Đề án Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN ở nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta

Mục lục:

-Lời mở đầu trang 1

-Chương 1: NHỮNG LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA trang 2

1. Nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trang 2

2. Tính tất yếu tồn tại và phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong kinh tế nông thôn ở nước ta trang 3

3. Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN trang 4

-Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA trang 8

1. Tình hình phát triển và thành tựu của các thành phần kinh tế trang 8

2. Những khó khăn và thách thức trang 13

- Chương 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA: trang 16

1. Định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước trang 16

2. Những giải pháp, ý kiến cá nhân trang 18

- Kết luận trang 24

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1772 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Xây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN ở nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ươn lên giàu có, từ tự túc tự cấp vươn lên sản xuất hàng hóa gắn với thị trường, vừa xác lập mối quan hệ với tự nhiên, vừa xác lập mối quan hệ xã hội để tồn tại và phát triển. Trong giai đoạn đầu của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất còn thấp kém, kinh tế hộ nông dân có vai trò to lớn trong việc khai thác các tiêm năng đất dai, vốn, sức lao động, kinh nghiệm sản xuất của dân cư…Do đó, kinh tế hộ nông dân có tác dụng lớn trong việc phát triển lực lượng sản xuất và tồn tại lâu dài trong quả trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ, kinh tế trang trại phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn. Kinh tế trang trại: là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông, lâm, ngư nghiệp, phổ biến được hình thành và phát triển trên nền tảng kinh tế hộ nông dân. Quá trình hình thành và phát triển kinh tế trang trại gắn với sự tích tụ tập trung các yếu tố sản xuất kinh doanh (đất đai, lao động, tự liệu sản xuất – vốn, khoa học kỹ thuật và công nghệ) để nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm hàn hóa với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. Kinh tế nhà nước: Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, do đó, tình hình tổ chức sản xuất trong nông nghiệp có đặc điểm riêng không giống trong công nghiệp. Nhìn chung, khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp còn thấp kém, kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xất có nhiều ưu thế hơn so với các hình thức kác. Bởi vậy, kinh tế nhà nước trong nông nghiệp dưới hình thức nông trường quốc doanh khó chứng minh được ưu thế của mình về hiệu quả, việc phát triển các nông trường quốc doanh rất cần được cân nhắc. Nhưng kinh tế hộ cũng có những nhược điểm cố hữu, khó óc thể tự khắc phục. Do quy mô nhỏ, kinh tế hộ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm đầu ra và giải quyết các yếu tố đầu vào như giống, thủy lợi, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ… Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước lại có hiều ưu thế trong những lĩnh vực này. Do đó kinh tế nhà nước ở nông thôn trong lĩnh vực dịch vụ dưới các hình thức: trạm giống, công ty bảo vệ thực vật, công ty thủy lợi, công ty thương mại…là hết sức cần thiết đối với nông nghiệp, nông thôn. Hơn nữa, đây là những vị trí then chốt trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn, do đó, nếu kinh tế nhà nước nắm giữ những vị trí này sẽ giữ vai trò chủ đạo, định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, phát triển king tế nhà nước ở nông nghiệp nông thôn là hết sức cần thiết nhưng cũng cần cân nhắc trong từng khâu, từng lĩnh vực cụ thể. Kinh tể tập thể: Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã, dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lao động lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp đỡ nhau thực hiện có hiệu quả hơn các họat động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế - xã hội đất nước. (Luật hợp tác xã 1996) Kinh tế tập thể lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các thành viên, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Hoạt động của kinh tế tập thể theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp, nông thôn phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực choc ho kinh tế hộ, trang trại phát triển, gắn với tiến trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả, năng suất và sức cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Phát triển kinh tế tập thể theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, vì sự phát triển của sản xuất. Kinh tế tư nhân: Kinh tế tư nhân là lực lượng quan trọng và năng động trong cơ chế thị trường, có khả năng về vốn liếng, về tổ chức quản lí, về kinh nghiệm sản xuất, về khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, kinh doanh ngành nghề đa dạng, tăng cường chế biến, tiêu thụ nông sản, làm dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn. Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân đã được khẳng định là quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Đây là một bước phát triển mới về nhận thức lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế trực tiếp tạo nên sự nhạy cảm về mặt kinh tế - chính trị. Do đó, việc thừa nhận vai trò của kinh tế tư nhân như hiện nay là một bước đột phá quan trọng. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân trong nông nghiệp phát triển. Chương 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT THEO ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA: 1. Tình hình phát triển và thành tựu của các thành phần kinh tế: Kinh tế hộ nông dân: Theo kết quả Tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2001, khu vực nông thôn cả nước có 13,07 triệu hộ; 58,41 triệu nhân khẩu chiếm 73% dân số cả nước. Nét mới đáng ghi nhận là cơ cấu ngành nghề của hộ và lao động đang có sự thay đổi theo xu hướng tiến bộ: Tỷ trọng nhóm hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng từ 1,6% năm 1994 tăng lên 5,8% năm 2001, nhóm hộ dịch vụ tăng từ 6,4% tăng lên 10,6%, nhóm hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 89,33% xuống còn 80,93%. Cơ cấu lao động nông thôn cũng có chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Năm 2001: 79,6% lao động nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, 7,4% lao động công nghiệp và xây dựng, 11,5% lao động dịch vụ.Theo tổng điều tra lao động và việc làm năm 2004, cả nước có trên 40 ngàn lao động trong đó lao động nông nghiệp chiếm 58%, lao động công nghiệp và dịch vụ chiếm 17%, lao động dịch vụ 25%. Lao động nông thôn bước đầu chuyển dịch theo hướng đa ngành nghề, hiện có 77,4% số lao động nông nghiệp làm nông nghiệp thuần tuý, 22,6% lao động nông nghiệp kiêm các ngành nghề khác. Theo điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2001 cho thấy chỉ có 3,7% số hộ thuỷ sản nhưng đã tạo ra 15,52% tổng thu nhập của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản, kim ngạch xuất khẩu đã đạt gần 1,8 tỉ năm 2001, trên 2 tỉ năm 2002. Kinh tế hộ gia đình đóng góp phần chủ yếu trong tăng trưởng của ngành nông nghịêp. Cũng theo điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 2001, vốn đầu tư phát triển của các hộ nông thôn cả nước là trên 46,2 tỉ đồng, vốn tích luỹ hiện có trong dân là 42,2 tỉ đồng. Số hộ nông thôn có dự định đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh nông lâm nghiệp và thuỷ sản theo hướng kinh tế hàng hoá là 28,2%. Vốn có khả năng huy động bình quân 1 hộ là 2,8 triệu đồng/năm, trong đó vốn tự có là 1,5 triệu đồng. Đó là những khởi sắc đáng ghi nhận. Kinh tế trang trại: Một bộ phận hộ gia đình đã mở rộng qui mô và trình độ sản xuất, hình thành các trang trại theo hướng sản xuất hàng hoá nông nghiệp , đến cuối năm 2003 Việt Nam có hơn 71 nghìn trang trại, sử dụng 407.702 ha, bình quân 5,6 ha/trang trại, sử dụng 358.403 lao động bình quân 5 lao động/trang trại. Giá trị hàng hoá dịch vụ của các trang trại là 4047 tỉ đồng, bình quân 1 trang trại 98 triệu đồng. Loại trang trại có giá trị hàng hoá cao nhất là trang trại nuôi trồng thuỷ sản đạt bình quân từ 120 triệu đến 150 triệu đồng/ trang trại, cá biệt có trang trại đạt trên 400 triệu đồng. Mới đây, tại TP Hồ Chí Minh, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức sơ kết, đánh giá tình hình kinh tế trang trại sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết số 03 của Chính phủ về kinh tế trang trại. Kết luận của hội nghị là: · Kinh tế trang trại thời gian qua phát triển nhanh về số lượng, đa dạng về hình thức tổ chức sản xuất. Theo tiêu chí phân loại trang trại, thì tốc độ tăng số lượng trang trại bình quân từ năm 2000 đến 2003 khoảng 5%. Qua số liệu tập hợp, 45 tỉnh, thành phố có 71 nghìn 914 trang trại, bình quân 1.598 trang trại tỉnh, thành phố. Lấy năm 2003 so với năm 2000, thì ở vùng Ðông Nam Bộ, số lượng trang trại tăng khoảng 30,6%, vùng Tây Nguyên tăng 46,6%, vùng đồng bằng sông Hồng hơn 11,6%; đồng bằng sông Cửu Long có số lượng trang trại nhiều nhất, chiếm tỷ trọng hơn 50% tổng số trang trại cả nước. · Kinh tế trang trại phát triển với nhiều loại hình: Trang trại trồng cây lâu năm, chăn nuôi, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, sản xuất, kinh doanh tổng hợp... Các loại hình trang trại này chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng trang trại nuôi trồng thủy sản và chăn nuôi, giảm tỷ trọng trang trại trồng cây hằng năm. Theo kết quả điều tra của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2002 các trang trại đã sử dụng gần 370 nghìn ha đất và mặt nước; trong đó đất trồng cây hằng năm chiếm 37,3%, trồng cây lâu năm chiếm 26%, đất lâm nghiệp 18,7%, diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản 18%. Diện tích đất sử dụng bình quân một trang trại hơn 6 ha. Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nhiều địa phương ở các vùng đã chuyển hàng trăm nghìn ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, tập trung ở các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Ðông Bắc, Tây Bắc; trang trại chăn nuôi tập trung ở các tỉnh gần thành phố lớn, nơi có thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa mạnh. Ðột phá mạnh mẽ nhất trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nuôi trồng thủy sản. Ðến nay, cả nước có hơn 26 nghìn trang trại nuôi trồng thủy sản các loại, khai thác có hiệu quả đất đai, mặt nước, thu hút hàng trăm nghìn lao động có việc làm ổn định. Ở đồng bằng sông Cửu Long, nuôi trồng thủy sản được xác định là kinh tế mũi nhọn sau cây lúa. Số trang trại ở đây chiếm khoảng 78% số trang trại nuôi trồng thủy sản cả nước. Năm 2003, giá trị sản lượng/ha canh tác của trang trại đạt từ 30 đến 35 triệu đồng. Trang trại nuôi trồng thủy sản, hoặc trồng cây đặc sản đạt hơn 100 triệu đồng/ha. Những kết quả này đã mở ra khả năng và hướng đầu tư để phát triển kinh tế trang trại. Cũng theo số liệu của 45 tỉnh, thành phố trong năm 2003, tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ của các trang trại đạt hơn 7.047 tỷ đồng. Ðiều đáng quan tâm là kinh tế trang trại phát triển đã mở ra hướng làm ăn mới, được nông dân tích cực hưởng ứng, hình thành đội ngũ nông dân năng động, dám nghĩ, dám làm. Ở mỗi địa phương xuất hiện ngày càng nhiều trang trại sản xuất, kinh doanh giỏi. Tinh thần hợp tác kinh tế giữa các chủ trang trại được phát triển. Một số trang trại tự nguyện thành lập hợp tác xã như mô hình hợp tác xã Cây Trường (huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương) được thành lập tự nguyện của 61 chủ trang trại, quản lý hơn 412 ha cây ăn trái. Thực tế khách quan của nền nông nghiệp nước ta cho thấy bước vào thế kỷ XXI nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế trang trại đang trở thành hiện thực, góp phần tích cực trong việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phù hợp với quy luật phát triển kinh tế. Kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể được tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã mới, nhiều hợp tác xã hoạt động có hiệu quả. Một số mô hình liên kết giữa hợp tác xã nông nghiệp với các cơ sở chế biến đã ra đời, thu hút đáng kể lực lượng lao động ở cả thành thị và nông thôn; đóng góp khoảng 8,5% GDP năm 2000 Đến năm 2004, cả nước có 9255 hợp tác xã nông lâm nghiệp và thuỷ sản, số lao động do các hợp tác xã nông nghiệp quản lý và sử dụng 250.000 người. Hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ: 1595 hợp tác xã làm dịch vụ làm đất, 4559 hợp tác xã dịch vụ giống cây trồng, 6848 hợp tác xã dịch vụ thuỷ lợi, 4923 hợp tác xã dịch vụ bảo vệ thực vật, 950 hợp tác xã dịch vụ chăn nuôi, 3950 hợp tác xã dịch vụ vật tư, 538 hợp tác xã dịch vụ tiêu thụ sản phẩm, còn lại là hoạt động các dịch vụ khác... Dịch vụ có hiệu quả nhất là thuỷ lợi và bảo vệ thực vật, mặt yếu nhất là tiêu thụ sản phẩm. Với hoạt động của hợp tác xã đã giúp các thành viên đưa các loại giống cây ăn trái có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất. Công tác bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm được hợp tác xã lo. Nhờ đó, các thành viên yên tâm đầu tư sản xuất, thu nhập của các thành viên cũng cao hơn nhiều so với khi chưa vào hợp tác xã. Năm 2000, hợp tác xã tiêu thụ hơn 27 tấn trái cây (có 17 tấn xuất khẩu), năm 2001 tiêu thụ hơn 500 tấn (nội địa và xuất khẩu). Năm 2002, hợp tác xã Cây Trường đã cùng các trang trại thành viên đầu tư vốn xây dựng nhà máy chế biến rau, quả với tổng kinh phí hơn 1,2 tỷ đồng. Hiện nay, nhà máy đi vào hoạt động, tiêu thụ 100% sản phẩm trái cây của các trang trại thành viên và của bà con trong vùng. Dù phát triển chưa đều, nhưng hoạt động dịch vụ của hợp tác xã nông nghiệp đã và đang có tác dụng tích cực hỗ trợ kinh tế hộ, kinh tế hợp tác xã đã đóng góp đáng kể cho tăng trưởng và phát triển nông nghiệp, nông thôn Viêt Nam. Kinh tế nhà nước: Tiếp tục được đổi mới, sắp xếp lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả hơn, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Kinh tế tư nhân: Thực tiễn cho thấy, trong kế hoạch 5 năm 2001 – 2005 thành phần kinh tế tư nhân phát triển với tốc độ cao, tỷ trọng đóng góp vào ngân sách Nhà nước lớn. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp, hiện có hàng triệu cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, hơn 71.000 trang trại và hơn 120.000 doanh nghiệp tư nhân. 2. Những khó khăn và thách thức: Kinh tế hộ nông dân: phần lớn sản xuất theo quy mô nhỏ, tự cấp, tự túc, do ruộng đất giao cho các hộ manh mún, bình quân ruộng đất trên đầu người thấp: trên phạm vi cả nước, mỗi hộ với 2,5 lao động chỉ có bình quân 0,7 ha đất nông nghiệp và có tới 70 triệu thửa đất nhỏ, manh mún, bình quân một hộ ở đồng bằng sông Hồng có 7-9 thửa, có hộ tới 20-40 mảnh), bình quân một thửa khoảng 200-500 m2; một số cây trồng như cao su,cà phê, chè, mía, đường…đã hình thành vùng sản xuất tập trung với quy mô tương đối lớn, có sản phẩm hàng hóa, các cây trồng còn lại đều dựa vào sản xuất của các hộ tiểu nông, quy mô kinh doanh nhỏ, phân tán manh mún. Trình độ học vấn, trình độ tay nghề của người lao động thấp, việc tổ chức sản xuất, kinh doanh của các hộ gia đình chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên chất lượng sản xuất, kinh doanh chưa cao và thiếu bền vững. Chất lượng sản phẩm hàng hoá của các hộ gia đình chưa cao, chủ yếu dưới dạng thô, tiêu thụ khó khăn, chưa nắm bắt được thị trường, nên còn thụ động, hiệu quả thấp. Doanh nghiệp nhà nước và kinh tế tập thể hiệu quả chưa cao, chưa thật sự là nền tảng cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, các hình thức liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp nhà nước với hợp tác xã và hộ nông dân vẫn là khâu yếu kém; một số mô hình tốt chưa được nhân rộng; kinh tế tư nhân chủ yếu còn nhỏ, phát triển tự phát, năng lực hạn chế: - Việc đổi mới họat động các doanh nghiệp nhà nước trong nông nghiệp vẫn còn chậm, số doanh nghiệp họat động có hiệu quả chưa nhiều; các nông, lâm trường chưa làm được vai trò trung tâm kinh tế-kỹ thuật vùng để nêu gương cho các thành phần kinh tế khác. Hiện 70% số các doanh nghiệp có vốn dưới 10 tỷ đồng, 30% hoạt động thường xuyên thua lỗ hoặc chưa có lãi. Nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc thiết lập các mối quan hệ liên kết kinh tế trực tiếp, hoặc chưa tạo điều kiện thuận lợi trong giao dịch làm ăn với kinh tế hộ, với tổ hợp tác, hợp tác xã làm cho người sản xuất trực tiếp bị thua thiệt (như mua bán rẻ, bán đắt, hoặc cung ứng giống không bảo đảm chất lượng…). - Về hợp tác xã nông nghiệp: · Hoạt động dịch vụ của hợp tác xã còn khó khăn, qui mô và doanh số còn nhỏ. Hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ xã viên, hộ nông dân mới chủ yếu dừng lại ở dịch vụ đầu vào, một số khâu thiết yếu. Chất lượng dịch vụ ởnhiều hợp tác xã chưa đáp ứng được yêu cầu xã viên. Nhìn chung, hiệu quả sản xuất- kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển kinh tế trong thời gian qua. Hợp tác xã chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường, chưa có sức hấp đẫn, lôi cuốn xã viên và người lao động gắn bó tích cực xây dựng hợp tác xã . · Cơ sở vật chất, kỹ thuật của hợp tác xã nghèo nàn, chưa được đầu tư, đổi mới công nghệ để có thể phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo nền kinh tế thị trường. · Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã đặc biệt chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng kiểm soát là yếu tố mang tính quyết định đến thành công của hợp tác xã. Tuy nhiên, đội ngũ này đang còn bất cập do trình độ văn hoá cũng như trình độ chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi đối với một đơn vị kinh tế tập thể hoạt động theo cơ chế thị trường Kinh tế tư nhân còn nhỏ, phát triển tự phát, năng lực hạn chế. Chương 3: NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG QUAN HỆ SẢN XUẤT ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA 1. Định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước: Ngày 10 tháng 11 năm 1998, Bộ Chính Trị khóa VIII đã ra nghị quyết số 06-NQ/TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết đã khẳng định 4 quan điểm phát triển. Trong đó quan điểm thứ 4 đã chỉ rõ: phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng, hợp tác và hướng dẫn kinh tế tư nhân phát triển theo đúng pháp luật. tiếp tục phát triển nhiều hình thức kinh tế hợp tác; các loại hình hợp tác xã dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân, từng bước xây dựng hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã; chú trọng liên kết kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác. Tạo điều kiện và khuyến khích mạnh mẽ hộ nông dân và những người có khả năng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn. Kinh tế hộ nông dân: Vượt qua nghèo khó và vươn lên giàu có theo dạng hình kinh tế trang trại, để kinh tế hộ nông dân ngang tầm với yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp, văn minh hóa nông thôn, tri thức hóa nông dân, góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nâng nhanh cấp độ phát triển của kinh tế hộ nông dân từ thuần nông với sản phẩm thô lên sản xuất gắn với chế biến, bảo quản vận chuyển tốt để có khối lượng hàng hóa lớn, chất lượng và sức cạng tranh cao, với văn hóa, môi trường cảnh quan vì an sinh và kinh doanh dịch vụ du lịch-một nền nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp công nghệ cao, trong đó công nghệ sinh học đóng vai trò chủ đạo. Đối với kinh tế hợp tác xã: Ban bí thư Ban chấp hành trung ương khoá IX yêu cầu tiến hành hướng dẫn về tổ chức và hoạt động để phát triển mạnh loại hình kinh tế này trên các vùng, các lĩnh vực, phân loại hợp tác xã để có giải pháp phù hợp, củng cố, nâng cao chất lượng và hiệu quả. Đồng thời nghiên cứu tháo gỡ khó khăn cho việc phát triển kinh tế hợp tác, giải quyết số nợ còn tồn đọng của hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng các mô hình hợp tác xã kiểu mới để nhân rộng. Ban bí thư Ban chấp hành trung ương khoá IX cũng đã nhấn mạnh: quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn cần phát huy mạnh mẽ nội lực, kết hợp tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế; đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông thôn; khuyến khích cá nhân hoặc tổ chức có tiềm lực, có khả năng thúc đẩy tiềm lực kinh tế xã hội và xây dựng nông thôn mới, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Kế hoạch phát triển ngành nông nghiệp và PTNT năm 2007 Chương trình xây dựng và phát triển nông thôn mới: Đổi mới quan hệ sản xuất: Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế nông nghiệp, nhất là hợp tác xã. Hướng vào đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật hợp tác xã và hệ thống chính sách khuyến khích phát triển ; bồi đường nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ hợp tác xã ; xây dựng một số mô.hình hợp tác Nông nghiệp về cung cấp dịch vụ. Dự kiến phát triển mới 200 hợp tác xã ; số lượng xã viên tăng 3% so với năm 2006; đào tạo, bồi dưỡng cho 20% cán bộ chủ chốt hợp tác xã đang hoạt động; hướng dẫn các địa phương tiếp tục xây dựng 200 mô hình về hợp tác xã cung cấp dịch vụ; số lượng tổ hợp tác trong nông nghiệp tăng 5%, đưa tổ hợp tác lên 110 nghìn tổ. Tiếp tục nghiên cứu cơ chế, chính sách tạo động lực và các điều kiện thuận lợi thúc đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá với trình độ ngày càng cao và quy mô ngày càng mở rộng, hình thành trang trại. Dự kiến năm 2007 thành lập thêm 6.000 trang trại; chỉ đạo các địa phương xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận trang trại cho những trang trại đủ điều kiện. Tập trung triển khai mạnh Chương trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nông nghiệp, nông thôn; có kế hoạch chủ động gặp gỡ các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, kịp thời tháo gỡ khó khăn, khuyến khích doanh nghiệp phát triển, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của toàn ngành. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước; nghiên cứu có chính sách tạo điều kiện cho các đoành nghiệp sau cổ phần hoá phát triển bền vững. Hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh. 2. Những giải pháp, ý kiến cá nhân: Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp: kinh tế hộ nông dân và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Mọi thành phần kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được phát triển theo định hướng XHCN. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ phát triển sản xuất hàng hóa với quy mô ngày càng lớn và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết, hợp tác tự nguyện giữa các hộ, các trang trại bằng nhiều hình thức, nhiều quy mô, nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ và kinh tế, xã hội nông thôn. Hợp tác xã phải tập trung làm đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, liên kết các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế để bán vật tư mua nông sản, hàng hóa cho nông dân; Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính sách thuế phù hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín dụng nhân dân ở xã để phát triển nông nghiệp, nông thôn. Doanh nghiệp Nhà nước tập trung thực hiện những việc mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được, hỗ trợ thành phần kinh tế khác cùng phát triển, tổ chức lại việc sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt vai trò nòng cốt trong kinh doanh lúa gạo, phân bón, phát triển chế biến nông lâm thủy sản quy mô lớn, yêu cầu kỹ thuật cao, vốn lớn và liên kết có hiệu quả với các hộ nông dân và hợp tác xã sản xuất nguyên liệu, giữ vai trò chủ yếu trong việc thực hiện các nhiệm vụ công ích. Đối với khu vực miền núi doanh nghiệp Nhà nước phải đi đầu trong việc hỗ trợ sản xuất, chế biế và tiêu dùng nông, lâm, thủy sản. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các ngành nghề đa dạng. Đây là lực lượng quan trọng có khả năng thu hút được nhiều lao động, tăng năng lực chế biến, tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời sống nông dân. Cần có chính sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, nhất là chính sách đất đai, tài chính, tín dụng, đào tạo, thị trường và khuyến nông. Thực hiện liên kết giữa sản xuất, chế biến và tiêu thụ tạo điều kiện để nông dân và hợp tác xã tham gia cổ phần ngay từ đầuvới các doanh nghiệp, khuyến khích ký hợp đồng giữa các doanh nghiệp thuộc mọ thành phần kinh tế và nông dân; doanh nghiệp hỗ trợ vốn và chuyển giao kỹ thuật, tiêu thụ sản phẩm nông dân làm ra với giá cả hợp lý. Chính sách cụ thể đối với các thành phần kinh tế: Đối với các doanh nghiệp nhà nước: Nhà nước củng cố và phát huy tiềm năng của những doanh nghiệp nông, lâm, ngư nghiệp đang họat động có hiệu quả, xây dựng mới một số xí nghiệp công nghiệp ở các vùng nông thôn với mục đích để các xí nghiệp này đóng vai trò là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong vùng theo kiểu như Công ty mía đường Lam Sơn hay Nông trường Sông Hậu. Các xí nghiệp mới có thể hình thành trên cơ sở góp vốn của các thành phần kinh tế với Nhà nước. Về lâu dài, các doanh nghiệp này phải từng bước được cổ phần hóa với sự tham gia góp vốn của nông dân để có sự gắn kết giữa cơ sở chế biến với nông dân. Các doanh nghiệp Nhà nước có trách nhiệm thông qua liên doanh, liên kết hỗ trợ sự hình thành và phát triển của các cơ sở công nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác trong từng vùng, ưu tiên hỗ trợ các doanh nghiệp tập thể, tạo thành mạng lưới các vệ tinh ở nông thôn. Các doanh nghiệp Nhà nước phải đóng vai trò chủ lực trong việc nhập khẩu và buôn bán các loại vật tư nông nghiệp và công nghiệp nông thôn, thu mua và xuất khâu nông, lâm, thủy sản và sản phẩm công nghiệp nông thôn. Các doanh nghiệp này cần được tăng cường trước hết về vốn và cán bộ để có thể làm tốt được nhiệm vụ Nhà n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXây dựng quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN ở nông nghiệp, nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta.doc
Tài liệu liên quan