MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Nội dung 2
I. Cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường 2
1. Các quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế 2
2. Tính tất yếu khách quan cần phải có vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế 4
2.1. Thực trạng về vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước về kinh tế 4
2.2. Cơ chế thị trường - đặc trưng và những ưu, khuyết điểm của nó 6
2.2.1. Khái niệm cơ chế thị trường 6
2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường 6
2.2.3. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường 7
2.3.4 Vai trò quản lý và điều tiết kinh tế của Nhà nước 8
3. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 10
3.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta 10
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 12
4. Mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế 13
4.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô 13
4.2. Chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước về kinh tế 15
II. Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay 16
1. Tiếp tục đổi mới nhận thức và hoàn thiện tốt chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp 16
2. Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế 16
3. Đẩy mạnh cải cách nền hành chính nhà nước 17
4. Đẩy mạnh đấu tranh chống tệ quan liêu và nạn tham nhũng 17
5. Tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 17
6. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước 18
Kết luận 20
Tài liệu tham khảo 21
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trị, xã hội, đảm bảo tăng trưởng kinh tế khá, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đưa nước ta cơ bản ra khỏi khủng hoảng; đã mạnh dạn đổi mới cơ chế, chính sách quản lý kinh tế và điều hành, xử lý các tình huống hết sức phức tạp có hiệu quả tốt. Nhà nước cũng đã mạnh dạn đổi mới hệ thống kinh tế nhà nước, đổi mới hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, từng bước phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng, quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; đổi mới và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức quản lý nhà nước phù hợp với cơ chế mới… Do đó, đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế xã hội và thành công của công cuộc đổi mới.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình đổi mới, quản lý nhà nước về kinh tế còn có nhiều mặt hạn chế và yếu kém:
Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới, chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát, tiêu cực của kinh tế thị trường. Đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng, chưa tăng cường được vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ, chưa nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Quản lý lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tiền tệ, giá cả, kế hoạch, thương mại, phân phối thu nhập, đất đai, vốn và tài sản nhà nước chưa tốt, chưa hiệu quả và chậm đổi mới.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước còn nặng nề, quan hệ phân công và hiệp tác chưa rõ ràng và còn nhiều vướng mắc, tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phân tán cục bộ còn nghiêm trọng; cán bộ và công chức nhà nước còn nhiều hạn chế cả về trình độ, năng lực và phẩm chất, chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Thực trạng trên đòi hỏi nhà nước phải tiếp tục đổi mới quản lý, tăng cường vai trò quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế. Đó là một tất yếu khách quan.
2.2. Cơ chế thị trường - đặc trưng và những ưu, khuyết điểm của nó
2.2.1. Khái niệm cơ chế thị trường:
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của các qui luật kinh tế vốn có của nó; cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào, và cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường:
Trước hết, thông qua cơ chế thị trường mà các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan hiếm như lao động, vốn, tài nguyên thiên nhiên về cơ bản được quyết định một cách khách quan thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế đặc biệt là qui luật cung cầu. Thông qua qui luật cung - cầu mà hình thành nên giá cả thị trường, giá cả thị trường lên xuống xung quanh giá trị thị trường và nó là kết quả thoả thuận giữa người mua với người bán, nó tạo lên mức lợi nhuận trên thị trường mà từ đó có tác động chuyển dịch cơ cấu đầu tư sản xuất vào các lĩnh vực cho lợi nhuận cao
Thứ hai, trong cơ chế thị trường, tất cả các quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá thông qua giá cả thị trường, làm cho các hoạt động kinh tế phát triển nhanh và dễ dàng hơn.
Thứ ba, trong cơ chế thị trường, động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích kinh tế được biểu hiện tập trung ở mức lợi nhuận.
Thứ tư, cơ chế thị trường tạo cho các chủ thể kinh tế tự do lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng. Dựa trên các qui luật kinh tế và tính tự chủ, các mối quan hệ kinh tế, các nhà sản xuất, kinh doanh lựa chọn cho mình phương án sản xuất và kinh doanh phù hợp nhất để thu được lợi nhuận tối đa, và người tiêu dùng được tự do lựa chọn tiêu dùng vì các quan hệ kinh tế đã được tiền tệ hoá.
Thứ năm, thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế, đặc biệt là sự linh hoạt của hệ thống giá cả, nền kinh tế thị trường luôn duy trì được thế cân bằng giữa mức cung và cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít gây ra sự khan hiếm và thiếu thốn hàng hoá.
Thứ sáu, cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản suất. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến trong cả lĩnh vực sản xuất và trong cả lĩnh vực lưu thông, hình thức và những biện pháp của cạnh tranh có thể rất phong phú nhưng động lực và mục đích cuối cùng cuả cạnh tranh chính là lợi nhuận.
Thứ bảy, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, mối quan hệ giữa mục tiêu tăng cường tự do cá nhân và mục tiêu và công bằng xã hội, giữa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống cũng có sự phát triển tương ứng.
Thứ tám, cơ chế thị trường đặt người tiêu dùng vào vị trí hàng đầu. Nhờ sự phát triển sức sản xuất mới và các nhu cầu mới, cơ chế thị trường có xu hướng thoả mãn nhu cầu biến đổi không ngừng của các nhóm dân cư sao cho phù hợp với lối sống của họ, thay cho nguyên tắc sản xuất, cung ứng hàng loạt, bất chấp nhu cầu.
Thứ chín, nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường, là nhân tố sống động của cơ chế thị trường. Nhà nước không đứng ngoài cơ chế thị trường. Không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ chế thị trường.
2.2.3. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường:
Thực tế khó đánh giá đầy đủ những ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường. Tuy nhiên, có thể nêu lên những ưu điểm của cơ chế thị trường như sau:
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau. Những nhiệm vụ này nếu Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong việc đưa ra các quyết định.
Cơ chế thị trường mềm dẻo hơn Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội.
Nhờ vậy cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế: Cần sản xuất loại hàng hoá gì với số lượng bao nhiêu do người tiêu dùng quyết định; Lợi nhuận lôi cuốn các doanh nghiệp vào sản xuất mặt hàng có mức lợi cao, đáp ứng nhu cầu xã hội. Sản xuất bằng phương pháp nào, công nghệ gì được quyết định bởi cạnh tranh để cho tối đa hoá được lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. Hệ thống giá cả là tín hiệu cho một phương pháp công nghệ thích hợp. Sản xuất hàng hoá cho ai (phân phối) được quyết định bởi quan hệ cung – cầu trên thị trường các nhân tố sản xuất.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội chứng minh rằng cơ chế thị trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự hoàn hảo, mà nó vốn có những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có thể chỉ ra một số khuyết tật sau đây của cơ chế thị trường:
Hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ không hoàn hảo của cạnh tranh, cạnh tranh càng không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm. Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh trnah hoàn hảo sẽ dẫn tới phấn bố và sử dụng hiệu quả nhất đầu vào của sản xuất và đầu ra, tức là nền kinh tế đứng trên đường giới hạn khả năng sản xuất.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người
Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ. Người ta nhận thấy rằng một nền kinh tế hiện đại đứng trước một vấn đề nan giải của kinh tế vĩ mô không một nước nào trong thời gian dài lại có được lạm phát thất nghiệp thấp và công ăn việc làm đầy đủ.
Như vậy, cơ chế thị trường với một loạt những khuyết tật trên đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước với vai trò kinh tế của mình
2.3.4 Vai trò quản lý và điều tiết kinh tế của Nhà nước.
Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước:
Kinh tế thị trường tạo ra động lực mạnh mẽ, làm cho các hoạt động kinh tế trở nên sôi động, tận dụng và tiết kiệm nguồn lực, hướng tới việc đáp ứng nhanh nhạy những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội với năng suất, chất lượng và hiệu quả, song cần phải có sự can thiệp của nhà nước.
Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế thị trường thông qua các công cụ kế hoạch, chính sách kinh tế, pháp luật, các biện pháp kinh tế và bằng nguồn lực của kinh tế nhà nước.
Về kế hoạch hoá: xác định phát triển kinh tế tổng thể; kế hoạch dự đoán về kinh tế vĩ mô, lựa chọn phát triển ngành, vùng, hạ tầng cơ sở như giao thông, điện,… không có tính áp đặt đối với các doanh nghiệp mà tạo cho họ phương hướng phát triển kinh tế phù hợp với yêu cầu của đất nước.
Về các chính sách kinh tế:
Chính sách giá cả, tỷ giá trong nền kinh tế thị trường: trên cơ sở phân biệt rõ giá cả trong trường hợp cạnh tranh và trong trường hợp độc quyền; phải biết chi phí thực và giá thực của hàng hoá, phản ánh khá đúng quan hệ cung – cầu, giá trị sức mua đồng tiền, và tình hình thực tế của thị trường trong nước cũng như của nước ngoài
Quản lý ngoại thương: hạn chế nhập khẩu, bảo hộ khuyến khích sản xuất trong nước và khuyến khích nhập khẩu.
Chính sách tài chính – tiền tệ: đặc biệt là ngân sách, tín dụng, lãi suất và thuế suất là chính sách trợ cấp tài chính và miễn giảm thuế, tạo điều kiện cho hoạt động bình thường giữa các thành phần kinh tế.
Chính sách phát triển kinh doanh
Chính sách chi tiêu ngân sách: tránh lãng phí và nâng cao hiệu quả kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế.
Tăng cường dự trữ nhà nước và khi cần thiết nhà nước sử dụng nguồn lực kinh tế nhà nước của mình để can thiệp vào nền kinh tế.
b. Vai trò điều tiết kinh tế của Nhà nước:
Sự điều tiết của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Sự điều tiết của Nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây:
Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi: Trong kinh tế thị trường các chủ thể thị trường được tự chủ, nhưng quyền tự chủ đó phải được thể chế hoá thành pháp luật và mọi hành vi đều tuân theo pháp luật. Hệ thống pháp luật đồng bộ bao trùm mọi hoạt động kinh tế, nhưng có thể quy về những lĩnh vực sau:
Luật xác định các chủ thể pháp lý
Luật về các quyền: quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng…
Luật hợp đồng
Luật về sự đảm bảo của Nhà nước đối với các điều kiện chung của nền kinh tế: bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống, hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội…
Các luật về tổ chức Nhà nước, ngăn ngừa việc lạm dụng quyền lực Nhà nước, loại trừ việc cấu kết giữa quyền lực Nhà nước với quyền lực kinh tế.
Nhà nước tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (quan trọng nhất là giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (quan trọng nhất là giáo dục đào tạo), cùng với các dịch vụ công cộng khác như đảm bảo an ninh, dịch vụ tín dụng…
Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch, các chương trình phát triển kinh tế – xã hội và ban hành những chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy bằng cách sử dụng các đòn bẩy kinh tế. Thí dụ: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay những ai đầu tư vào những ngành, những vùng mà Nhà nước cần ưu tiên phát triển…
Nhà nước sử dụng những biện pháp hành chính khi cần thiết, chẳng hạn cấm xuất khẩu gỗ để bảo vệ rừng, phạt những hành vi làm ô nhiễm môi trường…
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
3.1. Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Trong lịch sử nhân loại đã diễn ra những mô hình kinh tế khác nhau: kinh tế tập trung và kinh tế thị trường. Theo thời gian, chúng ta đã có một cách nhìn đầy đủ và một sự lựa chọn kinh tế. Mô hình kinh tế tập trung có những ưu điểm đảm bảo tính tập trung thống nhất, thích hợp với điều kiện chiến tranh, nhưng khi chuyển sang xây dựng và phát triển kinh tế thì mô hình kinh tế tập trung tỏ ra không phù hợp.
Sau giải phóng miền Nam, chúng ta vẫn duy trì cơ chế tập trung, sản xuất kém phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, thời điểm gay cấn nhất là khi không còn viện trợ nước ngoài. Nhưng trongkhó khăn đã xuất hiện những hiện tượng khác lạ, những tìm tòi thử nghiệm từ phong trào quần chúng, từ đơn vị kinh tế cơ sở có sức thuyết phục như khoán trong nông nghiệp, xé rào tự cân đối, tự trang trải trong công nghiệp, giá cả - lĩnh vực nhạy cảm và cốt lõi của cơ chế cũ, đã có những cuộc thử nghiệm (điều chỉnh giá năm 1981, tổng điều chỉnh giá - lương – tiền năm 1985, thử nghiệm xoá bỏ phân phối theo định lượng ở một số tỉnh phía Nam… )
Trước những đòi hỏi bức bách của cuộc sống và những thử nghiệm có sức thuyết phục, Đảng ta đã nhạy cảm tổng kết thành cơ chế chính sách tạo đà cho công cuộc đổi mới. Nghị quyết 6 (Khoá VI) – 1979: “cho sản xuất bung ra”, “cho tự do lưu thông”, chỉ thị khoán 100 của Ban bí thư Trung ương đến nhóm và người lao động (1981), khoán 10 (khoán hộ 1988) của Bộ Chính trị, quyết định 25, 26 CP (1985 –1986), … Nhưng tất cả mới là những thử nghiệm tìm tòi mang giải pháp tình thế, chưa có sự thay đổi căn bản về quan điểm.
Đại hội lần thứ VI của Đảng sau khi phê phán cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã nhất quán chuyển sang kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng kinh tế đối ngoại. Về cơ chế quản lý đó là cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh, tôn trọng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Tổng kết hai năm thực hiện Đại hội Đảng VI, sản xuất phát triển, nhất là nông nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế đối ngoại, càng khẳng định nềm tin để đẩy tới một bước về cơ chế. Hội nghị Trung ương 6 (khoá VI) bắt đầu sử dụng cụm từ “cơ chế thị trường”. Đại hội lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang cơ chế thị trường với ba quan điểm kinh tế cơ bản: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài; một thị trường thống nhất thông suốt hoà nhập thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lý của Nhà nước và cơ chế vận hành nền kinh tế nước ta là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng khẳng định những chuyển đổi theo chiều sâu sớm hình thành thị trường đồng bộ, đổi mới kế hoạch hoá, hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng trên cơ sở tổng kết toàn diện những thành công và những tồn tại, những bài học chủ yếu của công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước đã xác định mục tiêu giai đoạn đến năm 2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt mục tiêu được đề ra trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
3.2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có tính chất chung của nền kinh tế: nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước để giảm bớt những “thất bại của thị trường”. Nhưng do điều kiện lịch sử – xã hội của mỗi nước biến động khác nhau, đặc biệt là do chế độ xã hội khác nhau, nền kinh tế thị trường ở các nước có những đặc điểm riêng. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, là nền kinh tế gồm nhiều thành phần dựa trên cơ sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu; trong đó kinh tế Nhà nước dựa trên sở hữu nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại ba hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, cần được khuyến khích phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước. Tuy nhiên, trong cơ cấu nhiều thành phần đó, kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo. Đó là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường ở các nước khác. Bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế Nhà nước, nói đúng là kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần quan tâm tới vấn đề cơ cấu lại khu vực kinh tế Nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước để chúng hoạt động có hiệu quả.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực, và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý.
Mỗi một chế độ xã hội có một chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế, dó đó cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế.
Thứ ba, cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do thả nổi mà là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội – xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước được xem là phương thức, con đường thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy vậy cũng cần nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế phải tương hợp với thị trường. Vì vậy, Nhà nước sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ đối ngoại
Đây cũng là xu hướng chung của các nền kinh tế thế giới hiện nay. Có mở cửa, hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hướng mạnh về xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nước sản xuất có hiệu quả.
Mục tiêu và các chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế
4.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Toàn dụng nguồn nhân lực:
Lực lượng lao động có kỹ năng và trình độ nhất định của mọi quốc gia là một trong số nguồn lực quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và phát triển. Nếu tỷ lệ thất nghiệp quá cao sẽ trở thành gánh nặng xã hội. Được coi là toàn dụng nhân lực khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức khoảng 2 – 3%. Vì vậy, nâng cao trình độ, kỹ năng lao động và cung cấp các cơ hội việc làm cho những người có khả năng, có nhu cầu làm việc là một nhân tố làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập của người lao động và tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Kiềm chế và ổn định lạm phát ở mức chấp nhận được:
Lạm phát được coi như căn bệnh kinh niên mà các quốc gia phải đối đầu. Quy mô lạm phát quá cao hay quá thấp hoặc giảm phát đều ảnh hưởng mạnh tới sản xuất, tiêu dùng, tới sự tăng trưởng kinh tế và tới quy mô của ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, khống chế, kiểm soát và ổn định lạm phát ở mức chấp nhận được hoặc ở mức vừa phải được coi là một mục tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu.
Duy trì và ổn định tỷ giá hối đoái ở mức chấp nhận được:
Đây được coi là một mục tiêu vĩ mô quan trọng vì tỷ giá hối đoái quá cao hoặc quá thấp đều có tác động mạnh mẽ tới luồng ngoại tệ chảy vào hoặc ra đối với một quốc gia. Tỷ giá hối đoái còn tác động mạnh tới xuất, nhập khẩu của một quốc gia, nhất là một nước đang cần tăng cường xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu thiết bị, công nghệ mới cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
Cùng với kiểm soát, ổn định được lạm phát, duy trì và ổn định tỷ giá hối đoái thực tế trên thị trường còn là yếu tố quan trọng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đối với phát triển kinh tế quốc dân.
Cân bằng ngân sách nhà nước:
Nếu thâm thủng ngân sách quá lớn so với GDP sẽ trực tiếp tác động tới tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, tới tăng trưởng, tới dự trữ quốc gia và còn ảnh hưởng cả cán cân thanh toán quốc tế của đất nước đó. Do vậy, cân bằng ngân sách như một trong số mục tiêu kinh tế vĩ mô trọng yếu.
Cân bằng cán cân thanh toán:
Đây là một trong số mục tiêu kinh tế vĩ mô có tác động mạnh tới sự phát triển kinh tế quốc dân. Duy trì cân bằng cán cân thanh toán nói chung cũng như cán cân thương mại, cán cân vãng lai đối với một nước kém và đang phát triển là điều khó khăn lớn. Thâm hụt là điều khó tránh khỏi, song ổn định ở một tỷ lệ thâm hụt nhất định là điều cần và có thể cố gắng duy trì.
Bảo đảm công bằng xã hội:
Bất công bằng gần như căn bệnh của kinh tế thị trường và được nhiều giới nghiên cứu cũng như tầng lớp dân cư quan tâm. Do đó các chính phủ cần cố gắng điều tiết sao cho có sự công bằng và kích thích sản xuất phát triển.
Tăng trưởng kinh tế bền vững:
Đây là một mục tiêu của các mục tiêu kinh tế vĩ mô trên đây. Nó tác động, đồng thời phụ thuộc nhiều vào các mục tiêu đó. Vấn đề là không phải chỉ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ, tăng trưởng bền vững và tăng trưởng phải đi đôi với tiến bộ xã hội. Điều đó đòi hỏi sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong và ngoài nước; sử dụng hữu hiệu lợi thế so sánh của quốc gia.
Ngoài ra còn có các mục tiêu vĩ mô như tiêu dùng và đầu tư phát triển; dự trữ quốc gia tương đối chắc chắn…
4.2. Chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước về kinh tế
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh, bao gồm các môi trường chính trị, pháp luật, kinh tế, tâm lý, xã hội, kết cấu hạ tầng… là những điều kiện cần thiết đẻ các giới kinh doanh yên tâm bỏ vốn kinh doanh và kinh doanh thuận lợi, ổn định, góp phần phát triển có hiệu quả kinh tế đất nước.
Định hướng và hướng dẫn phát triển kinh tế: Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhà kinh doanh và các tổ chức kinh tế do không nắm được tình hình và xu hướng biến động của thị trường, nên thường chạy theo thị trường một cách bị động, dễ gây ra thua lỗ, gây thiệt hại chung cho nền kinh tế; dễ đi chệch quỹ đạo và mục tiêu kinh tế – xã hội đã được Đảng và Nhà nước đề ra. Do đó, Nhà nước có chức năng định hướng phát triển định hướng phát triển kinh tế và hướng dẫn các nhà kinh doanh, các tổ chức kinh tế hoạt động đúng định hướng thông qua hệ thống các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và công cụ quản lý như pháp luật, chính sách, thông tin, các nguồn lực khác.
Tổ chức: Nhà nước cần sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị kinh tế, trong đó quan trọng nhất và cấp thiết nhất là các doanh nghiệp nhà nước; tổ chức các vùng kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất nhằm tạo nên cơ cấu kinh tế hợp lý. Đồng thời, còn cần tổ chức lại hệ thống quản lý, đổi mới thể chế và thủ tục hành chính; đào tạo, sắp xếp lại cán bộ quản lý…
Điều tiết: Nhà nước vừa phải tuân thủ và vận dụng các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, vừa phát huy mặt tích cực của nó nhằm điều tiết, chi phối thị trường hoạt động theo định hướng, đảm bảo cho kinh tế phát triển ổn định, công bằng và có hiệu quả. Để thực hiện điều tiết và hướng dẫn thị trường, Nhà nước sử dụng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35265.doc