MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I : VỐN KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI. 2
I. Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh thương mại. 2
1. Khái niệm. 2
2. Vai trò của vốn kinh doanh. 2
II. Phân loại và đặc điểm của vốn kinh doanh trong thương mại. 3
1. Phân loại. 3
2. Vốn kinh doanh của DNTM. 4
3. Đặc điểm vốn kinh doanh của DNTM. 9
III. Nguồn gốc hình thành vốn kinh doanh. 10
1. Nguồn vốn chủ sở hữu. 10
2. Nguồn vốn vay. 11
IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. 13
1. Các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung. 13
2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định. 14
3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động. 14
PHẦN II : THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY. 17
I. Thực trạng huy động vốn: 17
II. Thực trạng sử dụng vốn của các DNTM ở nước ta. 19
PHẦN III : CÁC BIỆN PHÁP HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN 23
KINH DOANH CỦA CÁC DNTM. 23
I. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh. 23
1. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước. 23
2. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân hàng. 24
3. Phát triển công ty cổ phần. 26
4. Phát triển những định chế tài chính trung gian. 26
5. Xây dựng và phát triển thị trường thuê mua. 26
II. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh ở các DNTM. 27
1. Các biện pháp bảo toàn vốn cố định. 28
2. Bảo toàn vốn lưu động. 29
3. Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các DNTM. 30
3.1. Tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động .30
3.2 Tiết kiệm chi phí sử dụng hợp lý, giảm chi phí kinh doanh để tăng tích luỹ vốn. 30
3.3. Tăng cường công tác quản lý tài chính 31
3.4. Nâng cao sự quản lý của nhà nước 32
KẾT LUẬN 34
TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Vốn kinh doanh và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nhà nước. Đối với xí nghiệp liên doanh hay công ty liên doanh thì chủ sở hữu là các nthành viên tham gia góp vốn. Đối với công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn thì chủ sở hữu là các cổ đông. Đối với doanh nghiệp tư nhân cá thể thì chủ sỡ hữu là một cá nhân, đó là ông chủ.
Vốn chủ sỡ hữu được tạo từ các nguồn:
Số tiền đống góp của các nhà đầu tư- người chủ sỡ hữu doanh nghiệp, cụ thể:
+ Đối với doanh nghiệp nhà nước: do nhà nước ( hay ngân sách nhà nước) cấp phát nên được gọi là vốn ngân sách nhà nước.
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân: nguồn vốn này do chủ đầu tư hay các hội viên liên kết cùng nhau bỏ ra để đầu tư hình thành doanh nghiệp kinh doanh nên được gọi là vốn tự do.
+ Đối với doanh nghiệp liên doanh: nguồn này được biểu hiện dưới hình thức vốn liên doanh, vốn này được hình thành do sự đóng góp giữa các chủ đầu tư hoặc các doanh nghiệp để hình thành một doanh nghiệp mới.
+ Đối với công ty cổ phần: được biểu hiện dưới hình thứcvốn cổ phần, vốn này do những người sánh lập công ty cổ phần phát hành cổ phiếu để huy động thông qua việc bán những cổ phiếu đó.
Nguồn vốn chủ sỡ hữu còn do tổng số tiền được tạo ra từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, số này gọi là lãi lưu giữ hoặc lãi chưa phân phối.
Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn bao gồm chênh lệch đánh giá lại tài sản, quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự trữ, chênh lệch tỷ giá, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản, kinh phí sự nghiệp.
2. Nguồn vốn vay.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hầu như không một doanh nghiệp nào chỉ hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn tự có mà phải hoạt động bằng nhiều nghuồn vốn, trong đó nguồn vốn vay chiếm tỷ lệ đáng kể.
Vốn vay có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở khả năng tài trợ các nhu cầu bổ sung cho việc mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh của công ty mà còn tạo điều kiện linh hoạt trong việc thu hẹp quy mô kinh doanh bằng việc hoàn trả các khoản nợ đến hạn và giảm số lượng vốn vay.
Nguồn vốn vay được thực hiện dưới các phương thức chủ yếu sau:
Tín dụng ngân hàng: là các khoản mà doanh nghiệp vay của các ngân hàng thương mại hoặc của các tổ chức tín dụng khác. Tín dụng ngân hàng có nhiều dạng, song có các dạng quan trọng nhất là:
+ Tín dụng ứng trước: là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp (khách hàng) được sử dụng một mức cho vay trong một thời hạn nhất định.
+ Thấu chi (tín dụng hạn mức) là hình thức cấp tín dụng ứng trước đặc biệt được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó doanh nghiệp được phép sử dụng dư nợ trong một giới hạn và thời hạn nhất định trên tài khoản vãng lai.
Thấu chi chỉ được áp dụng đối với doanh nghiệp (khách hàng) có uy tín và có khả năng tài chính lành mạnh.
+ Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, trong đó doanh nghiệp chuyển nhượng quyền sở hữu thương phiếu chưa đáo hạn cho ngân hàng để nhận một số tiền bằng mệnh giá của thương phiếu trừ đi lãi chiết khấu và hoa hồng phí.
+ Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung, dài hạn được thực hiện thông qua việc cho thuê máy móc- thiết bị, các động sản và bất động sản khác.
Phát hành trái phiếu công ty: Chỉ có các doanh nghiệp thương mại nhà nước, các công ty cổ phần có phát hành cổ phiếu mới có quyền vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu. Trái phiếu thực chất là một tờ phiếu mà công ty phát hành phát hành để vay vốn và là vốn dài hạn.
Tín dụng thương mại: Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp đựoc thể hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa. Tín dụng thương mại xuất hiện trên cơ sở sự cách biệt giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm do đặc điểm thời vụ trong sản xuất và mua bán sản phẩm, do vậy xảy ra hiện tượng một số doanh nghiệp có hàng hóa muốn bán trong lúa có một số doanh nghiệp khác muốn mua nhưng không có tiền. Trong điều kiện này, doanh nghiệp với tư cách là người bán muốn thực hịên được sản phẩm của mình, họ có thể bán chịu hàng hóa cho người mua.
Vốn đầu tư nước ngoài: Bao gồm vốn đầu tư gián tiếp và vốn đầu tư trực tiếp
Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các chính phủ, tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ thực hiện dưói dạng viện trợ, vốn cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp của các tổ chức tài chính quốc tế, vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại nước ngoài, vốn do phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài. Vốn này thường có quy mô lớn nên có tác động nhanh và mạnh đối với việc giải quyết các nhu cầu phát triển của nước nhà nhưng cũng gắn với các điều kiện chính trị và tình trạng vay nợ chồng chất nếu chúng ta không biết sử dụng chúng có hiệu quả.
Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp hoặc các cá nhân người nước ngoài đầu tư vào nước ta. Những doanh nghiệp và cá nhân này trực tiếp tham gia quản lý và thu hồi vốn đó. Vốn đầu tư trực tiếp thường có quy mô nhỏ hơn nhưng nó mang theo toàn bộ “năng lực kinh doanh” nên có thể thúc đẩy các ngành nghề mới phát triển, đưa công nghệ mới và kinh nghiệm quản lý doanh nghiệp hiện đại vào nước ta góp phần đào tạo các nhà quản lý và kinh doanh phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường.
IV. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.
Một doanh nghiệp được xem là có hiệu quả khi sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả, đặc biệt là sử dụng vốn kinh doanh. Để đánh giá có khoa học hiệu quả kinh doanh của DNTM, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm có chi tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết cụ thể để tính toán. Các chỉ tiêu này phải phù hợp, phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung:
Kết quả thu được
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí bỏ ra.
Kết quả thu dược trong kinh doanh thương mại đo bằng các chỉ tiêu như doanh thu và lợi nhuận thức hiện, còn chi phí bỏ ra như lao động, vốn lưu động, vốn cố định…
1. Các chỉ tiêu phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh chung.
Hiệu suất vốn kinh doanh (VKD).
Doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu suất VKD =
VKD
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng vốn đem lại bao nhiêu đồng doanh thu.
Hàm lượng VKD.
VKD
Hàm lượng VKD =
Doanh thu thuần trong kỳ
Để có một đồng doanh thu phải bỏ ra bao nhiêu đồng vốn. Muốn biết tình hình sử dụng vốn kinh doanh thế nào cần phân tích cụ thể đối với từng loại vốn: Vốn cố định và vốn lưu động.
2. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn cố định.
a. Hiệu quả sử dụng TSCĐ.
Tổng doanh thu thuần
Hiệu quả sử dụng TSCĐ =
Nguyên giá bình quân của TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết 1 đồng nguyên giá bình quân TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này biểu hiện mức tăng kết quả kinh doanh của mỗi đơn vị giá trị TSCĐ nhưng chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế tổng hợp nhất của vốn cố định thường được sử dụng là mức doanh lợi.
b. Mức doanh lợi của vốn cố định.
Lợi nhuận hoặc lãi thực hiện
Mức doanh lợi của VCĐ =
VCĐ bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh số tièn lãi hoặc số thu nhập thuần tuý trên một đồng tiền vốn cố định hoặc số vốn cố định cần thiét để tạo ra 1 đồng lợi nhuận hoặc lãi thực hiện. Chỉ tiêu này có thể so sánh với kỳ trước hoặc kế hoạch để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
c. Sức hao phí TSCĐ.
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Sức hao phí TSCĐ =
Doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần
Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đồng doanh thu thuần hay lợi nhuận thuần có bao nhiêu đồng nguyên giá TSCĐ.
3. Phân tích hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
Mức doanh lợi của vốn lưu động.
Lợi nhuận thuần hay lãi gộp
Mức doanh lợi của VLĐ =
VLĐ bình quân
Mức doanh lợi của vốn lưu động biểu thị mỗi đơn vị vốn lưu động bỏ vào kinh doanh mang lại bao nhiêu lợi nhuận.
Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động.
VLĐ bình quân
Hệ số đảm nhiệm VLĐ =
Tổng doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết để có một đồng luân chuyển cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng chứng tỏ trình độ sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp cao.
Số vòng quay của vốn lưu động.
Tổng doanh thu thuần
Số vòng quay của VLĐ =
VLĐ bình quân
Số vòng quay của vốn lưu động cho biết vốn lưu động quay được bao nhiêu vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay càng nhiều càng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn cao và ngược lại.
d. Thời gian của một vòng luân chuyển (T).
Thời gian theo lịch trong kỳ
T =
Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
Thời gian của một vòng luân chuyển thể hiện số ngày cần thiết để cho vốn lưu động quay được một vòng. Thời gian một vòng quay càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển vốn lưu động càng lớn.
e. Số lần chu chuyển vốn lưu động trong một thời kỳ (gọi là vòng quay vốn). Công thức được tính:
M
K=
Obq
Trong đó: K- Vòng quay vốn
M – Tổng mức luân chuyển vốn lưu động trong thời kỳ
(doanh số bán)
Obq- Số dư bình quân vốn lưu động.
g. Số vốn tiết kiệm được.
Kkh - Kbc
B = * Obqkh
Kbc
Trong đó: B: số vốn lưu động tiết kiệm được.
Kkh: số vòng quay kỳ kế hoạch.
Kbc: số vòng quay kỳ báo cáo.
Obqkh: số dư bình quân số vốn lưu động kỳ kế hoạch.
Hoặc:
( Vbc - Vkh)
B = *Mkh
T
Trong đó: Vbc: Số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ báo cáo.
Vkh: số vòng quay tính bằng ngày trong kỳ kế hoạch.
Mkh: tổng mức lưu chuyển vốn lưu động kỳ kế hoạch.
T: số ngày trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết số vốn lưu động tiết kiệm được trong kỳ, nếu càng cao thì số vốn tiết kiệm được càng nhiều, kinh doanh càng có hiệu quả và ngược lại.
Phần II
Thực trạng huy động và sử dụng vốn kinh doanh của DOANH NGHIệP Thương mại ở nước ta hiện nay.
I. Thực trạng huy động vốn:
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: “ Cần huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư phát triển, trong đó vốn trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng …”
Trong những năm tới, chính sách huy động vốn phải nhằm vào việc khai thác tối đa nguồn vốn trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của ngân sách nhà nước và các thành phần kinh tế, để đảm bảo yêu cầu về vốn cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trước thời kỳ đổi mới, thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, DNTM chủ yếu là các DNTMNN đã hình thành một mạng lưới thương mại thống nhất trên khắp các địa bàn của cả nước, từ trung ương đến cơ sở. DNTMNN thâm nhập vào mọi lĩnh vực, nắm toàn bộ nguồn hàng độc quyền trong bán buôn và chi phối bán lẻ dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ này vốn của các DNTM chủ yếu là do nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát-giao nộp ngân sách, các doanh nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh. đánh giá một cách khách quan phải thấy rằng, tính chất tập trung bao cấp và độc quyền của thương mại quốc doanh rất phù hợp với nền kinh tế thời chiến. Nó đảm bảo tập trung và thống nhất nguồn hàng cho tiền tuyến, góp phần to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Tuy nhiên cơ chế này tỏ ra lỗi thời và không còn phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Do thực hiện quá lâu nền kinh tế khép kín, không tuân theo quy luật cung- cầu, mua bán không đúng giá trị, trong hạch toán kinh doanh không tính đúng, tính đủ chi phí đầu vào ra, thực hiện cơ chế mua theo lệnh, bán theo chỉ tiêu nên các DNTM không cần quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của các doanh nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều doanh nghiệp lãi giả lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu bước ngoặt đổi mới chính sách và cơ chế quản lý kinh tế chung, thị trường và thương mại dịch vụ nói riêng. DNTM được quyền tự do kinh doanh theo những ngành hàng đươc phân công, hoặc tự chọn trong thị trường. Từ đấy, vấn đề vốn trở thành vấn đề sống còn của từng doanh nghiệp. Các nguồn vốn có thể
huy động của các DNTM bao gồm vốn do ngân sách nhà nước cấp, vốn tự có, vốn bổ sung và các khoản vốn đi vay của các ngân hàng, vay trái phiếu, vay các hợp đồng tín dụng. Ngoài ra có thể huy động vốn ngoài nước bao gồm vốn vay của các tổ chức kinh tế và tư nhân nước ngoài, vốn thu hút được của nước ngoài dưới các hình thức liên doanh liên kết hoặc nước ngoài đầu tư vốn 100%.
Về vốn ngân sách chỉ đạt 25%, vốn tự có cũng không đánh kể, mặt khác do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các DNTM chiếm 80% là vốn lưu động nên vốn của các doanh nghiệp này chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, vốn vay ngân hàng không thuận lợi vì lãi suất quá cao (1.75%/tháng), thời hạn ngắn và khoản vay nhỏ lẻ, manh mún. Nếu doanh nghiệp có vay được vốn ngân hàng cũng vẫn khó khăn trong các phương án kinh doanh vì không phù hợp với đặc thù kinh doanh của loại hình DNTM cũng như đặc điểm chu chuyển thực tế của từng mặt hàng và ngành hàng.
Nguồn tín dụng của ngân hàng được huy động từ nhiều nguồn nhưng nhiều nhất vẫn là huy động nguồn tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn của nhân dân. Tỷ lệ tiết kiệm bình quân của dân cư bình quân hiện nay hằng năm chiếm khoảng 15% GDP. Nếu dòng chảy được thông thoáng thì nguồn tièn gửi vào ngân hàng thường xuyên, liên tiếp gối đầu tạo nên nguồn vốn rất lớn. Chính nhờ ưu thế nguồn vốn này trong thập niên qua, ngành ngân hàng có đủ vốn để đầu tư tín dụng góp phần phát triển kinh tế. Thế nhưng tiền gửi tiết kiệm, nguồn vốn chủ lực của ngân hàng đã huy động được so với sự phát triển kinh tế và sự tăng trưởng thu nhập quốc dân còn rất hạn chế. Thời gian qua lại bị ảnh hưởng bởi biến động tín dụng không thuận lợi, nên nguồn vốn tiết kiệm bị giảm sút đáng kể. Tuy rằng nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân còn nhiều và tăng trưởng nhanh, nhưng huy động được là một bài toán khó đối với ngành ngân hàng vì phương thức huy động vốn hiện nay ở nước ta có nhược điểm là các ngân hàng luôn nhận được tiền gửi định kỳ, có lãi suất cao và thời hạn gửi ngắn (thường là dưới một năm). Do vậy, đang có tình trạng “thừa” vốn ngắn hạn, “thiếu” vốn trung và dài hạn; Thứ hai là chi phí đầu vào của các doanh nghiệp ngân hàng rất cao làm cho giá đầu ra của tín dụng cũng rất cao và như vậy nó thường làm nản lòng người đi vay. Nhược điểm thứ ba lãi suất cao dẫn đến thu nhập của người gửi tiền và của các ngân hàng cho vay tăng lên, sẽ làm cho chi phí sản xuất của người đi vay tăng lên và tất yếu sẽ làm cho giá cả hàng hóa tăng lên.
Do thị trường vốn của Việt Nam chưa phát triển do vậy việc thành lập các doanh
nghiệp là do nhà nước và những cá nhân có tà sản lớn góp vốn. Các khoản tiết kiệm của dân cư không huy động trực tiếp vào cá doanh nghệp được. Lý do là tiền tiết kiệm này phân tán theo thời gian và nhỏ. Hơn nữa dân chúng sống rải rác xa các doanh nghiệp thường tập trung ở các đô thị. Một nhuyên nhân khác dẫn đến việc ngân hàng chưa huy động được nguồn vốn tiền gửi đó là trong thời kỳ lạm phát cao, đồng Việt Nam lại mất giá nghiêm trọng, ngân hàng chưa có biện pháp bảo toàn đồng vốn cho người gửi tiền, nên từ đó không có ít người có nguồn tiền nhàn rỗi không gửi ngân hàng mà đem mua vàng và mua ngoại tệ mạnh để dành, dùng vàng và đô la để mua bán và trao đổi trên thị trường ngân hàng không kiẻm soát được. Tiếp theo đó là sự đổ vỡ tín dụng ngoài quốc doanh từ năm 1991-1992 đến cuối thập niên 90 và thời gian gần đây lịa liên tục xảy ra các sự cố kinh tế nổi cộm trong đó nhiều vụ việc liên quan đến tín dụng làm cho sự hoạt động của ngành ngân hàng không bình ổn, nhân dân thiếu tin tưởng. Sự khó khăn trong việc huy động vốn của ngân hàng đã ảnh hưởng rất lớn đến các DNTM và vốn kinh doanh của các DNTM chủ yếu là đi vay do đặc thù của loại hình doanh nghiập này, số vốn lưu động chiếm 70 –80%.
Ngoài việc huy động các nguồn vốn trên, DNTM còn huy động vốn từ nước ngoà thông qua sự liên doanh liên kết hoặc đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam.
II. Thực trạng sử dụng vốn của các DNTM ở nước ta.
Hiện nay, hầu hết các DNTM Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh, vì vậy ngoài việc huy động tối đa các nguồn vốn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, thì việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh được xem là một vấn đề quan trọng, quyết định sự sống còn của doanh nghiệp.
Vốn chủ yếu của các DNTM được huy động từ nguồn vốn vay của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng. Trong khi lượng vốn vay còn eo hẹp, nhiều DNTM quản lý vốn rất kém và sử dụng vốn rất tuỳ tiện, đặc biệt là sự phân bố vốn chưa hợp lý. Nhiều khoản vốn lưu động doanh nghiệp không dưa vào lưu thông mà dồn vào xây dựng cơ bản, mua sắm trang thiết bị quá lớn dẫn đến kinh doanh thua lỗ nợ nần chồng chất. Chỉ tính đến 1.1.1992 Tổng số nợ phải đòi của các tổng công ty là 5347 tỷ đồng, trong đó 576 tỷ đồng là nợ khó đòi chiếm 10.8% tổng số nợ. Các doanh nghiệp thường xuyên chiếm dụng vốn lẫn nhau gây bế tắc trong quá trình thanh toán, tổng kết hiệu suất kinh doanh của đồng vốn. Một số doanh nghiệp lại mạo hiểm đưa vốn lưu động vào liên doanh liên kết nhưng chưa phát huy hiệu quả, thậm chí còn làm thất thoát vốn, gây thua lỗ lớn.
Kết qủa hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp do Bộ thương mại quản lý qua một số năm như sau:
Năm
Doanh thu
Lợi nhuận thực hiện
1991
13452 tỷ đồng
433 tỷ đồng
1992
13044 tỷ đồng
328 tỷ đồng
1993
17360 tỷ đồng
634 tỷ đồng
1995
22500 tỷ đồng
682 tỷ đồng
(Nguồn: Về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc Bộ thương mại tháng 6.1996)
Nhìn tổng thể, doanh thu và lợi nhuận thực hiện của các doanh nghiệp có tăng nhưng trong từng doanh nghiệp cụ thể lại rất đáng lo ngại. Chỉ tính riêng năm 1995, tổng doanh thu là 22500 tỷ đồng thì hai doanh nghiệp (tổng công ty xăng dầu Việt Nam và công ty thương mại đầu tư) đã đạt tới 11664 tỷ đồng, chiếm 51.8% và trong tổng số 682 tỷ đồng lợi nhuận được thực hiện, hai doanh nghiệp trên đã đạt tới 605 tỷ chiếm 88.75%. Như vậy, số lợi nhuận chủ yếu được thực hiện từ hai doanh nghiệp trụ cột trên do trường vốn, biết đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh. Số còn lại làm ăn rất kém hiệu quả, tua lỗ kéo dài, nhiều doanh nghiệp đứng trên bờ vực phá sản. Nguyên nhân tình trạng lỗ lớn của các DNTM không chỉ xuất phát từ việc chậm đổi mới tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, từ việc buông lỏng quản lý doanh nghiệp mà chủ yếu xuất phát từ tình trạng thiếu vốn, mỏng vốn và sử dụng vốn kém hiệu quả.
Thực hiện quá trình đổi mới với nền kinh tế mở, đã thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước ngoài đã giúp các doanh nghiệp có thêm vốn để kinh doanh, đã góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới, tạo công ăn việc làm, tăng kim ngạch xuất khẩu, kiềm chế lạm phát, thu hút nhiều máy móc thiết bị, công nghệ tiến tiến, kỹ năng quản lý phù hợp với cơ chế mới tạo ra nhiều ngành nghề sản phẩm mới.
Tháng 12 năm 1987 Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, và sửa đổi, bổ sung lần đầu vào tháng 6.1990, và lần thứ hai vào tháng 12.1992. Cùng với Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quốc hội và chính phủ đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh có liên quan khác đã tạo cơ sở pháp lý cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam.
Đến tháng 7.1995 đã có 1402 dự án đầu tư được cấp phép với tổng số vốn đầu tư là 16200 triệu USD, với nhịp độ thu hút vốn đầu tư tăng nhanh theo từng năm, bình quân hàng năm tăng 50%, cơ cấu đầu tư cũng dịch chuyển lớn. Đến cuối tháng 7.1995 vốn đầu tư đã thực hiện là 4950 triệu USD bằng 30.7% vốn đầu tư cần thực hiện, thu hút 22 vạn lao động và kích thích nâng cao chất lượng và cường độ lao động Việt Nam .Tiếp thu được nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo ra nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, thu hút nhiều vốn cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thương mại nói riêng. Cụ thể: đóng góp trong GDP năm 1994 là 7.5% năm, năm 1995 là 8.3% năm và năm 1996 là 10%.
Tuy nhiên, kết quả từ hoạt động đầu tư của nước ngoài vào nước ta cũng đặt ra nhiều vấn đề phải tiếp tục hoàn thiện đó là:
- Tốc độ thu hút đầu tư nhanh nhưng việc triển khai thực hiện dự án còn nhiều thiếu sót, làm thiệt hại cho các nhà đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước.
- Phân bổ đầu tư nước ngoài còn chưa cân đối, do chưa có biện pháp khuyến khích thích đáng. Nhiều vùng lãnh thổ cồn chưa có hoặc ít dự án đầu tư của nước ngoài (phía Bắc, Tây Nguyên, miền Trung).
- Tổ chức quản lý dự án đầu tư của nước ngoài còn nhiều khiếm khuyết từ khâu ký hợp đồng đến khi vận hành dự án.
- Tỷ lệ góp vốn của các bên Việt Nam trong các liên doanh nước ngoài còn thấp, chỉ ở mức 20 – 30%, khiến bên Việt Nam trong liên doanh nước ngoài trở nên yếu thế và thua thiệt khi chia lợi nhuận.
- Đội ngũ cán bộ làm việc trong lĩnh vực tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong các liên doanh còn yếu cả về nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm quản lý.
- Nhiều thủ tục hành chính còn rườm rà,các dịch vụ và cơ sở hạ tầng còn thiếu và kém nên hạn chế khả năng thu hút vốn.
Phần III
Các biện pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn
kinh doanh của các DNTM.
I. Các biện pháp huy động vốn kinh doanh.
Để tạo được lượng vốn cần thiết, đủ mạnh cho các DNTM phải tích cực huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau có thể là nguồn từ ngân sách, vốn tự có của các cổ đông góp vào. Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh có vai trò quan trọng đối với đổi mới thiết bị công nghệ, thay đổi phương thức kinh doanh, phương thức đáp ứng nhu cầu khách hàng trên thị trường. Bên cạnh các nguồn vốn có thể huy động trong nội bộ doanh nghiệp như phần vốn khấu hao cơ bản để lại doanh nghiệp, phần lợi nhuận không chia, tiền nhượng bán tài sản cố định… mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu vốn kinh doanh có thể dùng các hình thức huy động sau:
- Phát hành cổ phiếu.
- Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi.
- Phát hành trái phiếu công ty.
- Vay vốn dài hạn và trung hạn của ngân hàng.
- Sử dụng thiết bị máy móc hiện đại theo hình thức tín dụng thuê mua.
- Liên kết đầu tư với các doanh nghiệp trong ngoài nước để phát triển công ty.
Để thực hiện được việc huy động vốn qua các hình thức trên, cần chú ý đến các biện pháp sau:
1. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Đây là nguồn vốn không chiếm tỷ trọng cao trong tổng số vốn của doanh nghiệp nhưng chính nó lại đóng vai trò rất quan trọng, tạo ra cốt vật chất cần thiết cho doanh nghiệp có vốn đầu tư kinh doanh. Đề nghị nhà nước cấp bổ sung đủ 30% vốn lưu động định mức cho những doanh nghiệp có phương án và chiến lược kinh doanh rõ ràng ở cả tầm ngắn, trung và dài hạn (đối với DNTM nhà nước). Đặc biệt đối với những doanh nghiệp công ích, những doanh nghiệp kinh doanh ở ngành, hàng mũi nhọn, nhà nước cần nới lỏng cơ chế khi cấp phát vốn. Trong những trường hợp đặc biệt, nhà nước có thể vận
dụng cấp cho các doanh nghiệp này lượng vốn lớn hơn định mức. Đồng thời, có cơ chế quản lý tốt nguồn vốn tránh thất thoát, tạo điều kiện cho các DNTM phát triển tốt trong lĩnh vực thương mại – dịch vụ, góp phần vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân, vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Biện pháp huy động nguồn vốn từ ngân hàng.
Nguồn vốn này được các loại hình doanh nghiệp quan tâm nhất. Nhà nước phải tạo ra môi trường và hành lanh pháp lý thuận lợi để ngân hàng thực hiện đực nhiệm vụ là cầu nối cung tiền tệ cho các doanh nghiệp và ngược lại doanh nghiệp là lực lượng thực hiện cầu tiền tệ, tránh ứ đọng, ùn tắc vốn trong các DNTM khi doanh nghiệp đang đói vốn.
Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của ngân hàng, vừa hạn chế thủ tục phiền hà, chồng chéo tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay được vốn nhanh chóng, kịp thời kinh doanh, vừa phải đảm bảo an toàn đồng vốn khi cho các doanh nghiệp vay. Ngân hàng nên xem xét tính hợp lý về thời gian và mức lãi suất cho vay phù hợp với loại hình DNTM, phù hợp với từng mặt hàng, ngành hàng và vòng chu chuyển của từng loại hàng hóa, cần nâng cao tỷ lệ khoản vay vốn trung và dài hạn nhất là vốn dài hạn đối với một số mặt hàng xuất khẩu chiến lược, có thời gian chu chuyển dài. Bên cạnh đó phải có chính sách tài trợ đối với một số mặt hàng thiết yếu như: giấy vở học sinh, lương thực, một số mặt hàng thực hiện chính sách xã hội… thông qua hỗ trợ lãi suất vay trong một thời gian nhất định.
Để đảm bảo vai trò to lớn của mình, ngành ngân hàng phải tạo ra các biện pháp để huy động được vốn.
Muốn ngành ngân hàng được vững mạnh cần có các nghị định của chính phủ hướng dẫn triển khai luật ngân hàng nhà nước, luật tổ chức tín dụng và các luật khác có quan hệ hữu cơ, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, bảo toàn sự hoạt động của ngân hàng. Nếu thực hiện được tức là bảo đảm được vốn tiền gửi của dân vào ngân hàng.
Công tác huy động vốn tiền gửi của dân đối với ngân hàng phải đặt vào tầm quy mô chiến lược là nhiệm vụ chính trị quan trọng phải thực hiện thường xuyên, liên tục, không để xảy ra tình trạng có nơi, có lúc từ chối nhận tiền gửi của dân vì thừa vốn dù là tạm thời, đến khi cần vốn lại không huy động được vốn.
Lãi suất là biện pháp kinh tế thiết thực cho cả hai bên khách hàng và ngân hàng. Liên ngành tài chính – ngân hàng nhà nước cần phải thống nhất khung và trần lãi suất huy động vốn giữa tiền gửi ngân hàng – kỳ phiếu – tín phiếu và trái phiếu kho bạc, không để xảy ra cạnh tranh lãi suất, tuy là hợp lý nhưng lại có thể dẫn đến đổ vỡ các tổ chức tín dụng kém ưu thế về nguồn vốn.
Cơ chế vận hành nghiệp vụ tín dụng – ngân hàng cũng là biện pháp hữu hiệu để huy động nguồn vốn. Cần cải tiến mạnh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34637.doc