MỤC LỤC
Tiêu đề Trang
Lời Mở Đầu 1
A. Đánh giá chung về tình hình phát triển thuỷ sản nước ta trong những năm qua 3
1. Hiện nay ở nước ta đang có những thuận lợi cơ bản để phát triển một ngành thuỷ sản, đó là 4
2. Để phát triển thuỷ sản một cách bền vững có hiệu quả cao cũng cần phải nhận thức rõ những thách thức đang đặt ra, đó là 6
3. Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành thuỷ sản nước ta trong những năm qua 7
4. Kế hoạch phát triển của ngành thuỷ sản thời kỳ 2001 -2005 9
5. Nguồn nhân lực Việt Nam trong ngành thuỷ sản hiện nay 11
B. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản nước ta trong những năm qua. 13
I. Vai trò cuả xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế 13
1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước 14
2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy sản xuất phát triển. 14
3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 16
4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 16
I. Tình hình sản xuất thuỷ sản trong nước. 16
1. Tình hình chung về xuất khẩu thuỷ sản. 16
2. Việc thực hiện chương trình xuất khẩu thuỷ sản. 20
3. Một số vấn đề trong sản xuất các mặt hàng thuỷ sản ở nước ta hiện nay. 22
4 . Những thuận lợi trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản 25
5 . Những khó khăn trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản 27
6 . Đôi điều về một doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản đạt hiệu quả 29
7. Những bài học kinh nghiệm trong chế biến xuất khẩu thuỷ sản. 30
8. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong xuất khẩu. 31
III . Thị trường xuất khẩu thế giới. 32
1 . Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. 32
2. Thị trường Mỹ 35
3. Thị trường thuỷ sản EU 38
4. Những biện pháp đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá ở nước ngoài 39
C. Vận dụng một số phương pháp thống kê phản ánh tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua theo số liệu sau: 40
I. Dãy số thời gian. 41
1. Các chỉ tiêu phân tích dãy số thời gian 41
2. Phương pháp biểu hiện xu hướng phát triển cơ bản của tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua 45
3. Phân tích các thành phần tạo thành mức độ của dãy số thời gian. 50
II. Dự đoán (đến năm 2004) 54
1. Một số phương pháp dự đoán đơn giản. 54
2. Dự đoán dựa vào hàm xu thế và biến động thời vụ. 59
D . Giải pháp và định hướng xuất khẩu Thuỷ sản những năm tới 64
1. Những giải pháp cơ bản thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản. 64
2. Hệ thống quản lý chất lượng HACCP, an toàn vệ sinh thực phẩm - những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh tăng trưởng xuất khẩu. 66
71 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vận dụng một số phương pháp thống kê phản ánh tình hình xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua 1995-2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cách quản lí, đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm và an toàn vệ sinh thực phẩm. Do đó làm tăng tính cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là các doanh nghiệp đã chủ động làm tốt trong lĩnh vực này như Xí nghiệp chế biến hàng xuất khâủ Cầu Tre, Xí nghiệp chế biến thuỷ sản Thái Tân, Xí nghiệp đông lạnh 8. Nông và ngư dân ở nhiều địa phương nhất là các tỉnh Nam Trung Bộ và Nam Bộ đã mạnh dạn bỏ vốn hoặc vay vốn phát triển nuôi tôm, tạo nguồn nguyên liệu cho các cơ sở chế biến. Vì vậy có thể nói Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đã thổi thêm luồng sinh khí mới vào phong trào nuôi trồng thuỷ sản trong cả nước, tạo ra một khối lượng lớn nguyên liệu ổn định, đạt yêu cầu chất lượng để chế biến xuất khẩu.
Trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, một lực lượng đông đảo các tổ chức, doanh nghiệp, dự án trong nước và quốc tế đã được tập hợp nhằm phục vụ công tác xuất khẩu thuỷ sản, từ việc xây dựng các đề án, chương trình phát triển của địa phương đến qui hoạch , phát triển thị trường, sắp xếp đổi mới doanh nghiệ, đào tạo, hợp tác với nước ngoài. Chính sức mạnh tổng hợp này đã đem lại sự khởi sắc đáng mừng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong những năm qua.
Tuy nhiên, nhìn lại việc thực hiện Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản càng thấy rõ những khó khăn bất cập trong công tác quản lí điều hành của Ban chỉ đạo chương trình ở cấp ngành cũng như các địa phương. Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản của các địa phương tuy đã được xây dựng nhưng nhìn chung bị hạn chế về chất lượng, lúng túng trong định hướng và cách làm. Nhiều địa phương chưa có qui hoạch chung về phát triển thuỷ sản cũng như qui hoạch cụ thể các vùng nuôi tôm và mạng lưới công nghiệp chế biến thuỷ sản, hoặc qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương tuy đã được thông qua nhưng không còn phù hợp với xu thế phát triển và cơ chế quản lí mới, năng lực xây dựng dự án còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển.
3. Một số vấn đề trong sản xuất các mặt hàng thuỷ sản ở nước ta hiện nay.
Đối với nước ta nông nghiệp chiếm một vai trò quan trọng, cho nên việc phát huy tiềm năng về lĩnh vực chế biến nông - thuỷ sản là điều kiện hiển nhiên của một nước đang phát triển với chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Đóng góp của Thuỷ sản so với Nông sản
Năm
1996
1997
1998
1999
% so với nông sản
42,3
38,2
39,7
39,2
Nhìn ở bảng trên ta thấy sự đóng góp của thuỷ sản so với nông sản hàng năm không phải là nhỏ. Song một điều đáng tiếc là cho đến nay các mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng thô mới qua sơ chế nên giá trị không cao. Do đó vô hình chung mà chúng ta đã bỏ phí một lượng của cải vật chất tương đối lớn. Nguyên nhân tạo nên tình trạng trên thì rất nhiều nhưng chủ yếu là:
Không được đầu tư một cách thích đáng vào các nhà máy chế biến thuỷ sản.
Hệ thống máy móc của các nhà máy chế biến chủ yếu đã xuống cấp Đây là vấn đề tương đối bức bách bởi các thiết bị máy móc của các nhà máy chủ yếu từ thời bao cấp để lại. Các phân xưởng xây dựng đã lâu nay không còn phù hợp với sản xuất, cụ thể là không còn phù hợp về an toàn vệ sinh thực phẩm. Thế nhưng cũng có một số nhà máy năng động, kịp thời xây dựng và mua trang thiết bi mới, đồng thời nâng cấp các phân xưởng, áp dụng các tiêu chuẩn về vệ sinh như: GMP (thực hành sản xuất tốt) HACCP(hệ thống phân tích tại điểm điểm kiểm soát tơí hạn) hay SSOP (tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm) nhưng nhìn chung vẫn còn rất rời rạc. Trong khi đó khách hàng nước ngoài chủ yếu đến với những nhà máy đã được chứng nhận về tiêu chuẩn vệ sinh quốc tế.
Một thực tế đang diễn ra là các doanh nghiệp thiếu tính đoàn kết trong sản xuất và kinh doanh, làm ăn theo kiểu chụp giật, từ đó ảnh hưởng mạnh đến uy tín của ngành thuỷ sản Việt Nam . Chính vì vậy, các ngành, các cấp có chức năng cần có biện pháp nghiêm khắc để xử lí những trường hợp cố tình làm ăn chụp giật kiểu trên.
Thêm vào đó tình trạng: “cá lớn nuốt cá bé ’’ những doanh nghiệp lớn có uy tín, được đầu tư, được cấp chứng chỉ quốc tế về vệ sinh, rõ ràng đơn đặt hàng phải nhiều, nhiều khi không đủ cung cấp về số lượng và chủng loại vì vùng biển Việt Nam là vùng biển nhiệt đới, nên nguyên liệu dù đa dạng song không đồng đều và không ổn định, thành ra các nhà máy không đáp ứng nổi số lượng mà khách hàng yêu cầu, vì uy tín lại không được từ chối, nên chấp nhận và sau đó đi đến các xí nghiệp nhỏ đặt hàng. Do đó các doanh nghiệp lớn o ép về giá cả, chất lượng đối với các xí nghiệp nhỏ. Nếu
không gia công thì các xí nghiệp này lấy gì trả lương cho công nhân, cho các chi phí khác như hao mòn nhà cửa, máy móc thiết bị. Vì vậy , chúng ta phải tạo ra một khối thống nhất về hành động ở các nhà máy chế biến.
Hiện nay, nước ta đã đứng thứ 29 trên thế giới về xuất khẩu thuỷ sản. Nhất là năm 1998 ngành thuỷ sản Việt Nam đã làm được một bước đột phá, đó là thâm nhập vào thị trường Mỹ. Đây không những là một thị trường rộng lớn mà còn hào phóng và nhiều tiềm năng. Hơn nữa vị trí của các mặt hàng chế biến thuỷ sản trong đời sống hiện nay càng ngày càng được nâng lên, rất phù hợp với xu hướng ẩm thực chung. Đó là giảm tiêu dùng các thực phẩm chứa nhiều chất béo, tăng thực phẩm chứa nhiều chất đạm . Hàng thuỷ sảnViệt Nam được nhập khẩu trực tiếp vào Mỹ, Châu Âu (9,8 và 11,3% ) điều đó nói lên sự nỗ lực của bộ, ngành thuỷ sản và các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trong những năm gần đây. Trong tương lai chúng ta có quyền tin tưởng rằng ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ là ngành mũi nhọn thực sự, vững vàng thực sự trong mọi sự cạnh tranh ngày càng gay gắt , đồng thời là ngành tiên phong của đất nước trong quá trình hội nhập, giao lưu theo xu hướng chung “ toàn cầu hoá “ nền kinh tế thế giới.
4 . Những thuận lợi trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản
Có thể nói chưa bao giờ xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam lại gặp khó khăn như trong năm 2002. Trước hết, đó là việc Liên minh châu Âu (EU) tăng cường kiểm tra dư lượng kháng sinh 100% lô hàng tôm nhập khẩu, khiến một loạt các thị trường khác như Mỹ, Ca-na -đa và Nhật Bản cũng áp dụng quy định tương tự. Tiếp đến, tại thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ, Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ (CFA) kiện các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, cá basa Việt Nam bán phá giá.Tuy nhiên xuất khẩu thuỷ sản năm qua vẫn tăng mạnh cả về lượng và chất, đạt hơn 2 tỷ USD -tăng 2 lần trong vòng 3 năm .
Nếu xuất khẩu thuỷ sản trong nửa cuối năm 2002 cứ như những tháng đầu năm, thì ngay cả những người lạc quan nhất cũng không dám dự đoán sẽ hoàn thành mục tiêu 2 tỷUSD. Sáu tháng đầu năm các doanh nghiệp thuỷ sản mới xuất khẩu được 845 triệuUSD, tăng 1,6% so với cùng kỳ năm 2001. Điều đó có nghĩa để hoàn thành kế hoạch năm, mỗi tháng còn lại phải xuất khẩu 195-200 triệuUSD. Thế nhưng, những nỗ lực của ngành thuỷ sản đã được đền đáp xứng đáng.
Thứ nhất, xuất khẩu thuỷ sản tăng cả khối lượng và giá trị, năm 2002 tăng gần 20% về lượng và 15% về giá trị so với năm 2001. Kim ngạch xuất khẩu năm 2002 tăng 2,2 lần năm 1999 và gấp 1,5 lần năm 2000 .
Thứ hai , sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam đã tăng đáng kể. Ngư dân Việt Nam đã tận dụng tốt lợi thế so sánh để phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đa dạng hoá đối tượng nuôi có giá trị xuất khẩu, làm ra những sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ và khối lượng lớn.
Đặc biệt sản phẩm philê chế biến từ cá tra, cá basa của vùng Cửu Long hiện được coi là mặt hàng không có đối thủ cạnh tranh về mặt chất lượng và giá cả trên thị trường quốc tế, kể cá nheo nuôi tại Mỹ. Trái ngược với lo ngại của nhiều người là thị trường xuất khẩu cá tra cá basa sẽ xấu đi do ảnh hưởng của vụ kiện chống phá giá tại Mỹ, khối lượng đặt hàng vẫn tăng mạnh với giá tăng 5-10%. Từ chỗ chỉ tiêu thụ ở vài thị trường, trong đó Mỹ chiếm tới 80-90% đến nay sản phẩm philê từ 2 loài cá nước ngọt này đã được xuất sang gần 30 thị trường trong đó có Nhật Bản, Trung Quốc, Thuỵ Sỹ, Ô-xtrây-lia ...
Ngoài mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn (55,1%) là tôm, cá cũng đang trở thành mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam với tỷ trọng tăng từ 13% năm 1999 lên 20% năm 2002.
Thứ ba, các doanh nghiệp chế biến đã tích cực đầu tư nâng cấp điều kiện sản xuất, áp dụng chương trình quản lý chất lượng sản phẩm theo HACCP, quản lý chất lượng theo ISO 9001 .
Thứ tư, thị trường xuất khẩu ngày càng rộng mở. Từ chỗ chỉ có 45 thị trường trong năm 1997, đến năm 2002 con số này đã tăng lên trên 80. Xuất khẩu sang 2 thị trường lớn là Mỹ và Nhật Bản lần lượt là 34%(680 triệuUSD) và 28% (560 triệuUSD) trong tổng kim ngạch xuất khẩu.Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc đã nổi lên là những thị trường lớn. Xuất khẩu thuỷ sản năm 2002 sang Trung Quốc trị giá trên 300 triệuUSD (15%), sang Hàn Quốc 100triệuUSD (5%) và Đài Loan 100 triệuUSD (5%). Trong khi đó giá trị xuất khẩu sang 15 nước thành viên EU giảm gần 30% chỉ đạt khoảng 80 triệu USD
Trong năm 2002, trước khó khăn về nguồn nguyên liệu cho chế biến và thị trường có nhiều bất lợi, ngành Thuỷ sản đã thực hiện đồng bộ một loạt giải pháp: Xây dựng những vùng nuôi an toàn, với việc áp dụng và hướng dẫn người nuôi thực hiện các quy định nuôi sạch và an toàn; Tăng cường kiểm soát việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh, thức ăn và hoá chất dùng trong nuôi trồng, bảo quản và chế biến thuỷ sản. Các chi nhánh Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản đã được đầu tư nâng cấp thiết bị kiểm tra dư lượng kháng sinh với giá trị 27 tỷ đồng. Ngành còn đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, với việc tổ chức cho các doanh nghiệp đi khảo sát thị trường và tham dự hội chợ thương mại tại Mỹ, Trung Quốc, Pháp ...
Với khả năng vượt qua những thử thách khắc nghiệt như năm qua, có cơ sở để tin rằng ngành thuỷ sản tiếp tục giữ vững nhịp độ tăng trưởng, đạt mục tiêu 2,3 tỷ USD trong năm 2003 .
5 . Những khó khăn trong vấn đề xuất khẩu thuỷ sản
Để hoàn thành thắng lợi các chỉ tiêu kế hoạch của năm 2003 -năm bản lề mang tính quyết định bảo đảm cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm chương trình xuất khẩu thuỷ sản 2001-2005 -mà còn cả cho những giai đoạn tiếp sau; chúng ta cần phải nhận thức một cách rõ ràng những gì có thể là khó khăn, trở ngại trên con đường xuất khẩu.Đó là:
Trước hết, cần nói đến những gì chưa hoàn thiện trong những điểm tựa cơ bản nhất của sự phát triển ngành. Luật Thuỷ sản đã được xây dựng để trình Quốc hội và chắc sẽ được phê duyệt trong thời gian trước mắt. Song việc thể hiện nó bằng những qui phạm quản lí dưới luật và đưa vào thực tiễn không phải là điều có thể làm được ngay. Sẽ có những thay đổi trong quan điểm và thực tiễn quản lí việc sử dụng nguồn lợi, phát triển thủy sản một cách bền vững. Điều đó sẽ còn khó khăn hơn khi mà cơ cấu bộ máy quản lí ngành, từ trung ương đến địa phương còn đang trong quá trình chuyển đổi và sự thiếu vắng cơ quan chuyên ngành ở cấp cơ sở đối với hoạt động sản xuất ở cấp xã, huyện, thậm chí là ở cả nhiều tỉnh trên cả nước . Trong bối cảnh như vậy, qui hoạch tổng thể -căn cứ pháp lí cơ bản nhất cho việc hoạch định những chương trình, kế hoạch phát triển, những chỉ tiêu cơ bản trong một giai đoạn dài cũng chưa được phê duyệt, mặc dù đã qua nhiều lần tu chỉnh. Sự vắng mặt của một qui hoạch tổng thể như vậy chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc hạn chế tính tự phát trong quá trình phát triển. Dù những hạn chế, khó khăn nêu trên có ảnh hưởng đến công tác quản lí và hoạch định chính sách của ngành trong thời gian trước mắt, song nó đã được nhận biết và đang được tích cực khắc phục, vì vậy chắc chắn sẽ không phải là khó khăn lâu dài. Nhưng dẫu sao, ngay trong thời gian đầu của năm nay cũng sẽ có những ảnh hưởng nhất định đến tính ổn định của việc thực hiện các kế hoạch phát triển.
Nhóm khó khăn thứ hai đến từ chính sự trưởng thành vượt bậc của ngành trong thời gian qua. Về phía bên trong, sự tăng trưỏng của ngành, mà chủ yếu dựa trên một nghề “khai thác các tiềm năng của thiên nhiên “ đã dẫn chúng ta nhanh chóng tiếp cận đến giới hạn của sự bền vững. Những thông báo mới đây về tình hình nguồn lợi biển vùng gần bờ cho thấy đã đạt tới hoặc vượt quá giới hạn cho phép. Quỹ diện tích có thể chuyển đổi cho nuôi trồng đang dần tiến tới giới hạn. Tính hiệu quả trong khai thác xa bờ cũng đang là vấn đề tranh luận. Chúng ta cố gắng để phát triển nuôi các đối tượng mới, nhưng vấn đề sản xuất đủ con giống đòi hỏi những nỗ lực rất lớn. Thêm vào đó, sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành thuỷ sản Việt Nam, nhất là về kim ngạch xuất khẩu, cũng dẫn tới nhiều khó khăn từ bên ngoài. Theo số liệu thống kê, các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn, có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ đôla bao giờ cũng phân thành 2 nhóm rõ rệt. Nhóm dẫn đầu chỉ khoảng 5 quốc gia, luôn giữ khoảng cách khá xa (khoảng 1tỷ đôla ) so với nhóm thứ hai, là nhóm các nước có kim ngạch xuất khẩu từ 1,8 tỷ đôla trở xuống. Năm 2002 chúng ta đã vượt qua nhóm này để bước vào khoảng giữa 2 nhóm và trong thời gian tới sẽ tiến vào nhóm dẫn đầu. Vì vậy, cách cư xử của các quốc gia khác đối với chúng ta không thể như trước. Bây giờ, một mặt họ sẽ kính nể, ca ngợi chúng ta nhiều hơn mặt khác cũng có sự e ngại nhiều hơn thậm chí là có những tác động ngăn cản sự phát triển của ngành thuỷ sản nước ta. Điều này có thể dễ dàng nhận thấy như tranh chấp về thương hiệu, kiện về bán phá giá, gia tăng các điều kiện về kĩ thuật như đã và đang xảy ra.Nếu chúng ta muốn gia tăng nuôi tôm nhưng lại phụ thuộc về con giống, thức ăn ...vào những bạn hàng mà chính họ cũng là người nuôi xuất khẩu thì không thể lúc nào chúng ta cũng thu được thành công như mong muốn. Như vậy, để phát triển một cách bền vững, lâu dài đòi hỏi chúng ta phải vượt lên, đạt được sự độc lập tiên tiến trong nhiều lĩnh vực như sản giống, thức ăn, công nghệ. Cũng chính trong sự tăng trưởng nhanh chóng của xuất khẩu đã buộc chúng ta phải nhận thức được một vấn đề quan trọng: tỷ trọng sản lượng nguyên liệu được sử dụng cho chế biến xuất khẩu ngày một cao hơn trong tổng sản lượng. Để duy trì tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng sản lượng nguyên liệu, đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ bản công nghệ chế biến để sử dụng ít nguyên liệu hơn nhưng lại đạt giá trị cao hơn.
Nhóm khó khăn thứ ba, đó là hiệu quả đầu tư cho sản xuất khai thác nuôi trồng và chế biến ngày một thấp dần, khiến lợi thế trong đầu tư của ngành ngày một ít hấp dẫn hơn. Trong chế biến, không chỉ đầu tư cho nhà xưởng, thiết bị hiện đại ...mà còn phải đầu tư cho các hệ thống bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bao bì, thương hiệu...Thêm vào đó nguồn nhân lực ngày càng hiếm hoi, khó đáp ứng hơn cho việc mở rộng quy mô sản xuất. Do đó chúng ta thấy xuất hiện tình trạng các nhà đầu tư ngày càng chú trọng tìm kiếm, mở rộng các cơ sở nuôi trồng hơn là phát triển chế biến. Lĩnh vực khai thác lại càng khó thu hút đầu tư hơn nữa do tính bấp bênh của nguồn lợi tính mạo hiểm trong nghề nghiệp trong khi đó giá sản phẩm ngày càng giảm chi phí xăng dầu, điện nước ngày càng gia tăng.
Như vậy, có thể nói duy trì sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu là một điều rất khó. Chính vì vậy mà chúng ta phải dự đoán trước những khó khăn để tìm biện pháp khắc phục sớm thì sự tăng trưởng mới đảm bảo được tính bền vững, dài lâu.
6 . Đôi điều về một doanh nghiệp nhà nước tham gia hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản đạt hiệu quả
Đó chính là Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Cầu Tre thuộc Tổng công ty thương mại Sài Gòn, là một doanh nghiệp nhà nước, được thành lập từ tháng 1/1993. Ngành sản xuất kinh doanh là: Sản xuất chế biến thuỷ súc sản ( đông lạnh và khô ), nông sản thực phẩm tươi và khô phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Trong 5 năm (1996-2000) Xí nghiệp đã có tốc độ tăng trưởng rất nhanh về doanh thu, kim ngạch xuất khẩu ...Giá trị tổng sản lượng thực hiện năm 2000 là 184,562 triệu đồng so với năm 1996 tăng 224%. Tương ứng: kim ngạch xuất khẩu đạt 14,170 triệuUSD, tăng 188%; hàng chế biến tiêu thụ nội địa đạt 31 tỷ đồng, tăng 34%.
Sở dĩ Xí nghiệp đạt được những thành quả đáng khích lệ nói trên là nhờ những yếu tố cơ bản mà xí nghiệp tích cực phấn đấu:
Xí nghiệp đã định hướng đúng trong pháy triển sản xuất kinh doanh là tập trung sản xuất sản phẩm giá trị cao.
Hàng năm Xí nghiệp xây dựng kế hoạch có tính khả thi cao dựa trên sự đánh giá đúng mức tiềm năng và triển vọng.
Xí nghiệp đã tập trung đổi mới công nghệ, đổi mới quản lí chất lượng theo các yêu cầu khó tính của các thị trường như Mỹ, EU...
Đa phương hoá và cơ cấu thị trường phù hợp nhằm tránh rủi ro khi có biến động kinh tế.
Cơ cấu mặt hàng liên tục được đa dạng hoá, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng, tận dụng năng lực sản xuất.
Coi trọng công tác đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề chuyên môn cho công nhân.
Ban Giám đốc, Đảng bộ, Công đoàn ...là một khối đoàn kết.
7. Những bài học kinh nghiệm trong chế biến xuất khẩu thuỷ sản.
Những năm gần đây, sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản có sự tăng trưởng vượt bậc. Do đó, từ thực tế phát triển xuất khẩu thuỷ sản chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm trong hoạt động chế biến xuất khẩu:
+ Về thị trường và hội nhập
Thị trường tiêu thụ quan trọng của chúng ta là thị trường nước ngoài, bất cứ biến động nào của thế giới cũng có thể ảnh hưởng đến sản xuất trong nước nếu ta không chủ động hội nhập. Thực tế đòi hỏi cơ quan nhà nước, bao gồm cả hệ thống cơ quan tổ chức, năng lực cán bộ cũng như luật pháp chính sách phải đi trước trong quấ trình hội nhập. Các vấn đề công nghệ, môi trường chính sách cũng phải vươn lên theo kịp yêu cầu hội nhập.
+ Về huy động sức dân
Hiện nay, trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu sự tham gia của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang tăng lên rất nhanh, chiếm khoảng 30% doanh số xuất khẩu thuỷ sản. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp quốc doanh làm ăn có hiệu quả đã thực sự đi đầu chủ đạo trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản.
+ Về tổ chức hệ thống quản lý
Khi chúng ta tăng cường quản lý ra tất cả các vùng sản xuất nguyên liệu thì nhất thiết phải có cơ quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm ở địa phương. Vì vậy, chủ trương cải cách hành chính, tinh giản biên chế là cần thiết, nhưng phải xuất phát từ yêu cầu quản lý trong thời kỳ mới.
Bước vào thế kỷ XXI, thế và lực của ngành thuỷ sản đã thay đổi môi trường và bối cảnh trong nước, quốc tế cũng có nhiều thay đổi. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tìm ra những bài học kinh nghiệm của thời kỳ qua và tiếp tục đổi mới để tìm ra những con đường phát triển mới.
8. Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong xuất khẩu.
Năm 2002 là năm ngành thuỷ sản gặp nhiều khó khăn trong việc đối phó với rào cản kỹ thuật do các nước nhập khẩu đặt ra; như do phát hiện dư lượng các chất kháng sinh ( chloramphinecol, nitrofurans...) trong sản phẩm thuỷ sản. Cơ quan có thẩm quyền EU ra quyết định tiến hành kiểm tra 100% lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam, việc Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá cá da trơn. Hiện nay, Mỹ đang chuẩn bị kiện Việt Nam và một số nước xuất khẩu thuỷ sản khác bán phá giá tôm. Tuy vậy, dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, của Bộ Thuỷ sản, đặc biệt là sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Thuỷ sản với các Bộ Y Tế, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thương mại cùng với sự chỉ đạo kịp thời của UBND các tỉnh, thành phố đã nhanh chóng giúp cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thuỷ sản Việt Nam bước đầu giải quyết việc quản lý sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc kháng sinh bị cấm. Những biện pháp tích cực của nước ta đã làm cho cơ quan có thẩm quyền EU bãi bỏ quyết định kiểm tra 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam. Các doanh nghiệp chế biến đã sát cánh cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt mục tiêu xuất khẩu thuỷ sản năm 2002. Qua đó cho thấy chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm là cửa mở cho xuất khẩu và hoà nhập với thế giới.
III . Thị trường xuất khẩu thế giới.
1 . Thị trường thuỷ sản thế giới và hướng mở rộng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam.
Thời gian qua, mậu dịch thuỷ sản thế giới vẫn trong xu hướng gia tăng nhờ nhu cầu tăng trên phạm vi toàn thế giới. Các nước tiêu thụ lớn đóng vai trò chi phối thị trường như Mỹ, Nhật Bản, EU. Các khu vực thị trường khác cũng có mức tiêu thụ đáng kể như Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc ...Châu á là khu vực khai thác và xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới trong đó có Thái Lan, Ân Độ, Việt Nam ...Nhờ kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 13 và đứng vào danh sách các nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới.
Hiện nay, nguồn cung thuỷ sản trên thế giới chủ yếu vẫn do sản lượng đánh bắt, sản lượng nuôi trồng tuy có tăng nhưng vẫn chiếm tỷ lệ nhỏ Một số loại thuỷ sản quý hiếm có nhu cầu tăng cao trong khi khả năng cung cấp không theo kịp làm giá có chiều hướng tăng. Những năm gần đây, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam liên tục tăng nhanh về kim ngạch và trở thành một trong những ngành xuất khẩu chủ lực của cả nước; cũng như các nước đang phát triển khác ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, xuất khẩu thuỷ sản đã trở thành một nguồn thu ngoại tệ quan trọng của mỗi quốc gia. Nhật Bản là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất của các nước khu vực Châu á, các thị trường khác phải kể đến EU, Mỹ...Hàng thuỷ sản của Việt Nam đang xuất khẩu sang nhiều thị trường khác nhau, nhưng tập trung vào Mỹ, EU, Nhật Bản và Trung Quốc. Tôm và cá là những nhóm hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào thị trường Mỹ. Mặt hàng tôm của Việt Nam đang xuất khẩu vào Mỹ vừa có khối lượng lớn vừa có giá trị cao do có ưu thế so với một số nước khác về kích cỡ sản phẩm, có uy tín về chất lượng. Hiện nay, nhu cầu nhập khẩu tôm vào Mỹ còn rất lớn, nước ta có thể tăng xuất khẩu vào Mỹ bằng cách các cơ sở chế biến trong nước không ngừng nâng cao năng lực chế biến phục vụ xuất khẩu.Cá tra và cá basa của Việt Nam đã được người tiêu dùng Mỹ quen sử dụng.Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam muốn thành công trên thị trường như Mỹ cần phải chú trọng những yếu tố:Đầu tư xây dựnh hệ thống kho bãi hiện đại, chú trọng xây dựng thương hiệu, chú trọng sản xuất những mặt hàng có chất lượng cao ...Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải có trong tay chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng HACCP- đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường Mỹ .
Thuỷ sản Việt Nam (đặc biệt là tôm) xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đang được giới tiêu dùng đánh giá cao, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này đật khoảng 350 triệu USD/ năm . Hàng thuỷ sản của Việt Nam đang xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản bao gồm nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản các doanh nghiệp của ta cần triển khai mạnh các chương trình phát triển những nhóm sản phẩm chủ lực, chú trọng công tác nghiên cứu thị trường và nghiên cứu khách hàng...Thị trường Nhật Bản rất chú trọng những sản phẩm đạt tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm cao. Đặc biệt, các doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ Luật kiểm dịch và Luật vệ sinh thực phẩm của Nhật Bản để xâm nhập vào thị trường này một cách tốt hơn.
Việt Nam chính thức xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU từ năm 1997. Hiện nay, EU là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt Nam, chiếm khoảng 15% xuất khẩu thuỷ sản của cả nước. Trong những năm gần đây, có những yếu tố thuận lợi thúc đẩy xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào EU. Đó là:
Tháng 11/1999 EU chính thức công nhận Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản Việt Nam có đủ điều kiện được Eu uỷ quyền kiểm tra hàng thuỷ sản trước khi xuất khẩu vào EU.
EU đã đưa hàng thuỷ sản Việt Nam vào danh sách ưu tiên hạng I các nước được xuất khẩu thẳng vào thị trường EU mà không cần có những thoả thuận song phương với từng nước như khi ở danh sách II.
Tháng 4/2000 EU đã thông qua quyết định về những điều kiện cụ thể cho việc nhập khẩu nhuyễn thể 2 mảnh vỏ, loài có vỏ, loài da gai và loài chân bụng sống ở biển của Việt Nam.
Trung Quốc đã vươn lên vị trí thứ ba trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này năm 2001 đạt gần 30 triệu USD . Đây là khu vực thị trường rất có tiềm năng cho xuất khẩu thuỷ sản của nước ta trong thời gian tơí . Để có thể xuất khẩu được lâu dài , các doanh nghiệp của ta cần lựa chọn một số đối tác là các đại lý, các công ty tư nhân hay công ty địa phương ở Trung Quốc có uy tín. Tuy nhiên cũng có những trở ngại trong xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào Trung Quốc, trong đó trở ngại lớn nhất là phương thức thanh toán. Đó là việc Chính phủ Trung Quốc áp dụng chính sách kiểm soát lưu thông ngoại tệ khắt khe, việc thanh toán bằng tiền mặt trong giao dịch gặp nhiều rủi ro ...
Trong những năm tới, nhu cầu về cá nói riêng và thuỷ sản nói chung của thế giới sẽ tăng chủ yếu do tăng chủ yếu do dân số tăng, thu nhập bình quân đầu người cao, tốc độ đô thị hoá tăng nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của thuỷ sản trong việc cung cấp nhu cầu thực phẩm cho người dân.
2. Thị trường Mỹ
2.1 Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và triển vọng xuất khẩu thuỷ sản.
Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam hiện nay, Mỹ được đánh giá là thị trường đầy triển vọng đứng sau Nhật Bản. Trong định hướng phát triển giai đoạn 2005-2010 của ngành thuỷ sản Việt Nam, thị trường Mỹ sẽ chiếm tỷ trọng 25-28% vào năm 2010. Ngành thuỷ sản Việt Nam bắt đầu xuất khẩu vào Mỹ từ năm 1994 với giá trị ban
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33799.doc