Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công băng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường là việc mở rộng giao lưu kinh tế với ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển tron gđiều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Có thể khái quát rằng, lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội đầu tiên của nhân loại. . Nó được bó hẹp trong quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên, mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp tự cung tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay. Kinh tế tự nhiên, hiện vật, sinh tồn, tự cung - tự cấp gắn liền với quan niệm truyền thống về kinh tế xã hội chủ nghĩa tuy đã có tác dụng trong điều kiện chiến tranh, góp phần mang lại chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, song khi chuyển sang xây dựng và phát triể kinh tế, chính mô hình đó đã tạo ra nhiều khuyết tật, nền kinh tế không có động lực, không có sức đua tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của người lao động, của các chủ thể sản xuất – kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu cầu, ý chí chủ quan đã làm lấn át khách quan và triệt tiêu mọi động lực- sức mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, đã làm cho nền kinh tế suy thoái thiếu hụt, hiệu quả thấp, nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không thực hiện được.
Kinh tế hàng hoá, bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ Cộng sản nguyên thuỷ tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Trong lịch sử của mình, vì thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay: từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế - xã hôi không phổ biến, không hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nhân dân tự do, đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến chủ nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơn không những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá, cũng đã trải qua ba giai đoạn phát triển.
Giai đoạn thứ nhất, là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường.
Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do. Đặc trưng quan trọng nhất của giai đoạn này là sự phát triển kinh tế diễn ra theo tinh thần tự do, Nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế.
Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của giai đoạn này là Nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài.
Kinh tế thị trường có những đặc điểm cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hoá, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hoá sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... Đó là cơ chế hỗn hợp “có sự điều tiết vĩ mô” của Nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó.
Mặc dù sự hình thành và phát triển của kinh tế hàng hóa tự phát sẽ “hàng ngày hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản” và sự phát triển của kinh tế thị trường trong lịch sử diễn ra đồng thời với sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhưng tuyệt nhiên, kinh tế thị trường không phải là chế độ kinh tế - xã hội. Kinh tế thị trường là hình thức và phương pháp vận hành kinh tế. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế hình thành và phát triển do những đòi hỏi khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nó là phương thức sinh hoạt kinh tế của sự phát triển. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế thị trường là quá trình mở rộng phân công lao động xã hội, phát triển khoa học – công nghệ mới và ứng dụng chúng vào thực tiễn sản xuất kinh doanh. Sự phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với quá trình phát triển của nền văn minh nhân loại, của khoa học - kỹ thuật, của lực lượng sản xuất.
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta,sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung- tự cấp còn chiêm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Sự phát triển kinh tế xã hội nào rút cuộc cũng nhằm mục tiêu xã hội, nhân văn nhất định, cả sự thay đổi về chất (những biến đổi về mặt xã hội). Học thuyết về hình thái kinh tế xã hội của C.Mác là một thành tựu khoa học của loài người. Nó phác họa quy luật vận động tổng quát của nhân loại, và sự phát triển của xã hội loài người sẽ tiến tới Chủ nghĩa Cộng sản mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội không đối lập với phát triển, với kinh tế thị trường, mà là một nấc thang phát triển của cả loài người được đánh dấu bằng tiến bộ xã hội của sự phát triển. Nó là thách thức giải quyết các quan hệ xã hội, là một sự thiết lập một trật tự xã hội với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ gian khổ và quyết liệt của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm giải phóng nhân dân lao động đem lại cuộc sống hạnh phúc và giàu sang cho nhân dân lao động. Vì vậy, sự phát triển của Việt Nam trong hiện tại và tương lai phải là sự phát triển vì sự giàu có, phồn vinh, của toàn dân tộc, là sự phát triển mang tính xã hội chủ nghĩa, là sự phát triển hiện đại. Nghĩa là, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
b. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Chuyển nền kinh tế từ họat động theo cơ chế kế hoạch tập trung hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triên nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991 đã nêu lên những đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh té nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hoàng hóa, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại . Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ tự chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triên rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “Bàn tay hữu hình” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc xây dựng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở tương ứng với nó. Kinh tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta.
Thứ tư, cơ chế vân hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vận động theo những quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò khắc phục những “thất bại của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.
Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công băng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước lại có thể giảm bớt sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước ta. Quá trình phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường là việc mở rộng giao lưu kinh tế với ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển tron gđiều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung tự cấp mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Thứ năm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc đảm bảo công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải đảm bảo sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chệnh lệch giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư giữa cac vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trương bảo đảm công băng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc vào sự phát triển, khả năng và sức manh kinh tế của quốc gia.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước phải là “Quá trình thực hiện dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỉ cương, xóa bỏ áp bức bất công tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc”.
II/THỰC TRẠNG
1.thành tựu
Từ những đặc trưng và sự phát triển đúng hướng của nền kinh tế thị trường ở nước ta chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn:
* Nền kinh tế Việt Nam chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa toàn diện, khép kín sang một nền kinh tế thị trường mới.
- Năm 1991 Đại hội VII của Đảng nhận định “Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng nhưng nưốc ta vẫn chưa thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội”.
- Năm 1996 Đại hội đảng VIII nhận định “Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc”. Nền kinh tế Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng với nhịp độ tăng trưởng kinh tế ngày càng cao tốc độ tăng GDP bình quân thời kỳ 1986-1990 là 3.6%; 1991-1995 là 8.2%; 1996-2000 là 7%.
* Lạm phát được đẩy lùi từ 67.4% năm 1990 xuống 12.7% năm 1995, 0.1% năm 1999 và 0% năm 2000. Phá được thế bao vây cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cung nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
* Điều kiện vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa không ngừng tiến bộ. Việt Nam tự một nước thiếu lương thực đã trở thành một nước đã có những biến đổi to lớn trên mọi lĩnh vực.
Đại hội IX khẳng định: “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ củ lực lượng sản xuất. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội IX đảng ta một lần nữa khẳng định “Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của cương lĩnh được thông qua tại đại hội VII của Đảng đồng thời giúp đảng ta nhận thức ngày càng rõ hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng ta một lần nữa khẳng định: Cương lĩnh là ngọn cờ chiến đấu vì thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội định hướng cho mọi hoạt động của Đảng ta hiện nay và trong những thập kỉ tới. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
2. Thực trạng
* Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai do cơ sở vật chất kĩ thuật còn ở trình độ thấp. Theo UNDP Việt Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ); năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới đứng thứ 77/125
Kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, nền kinh tế chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ:xếp 83/125về kết cấu hạ tầng(2006). Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường thị trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu.
* Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Thị trường hàng hóa ,tiêu dùng và dịch vụ cạnh tranh thấp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực :hàng giả,hàng lậu,hàng nhái tràn lan
Thị trường sức lao động hoạt động còn mang tính tự phát ,sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn rất nhiều,trong khi cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu.
Thị trường tài chính, tiền tệ bước đầu hình thành ,giao dịch tiền mặt chiếm phần lớn .Còn rất nhiều trắc trở như nhiều doanh nghiệp rất thiếu vốn nhưng không vay dược vì vướng mắc thủ tục trong khi nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két dư nợ quá hạn đến mức báo động .
Thị trường bất động sản mới hình thành nhạy cảm cao ,giao dịch ngầm chiếm 70% và giá cả còn mang tính đầu cơ.
* Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.
* Sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế, kỹ thuật của nước ta thấp xã so với hầu hết các nước khác.
* Quản lý nhà nước về kinh tế xã hội còn yếu, một số cơ chế,chính sách còn thiếu chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
* Lao động và việc làm đang là vấn đề gay gắt nổi cộm nhất hiện nay với tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị là 74% và tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn là 30%, tỉ lệ lao động được đào tạo về chuyên môn kĩ thuật còn thấp trong tổng số lao động: theo kết quả điều tra dân số và nhà ở ngày 1/4/1999 công nhân kĩ thuật và nghiệp vụ chiếm 30%; lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp 1.3% [ kinh tế và phát triển số 42, tháng 12/2000, trang 19]. Từ năm 2001, khi Việt Nam áp dụng chuẩn hóa đói nghèo mới thì tỉ lệ đói nghèo sẽ còn khá hơn khoản 17% so với 11% chuẩn cũ. Hiện tại, mức tiêu dùng của dân cư thấp, tích lũy nội bộ của nên kinh tế mới đạt 25-27% GDP, còn tích lũy ròng chỉ đạt dưới 20% GDP. Trong khi đó kết cấu hạ tầng còn yếu kém, sản lượng điện bình quân đầu người mới chỉ đạt trên 340 Kwh, mật độ đường giao thông tính trên 1000 dân còn thấp xa so với các nước xung quanh [Thời báo Kinh tế Việt Nam, số 151, 18/12/2000]
III/GIẢI PHÁP
1.Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu lấy việc phát triển sức sản xuất ,nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội ,cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh .Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật ,đều được khuyến khích phát triển .
Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước ,thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn .Xây dựng củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty Nhà nước ,có sự tham gia của các thành phần kinh tế .đẩy mạnh đổi mới kĩ thuật ,công nghệ trong các doanh nghiệp Nhà nước .Thực hiện tốt chế độ quản lý công đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước ,doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường ,tự chịu trách nhiệm trong sản xuất ,kinh doanh .
Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng ,trong đó hợp tác xã là nòng cốt .Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã đào tạo cán bộ,xây dựng phương án sản xuất kinh doanh ,mở rộng thị trường ,thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo luậ hợp tác xã .bên cạnh dó cần khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở cả thành thị ,nông thôn.
Trong những năm vừa qua chúng ta chưa chú ý đúng mức đến kinh tế ngoài quốc doanh nên khu vực kinh tế này phát triển chậm .Tỷ trọng của kinh tế ngoài quốc doanh trong GDP có xu hướng giảm là vấn đề không phù hợp với đường lối kinh tế đã đề ra .Giải pháp khắc phục tình trạng này không chỉ là đề ra chủ trương đường lối mà còn phải tổ chức ,hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế ngoài quốc doanh phát huy tiềm năng to lớn của mình .Phải kiên quyết chống những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động kinh tế ngoài quốc doanh như:buôn lậu,trốn thuế ,lừa đảo ,làm hàng giả…nhưng đồng thời cũng phải khuyến khích những người ,những doanh nghiệp làm giàu chính đáng và hợp pháp .Trong những lĩnh vực chỉ có kinh tế quốc doanh ,cần phải thành lập một số cơ sở để tạo ra sự cạnh tranh ,thúc đẩy phát triển ,khắc phục tình trạng độc quyền vì độc quyền sẽ dẫn đến cửa quyền và trì trệ.Cần phải mở rộng hình thức hỗn hợp sở hữu giữa các thành phần kinh tế trong nước với nhau cũng như trong nước với nước ngoài nhằm tạo ra ngày càng nhiều doanh nghiệp kiểu “Tư bản Nhà nước”
2 .Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ; trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội.
Con đường công nghiệp hóa ,hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian với các nước đi trước ,vừa có những bước tuần tự ,vừa có bước nhảy vọt ,gắn công nghiệp hóa với hiện đại hóa ,tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến ,hiện đại về khoa học và công nghệ,ứng dụng nhanh và phổ biến hơn ở mức độ cao hơn những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới ,từng bước phát triển kinh tế tri thức
Cùng với việc trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đạicho các ngành ,các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa ,hiện đại hóa ,tiến hành phân công lại lao động và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước ,cũng như ở từng vùng ,từng địa phương,hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước ,tạo nên sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế.
3. Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Trong nền kinh tế thị trường hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bố vào các ngành ,các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu .Vì vậy để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ,chúng ta cũng phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường.
a.thị trường hàng hóa ,dịch vụ
Xóa bổ hiện tượng “ngăn sông ,cấm chợ”cục bộ ở các địa phương.
Thu hẹp lĩnh vực Nhà nước độc quyền kinh doanh .
Thực thi tốt luật cạnh tranh ,khuyến khích cạnh tranh lành mạnh ,nghiêm trị cạnh tranh không lành mạnh .
Đổi mới quản lý Nhà nước về giá cả.
Tiếp tục thực hiện tự do hóa thương mại trên cơ sở thực hiện cam kết song phương ,đa phương và theo thông lệ quốc tế.
b.thị trường sức lao động.
Ban hành các văn bản quản lý tạo điều kiện tự do trao đổi sức lao động trên thị trường ,bảo vệ quyền lợi người lao động và người sử dụng sức lao động .
Hình thành quỹ bảo hiểm thất nghiệp .
Nâng cao vai trò của các tổ chức công đoàn trong việc thực hiện khung chính sách về lao động .
Đa dạng hóa loại hình dịch vụ việc làm :hội trợ ,triển lãm việc làm ,sàn giao dịch việc làm .
c.thị trường tài chính ,tiền tệ.
Xây dựng ,triển khai chiến lược tổng thể về phát triẻn thị trường tài chính
Đẩy mạnh quá trình hoàn thiện môi trường quản lý cho thị trường chứng khoán theo hướng đồng bộ ,hoàn thiện ,phù hợp thông lệ quốc tế .
Nâng cao năng lực của các trung gian tài chính.
Hoàn thiện các côn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xy d7921ng n7873n kinh t7871 th7883 tr4327901ng 2737883nh h432amp.doc