Đề án Vốn của ngân hàng thương mại, thực trạng và giải pháp tạo lập vốn trong ngân hàng thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

PHẦN I VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 2

1.Vốn trong kinh doanh ngân hàng 2

1.1. Khái niệm về vốn. 2

1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM. 2

1.2.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh 2

1.2.2. Vốn quyết định quy mô của hoạt động tín dụng và các hoạt động khác của NHTM 3

1.2.3. Vốn quyết định khả năng thanh toán và đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thị trường 3

1.2.4 Vốn là một trong những yếu tố quyết định đến năng lực cạnh tranh của ngân hàng. 4

2. Các thành phần trong vốn của Ngân hàng thương mại (NHTM) 4

2.1.Vốn chủ sở hữu 4

2.1.1.Vốn ban đầu: 4

2.1.2.Vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động. 5

2.1.3.Các quỹ: 6

2.2. Vốn nợ 8

2.3 Tiền vay 11

2.4 Vốn nợ khác 14

Phần II : Thực trạng và giải pháp tạo lập vốn cho ngân hàng thương mại Việt Nam 16

1, Thực trạng 16

2, Các giải pháp 18

2.1 Giải pháp trực tiếp 19

2.1.1 Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động vốn , tăng nhanh nguồn vốn kinh doanh 19

2.1.2 Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt 21

2.2 Giải pháp hỗ trợ 22

2.2.1 Nâng cao chất lượng sử dụng vốn. 22

2.2.2 Mở rộng và cải tiến các dịch vụ 23

2.2.3 Nâng cao chất lượng phục vụ, củng cố uy tín của ngân hàng. 23

2.2.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng 25

Lời kết 26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 27

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1414 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vốn của ngân hàng thương mại, thực trạng và giải pháp tạo lập vốn trong ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu của ngân hàng lớn hơn mệnh giá. Khi ngân hàng phát hành cổ phiếu mới, phần chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu được ghi lại dưới tên gọi thặng dư của vốn. + Do giá trị các tài sản và nợ của ngân hàng thường xuyên thay đổi theo giá thị trường, đặc biệt là các chứng khoán và các bất động sản. Mặc dù chưa bán, ngân hàng thường xuyên đánh giá lại chúng theo giá thị trường. Những chênh lệch do đánh giá lại được đưa vào Quỹ đánh giá lại. Quỹ này thường xuyên biến động gắn liền với thay đổi thị giá, cho phép nhà quản lý đánh giá giá trị thị trường của VCSH. + Ngân hàng thường trích lập các quĩ từ lợi nhuận sau thuế như quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi, quĩ đào tạo, quĩ nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới... Phần quĩ này được sử dụng trong kì. v Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến vốn chủ sở hữu. Vai trò - VCSH góp phần bảo vệ lợi ích của người gửi tiền. Kinh doanh ngân hàng thường xuyên đối đầu với rủi ro. Các khoản tổn thất của ngân hàng sẽ được bù đắp bằng VCSH (đầu tiên là quĩ dự phòng rủi ro, sau đó là lợi nhuận tích luỹ và cuối cùng là vốn cổ phần). Trong trường hợp ngân hàng phá sản hoặc ngừng hoạt động, các khoản tiền gửi sẽ được hoàn trả trước, sau đó đến nghĩa vụ với chính phủ và người lao động, các khoản vay, cuối cùng mới đến chủ giấy nợ có khả năng chuyển đổi, cổ phần ưu đãi, cổ phần thường. Như vậy, nếu qui mô VCSH càng lớn, người gửi tiền và người cho vay càng cảm thấy an tâm hơn về ngân hàng (với các điều kiện khác là như nhau). Khi cơ quan bảo hiểm tiền gửi được thành lập, VCSH góp phần giảm bớt rủi ro cho cơ quan bảo hiểm. - VCSH tạo lập tư cách pháp nhân và duy trì hoạt động của ngân hàng. Để hoạt động, điều kiện đầu tiên là ngân hàng phải có được số vốn tối thiểu ban đầu (vốn pháp định). Số vốn này, trước hết để mua sắm (hoặc thuê) trang thiết bị, nhà cửa cần thiết cho quá trình kinh doanh, phần còn lại tham gia vào quá trình kinh doanh của ngân hàng như vay hoặc mua chứng khoán. - VCSH góp phần điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng. Rất nhiều quy định về hoạt động của ngân hàng của các nhà chức trách tiền tệ có liên quan chặt chẽ với VCSH. Ví dụ: Qui mô nguồn tiền gửi được tính theo tỷ lệ với VCSH, qui mô cho vay tối đa đối với một hoặc một nhóm khách hàng, nắm giữ cổ phiếu của công ty khác, mở chi nhánh, mua sắm tài sản cố định, thành lập công ty con... đều tính theo tỷ lệ với VCSH. Như vậy quy mô và cấu trúc hoạt động của ngân hàng được điều chỉnh theo VCSH. Các nhân tố ảnh hưởng +) Chính sách của chính phủ Các chủ ngân hàng đều có xu hướng thích qui định VCSH ban đầu (pháp định) thấp để thuận tiện cho việc khai trương hoạt động ngân hàng. Tuy nhiên điều này lại ảnh hưởng đến an toàn của hệ thống, an toàn cho người gửi tiền và khiến các cấp quản lý vĩ mô lo ngại. Các vụ phá sản ngân hàng (đang ngày càng gia tăng) thường gây ra những hoảng loạn lớn trong dân chúng và các tổn thất khó lường hết được. Vốn của chủ ngân hàng được sử dụng để trả nợ cho người gửi tiền, giảm bớt khó khăn cho ngân sách, hoặc tổn thất của người gửi tiền. Việc quy định vốn pháp định lớn sẽ hạn chế gia tăng khối lượng các ngân hàng và cạnh tranh giữa các ngân hàng. Mặt khác với mục tiêu khuyến khích ngân hàng tư nhân hoặc ngân hàng có quy mô vừa và nhỏ, Ngân hàng trung ương có thể quy định VCSH ban đầu thấp và ngược lại. Tuy nhiên ngân hàng qui mô nhỏ thường có phạm vi hoạt động hẹp, khả năng đa dạng không cao, vì vậy sức chống đỡ rủi ro kém các ngân hàng lớn. +) Chính sách và kết quả kinh doanh của ngân hàng Chính sách và kết quả kinh doanh của ngân hàng ảnh hưởng tới qui mô và cấu trúc của VCSH. Ngân hàng làm ăn phát đạt và có chính sách gia tăng sức mạnh, sẽ mở rộng VCSH và có khả năng mở rộng VCSH thông qua phát hành thêm cổ phiếu, hoặc tự tích luỹ. Những ngân hàng nhỏ, khả năng sinh lời thấp thì khả năng mở rộng VCSH cũng bị hạn chế. Vốn ngân hàng càng lớn càng tạo cho người gửi tâm lý an toàn. Họ hi vọng rằng, khi bỏ ra một số tiền lớn, những người sở hữu quan trọng của ngân hàng sẽ phải cố gắng hết sức để kinh doanh an toàn. Do vậy để tăng uy tín, thu hút nhiều tiền gửi, ngân hàng phải tăng qui mô VCSH. 2.2. Vốn nợ * Tiền gửi Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau. Bao gồm + Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch) Đây là tiền của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều có được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào tiển gửi thanh toán theo yêu cầu. Nhìn chung, lãi suất của khỏan tiền này rất thấp (hoặc bằng không), thay vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ ngân hàng với mức phí thấp. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay (thấu chi - chi trội trên số dư có của tài khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “biến tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác. + Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội Nhiều khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho hoạt động thanh toán song lãi suất lại thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng để rút tiền ra. Tuy không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, song tiền gửi có kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn. + Tiền gửi tiết kiệm của dân cư Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyếnh khích dân cư thay đổi thói quen giữ tiền vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiệm một trương mục tiết kiệm (hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép. + Tiền gửi của ngân hàng khác Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích, ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác, tuy nhiên qui mô nguồn này thường không lớn. - Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu cầu, ngay cả khi đó là tiền gửi có kì hạn chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn, làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền gửi rất lớn so với các nguồn khác. Thông thường nguồn này chiếm hơn 50% tổng số nguồn vốn và là mục tiêu tăng trưởng hàng năm của các ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi trả cho tiền gửi. Ở nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi. + Các nhân tố ảnh hưởng Lãi suất: Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm đến lãi suất thực, điều đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Thời vụ chi tiêu: ảnh hưởng đến qui mô và tính ổn định của nguồn tiền. Vào dịp Tết, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt trong điều kiện thanh toán bằng tiền mặt còn phổ biến. Thu nhập: Thu nhập gia tăng là điều kiện để gia tăng quy mô và thay đổi kỳ hạn của nguồn tiền. Tại các thành phố lớn, nơi tập trung tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn. Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và các cá nhân cũng gia tăng. Các nguồn tiền gửi thanh toán thường biến động mạnh (kém ổn định) hơn tiền gửi tiết kiệm. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng... 2.3 Tiền vay Sau khi đã sử dụng hết vốn, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các NHTM có thể đi vay ở NHTƯ, ở các NHTM khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức ngoài nước... Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. * Các loại tiền vay + Vay Ngân hàng nhà nước. Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiết hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc, dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu của ngân hàng nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại ngân hàng nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân hàng Nhà nước điều hành vay mượn này một cách chặt chẽ; ngân hàng thương mại phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời gian đáo hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của ngân hàng Nhà nước trong từng thời kì. Trong điều kiện chưa có thương phiếu, ngân hàng Nhà nước cho ngân hàng thương mại vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định + Vay các tổ chức tín dụng khác Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước. Khoản vay có thể không cần đảm bảo, hoặc được đảm bảo bằng các chứng khoán của kho bạc. Kết quả là dự trữ của ngân hàng cho vay giảm đi và của ngân hàng đi vay tăng lên. + Vay trên thị trường vốn Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều ngân hàng thương mại thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Do vậy, các khoản vay trung và dài hạn nhằm bổ sung cho các nguồn tiền gửi, đáp ứng nhu cầu cho vay và đầu tư trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có đảm bảo. Những ngân hàng có uy tín hoặc trả lãi suất cao sẽ vay mượn được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng cách này; họ thường phải vay thông qua các ngân hàng đại lí hoặc được bảo lãnh của Ngân hàng Đầu tư. Khả năng vay mượn còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của thị trường tài chính, tạo khả năng chuyển đổi cho các công cụ nợ dài hạn của ngân hàng. Nghiệp vụ vay mượn tương đối phức tạp. Ngân hàng cần nghiên cứu kĩ thị trường để quyết định qui mô, mệnh giá, lãi suất và thời hạn vay mượn thích hợp. Các vấn đề chuyển nhượng, điều chỉnh lãi suất, bảo quản hộ... cũng được các ngân hàng quan tâm. - Đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng + Đặc điểm: Tỷ trọng của loại nguồn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi. Các nguồn đi vay thường là với thời hạn và qui mô xác định trước, do vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên: ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các khoản vay Ngân hàng nhà nước và vay ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách hàng tăng cao. + Các nhân tố ảnh hưởng Chính sách tiền tệ từng thời kì: Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ là mở rộng, việc vay Ngân hàng nhà nước sẽ trở nên dễ dàng hơn đối với các NHTM nhờ lãi suất tái chiết khấu thấp. Và ngược lại khi chính sách tiền tệ thắt chặt được triển khai, Ngân hàng nhà nước sẽ nâng mức lãi suất tái chiết khấu để hạn chế việc các NHTM đến vay tiền. Thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô ảnh hưởng tới hoạt động vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn. Khi thu nhập của dân cư ở mức cao họ sẽ có xu hướng thích tiết kiệm & mua các giấy nợ. Đồng thời triển vọng về một nền kinh tế ổn định sẽ khiến các khách hàng yên tâm hơn khi nắm giữ giấy nợ. Kĩ thuật nghiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho vay cũng ảnh hưởng tới việc đi vay của ngân hàng. 2.4 Vốn nợ khác Loại này bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác + Tiền uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ... Các hoạt động này tạo nên nguồn uỷ thác tại ngân hàng. Cùng với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều các tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu phát triển như của ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạng lưới ngân hàng như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn uỷ thác, làm gia tăng nguồn vốn của ngân hàng. + Tiền trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể trở thành nguồn trong thanh toán (séc trong quá trình chi trả, tiền kí quĩ để mở L/C...). Những ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay... + Tiền khác: Các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả * Đặc điểm: Phần lớn các nguồn khác ngân hàng không phải trả lãi (lãi suất danh nghĩa bằng không). Tuy nhiên chi phí để có và duy trì chúng rất đáng kể. Ví dụ để có các nguồn uỷ thác ngân hàng phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ, nghiên cứu các dự án mà họ tài trợ... Nhìn chung, các nguồn khác trong ngân hàng thường không lớn (trừ một số ngân hàng có các dịch vụ uỷ thác cho nhà nước hoặc cho các tổ chức quốc tế). Việc gia tăng các nguồn này nằm trong chính sách gia tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng bởi khả năng thực hiện và mở rộng các loại hình dịch vụ khác. Phần II : Thực trạng và giải pháp tạo lập vốn cho ngân hàng thương mại Việt Nam 1, Thực trạng Trong thời gian qua, với chính sách kiềm chế lạm phát trọn gói của chính phủ đã tác động lên thị trường tài chính của Việt Nam. Lãi suất huy động vốn và cho vay của các ngân hàng không ngừng thay đổi, thậm chí là từng giờ. Có một vấn đề là tâm lý của người gửi tiền không ổn định, sự thay đổi lãi suất đó kéo theo một hệ quả là lượng tiền mặt huy động của các ngân hàng tăng giảm thất thường. Khi lãi suất huy động của ngân hàng A tăng lên thì lượng tiền cùng với số lượng người gửi tăng theo, và khi lãi suất huy động của ngân hàng B cao hơn thì một lượng lớn tiền mặt được rút khỏi ngân hàng A và được gửi sang ngân hàng B. Khách hàng đi gửi tiền thường không hiểu rõ các điều kiện ràng buộc của các ngân hàng nên khi rút tiền không đúng kỳ hạn đó phải hưởng mức lãi suất thấp không như kỳ vọng, dẫn đến tâm lý thiếu lòng tin vào các ngân hàng. Tuy tiền lãi mất đi đối với một khách hàng không đáng kể nhưng tính đến toàn hệ thống ngân hàng thì việc này đó dẫn đến thiệt hại không nhỏ. Các ngân hàng thường đưa ra mức lãi suất cao cùng với nhiều chương trình khuyến mại hấp dẫn. Thế nhưng kỳ hạn ứng với mức lãi suất đưa ra đó thường là một năm. Nếu chia bình quân tháng và với một lượng tiền gửi không nhiều thì chi phí cơ hội sẽ cao hơn thu nhập từ tiền lãi. Bên cạnh đó, khách hàng thường không xem trọng mối quan hệ lâu dài giữa khách hàng gửi tiền - ngân hàng huy động, cho nên việc thay đổi đối tác trong giao dịch là điều tất yếu xảy ra. Đây cũng có thể xem như là một chi phí nữa mà khách hàng bỏ ra. Việc tạo dựng được mối quan hệ lâu dài của cả hai phía là một yếu tố mang đậm tính văn hoá kinh doanh, mà điều này thường cả hai phía đều không xem trọng. Qua thời gian biến động cho ta thấy rằng tính chuyên nghiệp cũng như văn hoá kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam còn nhiều yếu kém khi giao dịch không được đặt trên nền tảng lòng tin mà là lợi ích trước mắt. Chính vì sự mong manh đó nên lượng vốn trong dân còn rất lớn nhưng với mức lãi suất huy động cao như hiện nay vẫn không thu hút đáng kể. Và khi khối lượng lớn vốn ấy cứ nằm im thì chúng ta lại tăng chi phí cơ hội của mình một lần nữa. Theo đánh giá của một số chuyên gia trong ngành tài chính ngân hàng, quyết định giữ nguyên lãi suất cơ bản của NHNN sẽ tiếp tục gây áp lực cho hệ thống ngân hàng đối với việc huy động vốn trong bối cảnh thị trường hiện nay. Bởi trước khi quyết định trên được ban hành, các ngân hàng đã kiến nghị NHNN nên bỏ trần lãi suất huy động vốn đang áp dụng 10,5%/năm. Thực tế hiện nay, ngoài mức trần lãi suất huy động là 10,5%/năm, các ngân hàng phải gia tăng khuyến mãi, tặng tiền mặt cho khách hàng, với kỳ vọng thu hút được nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. Chẳng hạn, tại SCB áp dụng chương trình tặng tiền cho khách hàng là tổ chức gửi tiền bằng VND, với mức gửi tối thiểu 50 triệu đồng (kỳ hạn 3 tháng trở lên theo hình thức lĩnh lãi cuối kỳ). Theo đó, SCB tặng ngay tiền mặt bậc thang theo số dư lên đến 0,25%/năm, tặng tiền mặt 0,1%/năm khi gửi lại và tặng tiền mặt cho khách hàng tham gia gửi trước ngày 1/4 lên đến 0,2%/năm. Các ngân hàng khác như ACB, DongA Bank… tặng luôn tiền cho khách hàng khi gửi tiết kiệm. Techcombank thì tặng phiếu mua hàng cho người gửi tiền. Ngoài ra, không ít ngân hàng còn nhân dịp đầu năm mới tặng lì xì cho người gửi tiết kiệm, với mong muốn huy động được nhiều vốn. Năm 2010, chủ trương hỗ trợ lãi suất chỉ còn duy trì đối với các khoản vốn vay trung, dài hạn. Trong khi đó, vốn huy động về của ngân hàng hiện chủ yếu tập trung ở kỳ hạn ngắn ngày (dưới 6 tháng). Nhưng các ngân hàng cho biết, cái khó nhất trong triển khai tín dụng hiện nay vẫn là phải áp dụng trần lãi suất cho vay theo xu hướng lãi suất cơ bản của tháng 3/2010 (trần cho vay là 12%/năm), không đủ bù chi phí. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng cho biết, nhu cầu vốn của khách hàng cá nhân vay mua nhà, đất trả góp mang tính chất dài hạn cũng gia tăng mạnh sau Tết và đây sẽ là cơ hội để phát triển hoạt động cho vay, vốn dĩ được xem là tiềm năng. Theo ông Ngô Xuân Dũng, VIB chỉ hạn chế cho vay các khoản vay có tính rủi ro cao, thiếu hiệu quả. Các khoản vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của người dân như vay mua nhà, căn hộ, nền đất, sửa chữa nhà cửa vẫn đang được VIB đáp ứng đầy đủ, kịp thời. Mức cho vay phụ thuộc vào nhu cầu, tài sản bảo đảm, nguồn trả nợ và một số diều kiện khác theo quy định của Ngân hàng. Thời gian vay tối đa có thể lên tới 180 tháng. Song, cái khó nhất của các ngân hàng hiện nay chính là huy động vốn. Còn NHNN cho rằng, lãi suất đưa ra luôn linh hoạt, nhưng chặt chẽ và được xem xét toàn diện. Nếu nâng lãi suất cơ bản sẽ có lợi cho hệ thống ngân hàng, huy động vốn được nhiều hơn, nhưng lại ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô khác. Vì thế, cần phải nhìn toàn cục, nhìn khía cạnh lợi ích này mà không nhìn lợi ích kia thì sẽ không ổn.            2, Các giải pháp Qua nghiên cứu ta có thể thấy trong những năm qua hoạt động của của các ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế do ảnh hưởng của những nhân tố chủ quan và khách quan. Để có thể thực hiện tốt những nhiệm vụ đề ra và đồng thời khắc phục những hạn chế của những năm trước các Ngân hàng có thể thực hiên các giải pháp sau: 2.1 Giải pháp trực tiếp 2.1.1 Tiếp tục đa dạng hóa các hình thức huy động vốn , tăng nhanh nguồn vốn kinh doanh Đối với hoạt động huy động vốn của ngân hàng đa dạng hóa hình thức huy động vốn sẽ giúp ngân hàng tăng cường hiệu quả huy động vốn vì mỗi công cụ tiền gửi mà ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với nhu cầu của các tổ chức kinh tế và dân cư trong việc tiết kiệm và thanh toán. Khi có ít công cụ khách hàng có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận vì nó chưa đem lại thuận lợi hay tiện ích cho khách hàng. Những sản phẩm mới của ngân hàng lại có những đặc điểm riêng phù hợp với một nhóm khách hàng nhất định, làm tăng khả năng lựa chọn của khách ra những sản phẩm mới hàng qua đó ngân hàng có thể tăng nguồn vốn huy động. Để có thể huy động được nguồn vốn có chất lượng cao và có thể đạt được tốc độ tăng trưởng cao ngân hàng nên xem xét đưa ra những sản phẩm mới phù hợp hơn với khách hàng trên địa bàn. a) Đa dạng hoá hình thức huy động vốn - Ngân hàng có thể xem xét đưa ra hình thức nhận tiền gửi bằng vàng để huy động vốn. Biện pháp này có thể sẽ rất hiệu quả vì thói quen của người dân Việt Nam là thường giữ thu nhập dư thừa bằng vàng vì họ cho rằng vàng không bị mất giá và đây là hình thức tiết kiệm an toàn nhất. Hiện nay lượng vàng do dân chúng nắm giữ rất lớn . Đây là nguồn vốn lớn nhưng chưa được các ngân hàng khai thác. Ngân hàng có thể nhận tiền gửi bằng vàng và trả gốc bằng vàng khi hết hạn. Hình thức tiết kiệm này giúp nhân dân an tâm hơn, không sợ tiền bị mất giá. - Chứng khóan hoặc các khoản tiền gửi cho phép khách hàng có thể chuyển nhượng chúng. Đây là một biện pháp hữu hiệu giúp ngân hàng có thể nâng cao tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn. Với hình thức này ngân hàng có thể phát hành các thẻ tiết kiệm vô danh có thời hạn từ 1 - 5 năm với lãi suất luỹ tiến theo thời hạn gửi tiền. Ngân hàng không phát hành đồng loạt như phát hành giấy tờ có giá mà sẽ phát hành thể khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền vào ngân hàng. Công cụ này sẽ đem lại thuận lợi cho cả khách hàng và ngân hàng: - Ngân hàng có thể áp dụmg hình thức tiết kiệm bằng tài khoản mà khách hàng có thể gửi đều đặn đến khi rút. Lãi suất của hình thức này được tính theo lãi suất kép, mức lãi suất hợp lý sẽ kích thích người dân gửi tiền. Hình thức này phù hợp với công nhân viên, người có thu nhập đều đặn... - Ngân hàng có thể sử dụng mức lãi suất luỹ tiến theo số lượng tiền gửi. Cùng một kỳ hạn nhưng nếu khách hàng nào gửi tiền với số lượng lớn hơn sẽ được hưởng mức lãi suất cao hơn. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay ngân hàng chỉ áp dụng lãi suất luỹ tiến cho khách hàng gửi tiền cío kỳ hạn dài. Điều này sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với số lượng lớn hơn. - Ngân hàng cũng có thể xem xét đưa ra hình thức gửi tiền một lần và được rút một phần trước hạn mà không phải rút toàn bộ số tiền đã gửi. Phần rút trước hạn sẽ được tính theo lãi suất không kỳ hạn, phần còn lại vẫn được tính theo lãi suất bình thường. Hình thức này rất có lợi thế vì hiện nay nếu muốn rút trước hạn khách hàng phải rút toàn bộ số tiền đã gửi và tính lãi không kỳ hạn khiến người gửi tiền chia nhỏ số tiền muốn gửi ra làm nhiều kỳ hạn để đề phòng phải rút trước hạn một phần, điều này gây khó khăn cho cả khách hàng và ngân hàng: tốn kém thủ tục, giấy tờ, lãi suất không cao, ngân hàng không huy động được khối lượng vốn lớn nhất... Vì thế hình thức này sẽ giúp ngân hàng tăng được lượng tiền gửi có kỳ hạn dài hơn. b) Đa dạng hoá khách hàng Bên cạnh việc đa dạng hoá hình thức huy động vốn ngân hàng cần mở rộng và đa dạng hoá khách hàng. Đa dạng hoá khách hàng có tác dụng: - Giúp ngân hàng có thể giảm rủi ro vỡ mỗi một nhóm khách hàng có một số đặc điểm chung về nguồn vốn do đó khi có những biến động nhóm khỏch hàng này có phản ứng như nhau do đó nếu duy trì một tỷ trọng quá cao nguồn vốn của một nhóm khách hàng sẽ dẫn đến rủi ro. - Giúp ngân hàng có cơ cấu vốn hợp lý hơn vì mỗi nhóm khách hàng có những đặc điểm riêng về vốn. Nếu ngân hàng chỉ tập trung vào một loại khách hàng thì cơ cấu nguồn vốn sẽ kém linh hoạt và bất hợp lý. 2.1.2 Áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt Mỗi ngân hàng có một chiến lược kinh doanh riêng, trong đó chính sách lãi suất là một bộ phận quan trọng. Lãi suất là một bộ phận cấu thành trong phần lớn thu nhập và chi phí. Vì vậy mọi biến động về lãi suất có ảnh hưởng lớn đến kết q

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26933.doc
Tài liệu liên quan