký hiệu là c. Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng được K.Mazx gọi là tư bản khả biến và ký hiệu là v. Như vậy tư bản bất biến là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất ra giá trị thặng dư còn tư bản khả biến có vai trò quyết định trong quá trình đó vì nó chính là bộ phận tư bản đã lớn lên. Vậy giá trị của hàng hoá được sản xuất bao gồm: c + v + m. - Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư vì vậy toàn bộ hoạt động của nhà tư bản dẫn hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư. Những phương pháp có bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối: + Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động cần thiết không thay đổi gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối. + Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện đó dài ngày lao động không đối, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, được gọi là giá trị thặng dư tương đối. Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân, đồng thời cũng phải tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt đó (vì khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị hàng hoá sẽ giảm xuống). Trong nền kinh tế hàng hoá, sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải cố gắng tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá so với giá trị xã hội của hàng hoá. Nhà tư bản sẽ chiếm số chênh lệch giảm giá trị xã hội và giá trị cá biệt chừng nào năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa. Phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội được K.Mazx gọi là giá trị thặng dư siêu nghạch. Giá trị thặng dư siêu nghạch là mục đích trực tiếp cạnh tranh mà mỗi nhà tư bản cố gắng đạt tới trong cuộc cạnh tranh, nó là động lực thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất và tổ chức lao động hợp lý để tăng năng sức lao động. 2-/ Lợi nhuận - hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư. Như chúng ta đã biết muốn tạo ra giá trị hàng hoá tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định: lao động quá khứ và lao động hiện tại. - Lao động quá khứ: là giá trị của tư liệu sản xuất (c) - Lao động hiện tại: là lao động tạo giá trị mới (v + m) Đứng trên quan điểm xã hội mà xét thì đó là chi phí thực tế để tạo thành giá trị của hàng hoá (c + v + m). Tuy nhiên nhà tư bản chỉ ứng tư bản để sản xuất hàng hoá tức là họ chỉ ứng ra một số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản. K.Mazx gọi đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và ký hiệu là K (k=v + v). Chúng ta có thể thấy ngay một điều là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá: (c + v ) < (c + v + m) Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn có một khoản chênh lệch cho nên sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu được một số tiền lời ngay bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận. Giá trị hàng hoá = c + v + m = k + m Giá trị hàng hoá = k + p Vậy p và m có gì khác nhau ? Thế nhưng chỉ khi nào hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p. Sự khác nhau giữa m và p được thể hiện ở chỗ nếu hàng hoá bán với giá cả cao hơn giá trị thì p > m, nếu bán với giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hoá thì p < m - nhà tư bản có thể bán hàng hoá dưới giá trị của nó mà vẫn có lợi nhuận chừng nào giá bán của hàng hoá còn cao hơn chi phí sản xuất tư bản của nó. Nếu xét trong toàn bộ xã hội thì giá trị thặng dư chính là lợi nhuận còn nếu xét đến với từng nhà tư bản thì lợi nhuận lên xuống xung quanh giá trị thặng dư, số không thống nhất với giá trị thặng dư. Song dù nói thế nào thì lợi nhuận vận được sinh ra từ giá trị thặng dư nó có nguồn gốc là giá trị thặng dư. Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước và ký hiệu là p’ p’ nói lên mức lên của việc đầu tư tư bản, tỷ suất lợi nhuận tăng lên khi m tăng hoặc tư bản cố định giảm xuống (tiết kiệm tư bản cố định). Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản. Hiện nay có một định nghĩa về lợi nhuận được mọi người thừa nhận: Lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí. P = TR - C TR: doanh thu của một hãng (số tiền mà nó kiếm được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định) C: Chi phí của hãng (những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó). Nhìn vào công thức trên ta dễ dàng thấy lợi nhuận sẽ tăng lên khi chi phí giảm xuống, hoặc doanh thu tăng lên tuy nhiên đã là kinh tế thị trường, thì mọi vẫn đề của doanh nghiệp đều phải gắn liền với yếu tố thị trường. Đất nước ta hiện đang trong công cuộc đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Vậy cơ chế thị trường là gì ? Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó, cá nhân người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn nhau qua thị trường để xác định ba vấn đề trung tâm của tổ chức kinh tế là: Cái gì? Như thế nào ? và cho ai?. Nói đến thị trường và cơ chế thị trường là phải nói tới hàng hoá, người bán và người mua, giá cả hàng hoá. Trong cơ chế thị trường tồn tại 4 quy luật kinh tế cơ bản sau: (*) Quy luật giá trị: Yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hoá phải dựa trên cơ sở hưởng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết (tức là chi phí khác bình quân trong xã hội). Với cơ chế thị trường vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất ra có bán được hay không. Để hàng hoá có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phải phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội có thể chấp nhận được. (*) Quy luật cung cầu: Nêu lên mối quan hệ giữa nhu cầu và khả năng cung ứng trên thị trường. Quy luật này quy định cung và cầu luôn có xu hướng chuyển động xích lại với nhau để tạo ra sự cân bằng trên thị trường. (*) Quy luật giá trị thặng dư: Yêu cầu hàng hoá bán ra phải bù đắp chi phí sản xuất và lưu thông đồng thời phải có một khoản lợi nhuận để tái sản xuất sức lao động và tái sản xuất mở rộng. (*) Quy luật cạnh tranh: Quy định hàng hoá sản xuất ra phải ngày càng có chi phí thấp hơn, chất lượng ngày càng tốt hơn để thu lợi nhuận cao và có khả năng cạnh tranh với các hàng hoá khác cùng loại. Sự tác động của 4 quy luật trên đòi hỏi các doanh nghiệp phải nhạy bén nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. chương II: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường II. Kinh tế thị trường và ảnh hưởng của cơ chế thị trường đến thu lợi nhuận. 1.Khái niệm kinh tế thị trường và cơ chế thi trường. Thị trường là chỗ gặp nhau của cả người mua va người bán các hàng hoá và dịch vụ.Một số trường hợp khác “Thị trưòng là sự thể hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của các gia đình về tiêu dùng cac mặt hàng nào,các quyết định của các công ty về sản xuất cái gì,sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả”(2). “Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó,cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì,như thế nào và cho ai.Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung,cầu và giá cả thị trường”(3). 2.Ưu điểm và khuyết điểm của cơ chế thị trường. Thực tế khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường.Tuy nhiên có thể nêu lên một số ý kiến sau: Ưu điểm của cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ.Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động,huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế. Khuyết tật cua nền kinh tế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm,khủng hoảng kinh tế có tính chất chu kỳ.Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dìa lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ. Như vậy,cơ chế thị trường có một loạt những khuyết tật vốn có của nó.Do đó ,ngày nay trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý,mà thường có sự can thiệp của Nhà nước,khi đó nền kinh tế,như người ta gọi là nền kinh tế hỗn hợp. 3. Tác dụng của cơ chế thị trường trong việc thu lợi nhuận. Nhờ cơ chế thị trường giải quyết những vấn cơ bản của tổ chức kinh tế.Cần sản xuất loại hàng hoá gì với khối lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định khi họ quyết định mua hàng hoá này mà không cần mua hàng hoá kia.Lợi nhuận lôi kéo các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi nhuận cao.Do đó mà đáp ứng được nhu cầu của xã hội. II :Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay trong nền kinh tế thị trường - những lý luận của Mazx về lợi nhuận vẫn còn nguồn giá trị, nếu gạt bỏ tính chất tư bản thì lợi nhuận mang tính chất tích cực. Nó chính là thước đo chính xác nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của một doanh nghiệp. Lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, từ sức lao động của con người bởi vậy con người phải được đặt vào vị trí trung tâm để phát huy những tiềm năng chưa được khai thác hết. Thực tế đã cho thấy chiến lược con người ngày càng trở nên quan trọng trong mỗi tổ chức kinh tế, nhất là ngày nay khi lao động trí óc đang khẳng định vị trí của nó. Nước Nhật sau đại chiến thế giới II bị kiệt quệ vì bại trận, toàn bộ nền kinh tế của Nhật trở về con số 0 thế nhưng họ đã nhanh chóng vươn lên thành một siêu cường kinh tế vì vấn đề quan tâm đầu tiên của chính phủ Nhật là nước Nhật còn bao nhiêu nhà bác học. Nói như vậy để chúng ta thấy được tầm quan trọng của chiến lược con người. Liên quan đến con người thì có rất nhiều vấn đề như giáo dục đào tạo, chế độ lương bổng, đạo đức...thế nhưng chúng ta chỉ quan tâm đến doanh nghiệp bởi vậy để đặt ra là làm thế nào để doanh nghiệp có đội ngũ giỏi về quản lý, thành thạo về chuyên môn. Điều này liên quan đến cơ chế tuyển dụng và chính sách của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết mục đích của các nhà tư bản là lợi nhuận, là giá trị thặng dư bởi vậy họ mong muốn sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư bằng các phương pháp: Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối. Việc sản xuất ra giá trị thặng dư tuyệt đối bằng cách kéo dài thời gian lao động chỉ được áp dụng vào thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản còn hiện nay phương pháp này đã không tồn tại nữa do sự đấu tranh của công nhân. Thế nhưng phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối lại được áp dụng rộng rãi cho đến tận ngày nay bởi những lợi ích to lớn không thể phủ nhận của nó. Như Mazx đã lý luận, muốn tăng giá trị thặng dư bằng phương pháp này, nhà tư bản cần làm giảm giá trị sức lao động của công nhân xuống, điều này chỉ có thể thực hiện khi năng sức lao động của toàn xã hội tăng lên, có nghĩa là áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Khi một nhà tư bản quyết định cải tiến kỹ thuật, áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất tức là làm giảm giá trị cá biệt của hàng hoá mà anh ta sản xuất trong khi giá trị xã hội của hàng hoá đó trên thị trường vẫn không thay đổi. Số chênh lệch giữa giá trị xã hội và giá trị cá biệt làm nên giá trị thặng dư siêu ngạch của nhà tư bản. Với sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất, những công nghệ mới ra đời lập tức lại được áp dụng vào sản xuất công nghệ cũ lãi trở lên lạc hậu. Cứ như vậy mục đích theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch đã làm cho nền sản xuất ngày càng phát triển, đáp ứng được nhu cầu cao của con người. Tóm lại lợi nhuận là động lực trực tiếp mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hoàn thiện tổ chức sản xuất, dẫn đến sản xuất xã hội ngày càng phát triển. - Nói đến cơ chế thị trường là phải nói tới cung - cầu hàng hoá, đó là sự khái quát của hai lực lượng người bán và người mua trên thị trường. Người bán thì muốn tối đa lợi nhuận còn người mua thì muốn tối đa độ thoả dụng. Muốn tăng lợi nhuận thì phải tăng doanh thu bằng cách nâng giá bán hoặc nâng sản lượng bán ra. Do tác động của quy luật cung cầu, việc nâng hay hạ sản lượng hoặc giá cả chỉ được giải quyết thông qua thị trường. Nếu một loại hàng hoá nào đó có nhiều người mua thì người bán sẽ tăng giá lên để phân phối một lượng cung hạn chế đồng thời giá lên cao sẽ thúc đẩy người sản xuất làm ra nhiều hàng hoá hơn. Khi có nhiều hàng hoá, người bán muốn mua nhanh để giải quyết hàng của mình nên hạ giá bán xuống. Khi hạ giá, số người mua hàng lại tăng lên do đó người bán lại tăng giá lên. Như vậy lợi nhuận tác động một cách gián tiếp (thông qua quy luật cung cầu) đến hành vi của nhà sản xuất và người tiêu dùng, điều tiết một cách hợp lý giá cả, sản lượng hàng hoá trên thị trường. - Lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải tối thiểu hoá các chi phí đầu vào. Điều này chỉ có thể thực hiện khi họ biết kết hợp những yếu tố sản xuất một cách hiệu quả, tránh lãng phí, biết tổ chức sản xuất một cách hợp lý tránh những khâu trung gian không cần thiết. Lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế.Nó ảnh hưởng cả đến chính trị và xã hội và len lỏi vào mọi mặt đời sống xã hội trong mọi nền kinh tế thị trường .Và trong nền kinh tế thị trường lợi nhuận cũng có hai mặt của nó mặt tích cực và tiêu cực.Vấn đề ở đây là chúng ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy được vai trò của nó. 1. Lợi nhuận là động lực,mục tiêu trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tê thị trường lợi nhuận luôn được các nhà kinh tế,các tổ chức kinh tế coi đó là động lực ,mục tiêu của mình.Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu về lớn nhất.Điều này đòi hỏi tính chuyên môn cao,sự sắp xếp lại cách tổ chức quản lý.Tổ chức lại các bộ phận quản lý và thiết lập mối quan hệ giữa chúng để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt tránh sự trì trệ không cần thiết trong một số khâu nào đó làm ảnh hưởng tới cả hệ thống quản lý.Hạn chế bớt một số bộ phận cồng kềnh còn giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được chi phí ,đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận.Ngoài ra còn cải tiến kỹ thuật ,nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ nhân viên..Tóm lại lợi nhuận là động lực cơ bản của sự vận động của nền kinh tế hàng hoá . 2. Lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống xã hội. Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản đều là tất yếu khách quan trong quá độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự công bằng xã hội giữa các thành viên trong xã hội.Do đó đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội.Nó đảm bảo cho tất cả mọi thành viên xã hội đều có mức sống tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất ,kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội . Vậy thực chất phân phối đó là cái gì ,đó chính là phân phối lợi nhuận,Vì khi có lợi nhuận thì Nhà nước có chú ý về tiền lương,trợ cấp thất nghiệp phúc lợi xã hội,quy định mức lương tối thiểu,cùng với đó là tăng cường củng cố quốc phòng ,an ninh giáo dục..cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật hiện nay. Chính vì vậy,để có được lợi nhuận cao thì yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có sự đầu tư để nhập các thiết bị phục vụ cho sử dụng,nghiên cứu trong quân sự và giáo dục.Khi có lợi nhuận cao chúng ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển xã hội trong đó có con người. Tóm lại vai trò của lợi nhuận đối với các mặt trong xã hội là vô cùng quan trọng. 3.Lợi nhuận tạo điều kiện cho tái sản xuất xã hội. Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội chúng ta cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì? Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hoá thì phải có nhiều vốn.Muốn có nhiều vốn thì phải tích luỹ vốn .Do vậy,tích lũy vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng. Tích lũy vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư,do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm vào quá trình tái sản xuất hay để mở rộng sản xuất.Do vậy,nguồn tích lũy vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng lực lao động cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu) và thực hiện được trong quá trình lưu thông sự tích lũy này có các chủ thể sở hữu về tư liệu sản xuất Nhà nước hay tư nhân thực hiện gía trị thặng dư tạo thành. Tóm lại ,vai trò của lợi nhuận đóng vai trò quyết định đối với quá trình tái sản xuất xã hội III : Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. 1.Mặt tiêu cực của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những mặt tích cực của lợi nhuận thì để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với nhau trên thương trường bất kể trong nội bộ ngành hay giữa các ngành. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa vầ nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng lớn.Khi sự tích tụ tập trung sản xuất phát triển đến một mức độ cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền.Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển lợi nhuận của tập đoàn độc quyền càng nhiều ,nhưng hậu quả như lạm phát,thất nghiệp,khủng hoảng lại rơi xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngoài ra đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần các ngành nghề truyền thống.Sự phát triển của công nghiệp cùng với những cặn bã của nó đã đang làm ô nhiễm môi trường sống..mà sự ô nhiễm môi trường đang là một vấn đề nhức nhối cần thiết của các quốc gia.Nếu chúng ta không ngăn chặn kịp thời,thì thế giới sẽ không còn sự sống.Bên cạnh đó là các tệ nạn xã hội như cờ bạc,làm hàng giả.. Tóm lại các vấn đề tiêu cực của xã hội do lợi nhuận gây ra đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp làm sao cho phù hợp. 2. Vai trò của nhà nước. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường rất quan trọng.Vai trò đó được thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó thông qua đó sẽ làm giảm các vấn đề do tiêu cực của lợi nhuận gây ra trong nền kinh tế thị trường. Đảm bảo sự ổn định chính trị xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.Nhà nước tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và sự hoạt động của thị trường,đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp.Khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con người và bản thân cả Chính phủ phải tuân theo. Bên cạnh đó Nhà nước điều tiết để đảm bảo cho nền kinh tế thị trườ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50391.doc
Tài liệu liên quan