MỤC LỤC
A- MỞ ĐẦU 1
B - NỘI DUNG 2
CHƯƠNG I : LÝ THUYẾT VỀ WTO VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ 2
I. WTO và sự gia nhập WTO của Việt Nam 2
1. Khái quát về mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của WTO 2
2. Tóm tắt cam kết gia nhập WTO của Việt Nam 2
3. Những cam kết của Việt Nam đối với các quy định về ĐT của WTO 3
II. Lý thuyết về ĐTQT 4
1. Khái niệm và phân loại ĐTQT 4
2. Tác động của ĐTQT đến tăng trưởng và phát triển kinh tế 5
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM TRƯỚC VÀ SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ 7
1. ĐTQT tại Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO 7
2. ĐTQT tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO 9
3. Tác động tích cực của ĐTNN đối với nền kinh tế 11
4. Tác động tiêu cực của ĐTNN đối với nền kinh tế 13
5. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN. 14
6. Ảnh hưởng của các cam kết gia nhập WTO đến hoạt động ĐTNN tại Việt Nam. 16
CHƯƠNG III : MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 18
1. Hướng dẫn thi hành một số cam kết về ĐT của Việt Nam trong WTO 18
2. Một số giải pháp thực thu hút và nâng cao hiệu quả ĐTNN tại Việt Nam 18
C- KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1694 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của các cam kết trong tổ chức thương mại quốc tế đến hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m 2005 tăng 50,8. Nhìn chung trong 5 năm 2001-2005, vốn ĐTNN cấp mới đều tăng đạt mức năm sau cao hơn năm trước (tỷ trọng tăng trung bình 59,5%), nhưng đa phần là các dự án có quy mô vừa và nhỏ.
Quy mô dự án : Quy mô dự án ĐTNN có sự biến động thể hiện khả năng tài chính cũng như sự quan tâm của các nhà ĐTNN đối với môi trường ĐT Việt Nam.
Thời kỳ 1988-1990 quy mô vốn ĐT đăng ký bình quân đạt 7,5 triệu USD/dự án/năm. Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án đạt 11,6 triệu USD
Giai đoạn 1991-1995 đã tăng lên 12,3 triệu USD/dự án trong 5 năm 1996-2000. Điều này thể hiện số lượng các dự án quy mô lớn được cấp phép
Giai đoạn 1996-2000 nhiều hơn trong 5 năm trước. Tuy nhiên, quy mô vốn đăng ký trên giảm xuống 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới
Giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ.
Tình hình tăng vốn ĐT:
Cùng với việc thu hút các dự án ĐT mới, nhiều dự án sau khi hoạt động có hiệu quả đã mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, tăng thêm vốn ĐT, nhất là từ năm 2001 trở lại đây. Tính đến hết năm 2007 có gần 4.100 lượt dự án tăng vốn ĐT với tổng vốn tăng thêm hơn 18,9 tỷ USD, bằng 23,8% tổng vốn ĐT đăng ký cấp mới.
Thời kỳ 1988-1990 việc tăng vốn ĐT hầu như chưa có do số lượng DN ĐTNN còn ít.
Giai đoạn 1991-1995 : số vốn ĐT tăng thêm đạt 2,13 tỷ USD
Giai đoạn 1996-2000 : tăng gần gấp đôi so với 5 năm trước (4,17 tỷ USD).
Giai đoạn 2001-2005 vốn ĐT tăng thêm đạt 7,08 tỷ USD (vượt 18% so dự kiến là 6 tỷ USD) tăng 69% so với 5 năm trước.
Bắt đầu từ năm 2002 và từ năm 2004 đến 2006 vốn tăng thêm mỗi năm đạt trên 2 tỷ USD, mỗi năm trung bình tăng 35%.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005.
Tình hình phát triển các Khu công nghiệp, khu chế xuất (gọi tắt là KCN)
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương, 10 Khu kinh tế (KKT) được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên xấp xỉ 550.000 ha và 2 KCNC (Hoà Lạc và TP Hồ Chí Minh).
Trong hơn 16 năm xây dựng và phát triển KCN, KCX và hơn 3 năm thành lập KKT cho thấy khu vực này có đóng góp ngày càng quan trọng trong việc thu hút vốn ĐTNN.
Các dự án ĐT công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN. Các dự án ĐT trong nước và nước ngoài trong KCN đa dạng về hình thức ĐT.
Vốn giải ngân ĐTNN từ 1988 đến 2007:
Trong số 8.590 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 83 tỷ đô la Mỹ, đã có khoảng 50% dự án triển khai góp vốn thực hiện đạt hơn 43 tỷ USD (bao gồm cả vốn thực hiện của các dự án hết thời hạn hoạt động và giải thể trước thời hạn), chiếm 52,3% tổng vốn đăng ký, trong đó, vốn của bên nước ngoài đưa vào (gồm vốn góp và vốn vay) khoảng 37,9 tỷ USD, chiếm 89,5% tổng vốn thực hiện, các dự án ĐTNN đã bổ sung nguồn vốn quan trọng cho ĐT phát triển kinh tế-xã hội đất nước qua từng thời kỳ theo mục tiêu kế hoạch đề ra.
Vốn thực hiện có xu hướng tăng qua các năm nhưng với tốc độ chậm trong khi vốn đăng ký và số lượng dự án cấp mới biến động tăng mạnh.
Giai đoạn 1991-1995 vốn thực hiện đạt 7,1 tỷ USD, chiếm 44% tổng vốn đăng ký mới ( bao gồm phần vốn góp của Bên Việt Nam trên 1 tỷ USD - chủ yếu là giá trị quyền sử dụng đất và vốn nước ngoài đưa vào khoảng 6,1 tỷ USD)
Thời kỳ 1996-2000, mặc dù có ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế khu vực, vốn thực hiện đã đạt 13,5 tỷ USD, tăng 89% so với 5 năm trước, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam là 1,4 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12 tỷ USD) và tăng 90% so với 5 năm trước.
Trong 5 năm 2001-2005 vốn thực hiện đạt 14,3 tỷ USD, chiếm 64,8% tổng vốn đăng ký mới, tăng 6% so với 5 năm trước và vượt 30% dự báo ban đầu (11 tỷ USD), trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt trên 1,1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 12,6 tỷ USD.
2. ĐTQT tại Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Tình hình thu hút vốn ĐTNN đăng ký từ cuối năm 2006 đến nay:
Cấp phép ĐT :
Dòng vốn ĐTNN vào nước ta đã tăng đáng kể (32,3 tỷ USD) với sự xuất hiện của nhiều dự án quy mô lớn ĐT chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp (sản xuất thép, điện tử, sản phẩm công nghệ cao...), dịch vụ (cảng biển, bất động sản, công nghệ thông tin, du lịch - dịch vụ cao cấp ...) cho thấy dấu hiệu của “làn sóng ĐTNN” thứ hai vào Việt Nam.
Vốn đăng ký FDI đạt trên 20 tỷ USD năm 2007 và dự kiến sẽ đạt trên 60 tỷ USD trong năm 2008. Sự bùng nổ FDI trong 2 năm qua phản ánh niềm tin của các nhà ĐTNN vào công cuộc đổi mới cũng như tiềm năng phát triển dài hạn của Việt Nam.
Tháng 11/2008, cả nước có 106 dự án được cấp giấy chứng nhận ĐT với tổng vốn ĐT đăng ký là 726 triệu USD, tổng số dự án cấp mới trong 11 tháng đầu năm 2008 lên 1.059 dự án với tổng vốn ĐT đăng ký là 59 tỷ USD, tăng 7 lần so với cùng kỳ năm trước.
Bên cạnh đó, tổng dự án tăng vốn 11 tháng đầu năm 2008 là 242 lượt dự án với tổng vốn ĐT đăng ký tăng thêm là 1,08 tỷ USD.
Quy mô dự án :
Quy mô vốn ĐT trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia ĐT vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).
Đến tháng 11/2008, đã có 11 quốc gia và vùng lãnh thổ đăng ký ĐT vốn trên 1 tỷ USD. Malaysia đứng đầu với 49 dự án, vốn đăng ký 14,9 tỷ USD, Đài Loan đứng thứ 2 với 127 dự án, vốn ĐT 8,6 tỷ USD, Nhật Bản đứng thứ 3 với 95 dự án, vốn ĐT 7,2 tỷ USD.
Tính sơ bộ, đến tháng 11/2008, vốn đăng ký mới tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, có 537 dự án ĐT vào lĩnh vực này với tổng vốn đăng ký 32,5 tỷ USD; lĩnh vực dịch vụ có 480 dự án với tổng vốn đăng ký 26,2 tỷ USD.
Trong số các dự án lớn được cấp phép từ đầu năm đến nay, đáng chú ý là dự án xây dựng khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương Formosa tại khu kinh tế Vũng Áng, tỉnh Hà Tĩnh. Dự án có tổng số vốn giai đoạn 1 lên tới 7,8 tỷ USD do Tập đoàn Formosa của Đài Loan ĐT. Dự án khu du lịch liên hợp cao cấp tại tỉnh Phú Yên của Công ty TNHH New City Properties Development (Brunei) có vốn ĐT 4,3 tỷ USD và dự án Khu du lịch Hồ Tràm tại Bà Rịa Vũng Tàu trị giá 4,2 tỷ USD của Tập đoàn Asian Coast Development Ltd (Canada). Dự án xây dựng khu đô thị đại học quốc tế Việt Nam trị giá 3,5 tỷ USD do Công ty Berjaya Leijaya của Malaysia làm chủ ĐT. Bên cạnh các dự án đã được cấp phép ĐT, một số các “siêu” dự án khác cũng đang chờ được cấp giấy phép như dự án ĐT vào đảo Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang) trị giá 10 tỷ USD của các nhà ĐT Mỹ và Canada và dự án xây dựng Nhà máy thép liên hợp của Tập đoàn thép Hàn Quốc Posco với tổng số vốn hơn 5,3 tỷ USD tại Khánh Hòa.
Tình hình tăng vốn ĐT:
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng thêm.
Việc tăng vốn ĐT mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: vùng trọng điểm phía Nam chiếm tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%, phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 24% và 20%.
Tổng vốn FDI thu hút được tính đến hết T11/2008 đã đạt 60,09 tỷ USD.
Vốn giải ngân ĐTNN từ 2006 đến nay
Tổng vốn thực hiện đạt 8,7 tỷ USD (trong đó, vốn góp của Bên Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và vốn từ nước ngoài đạt 7,7 tỷ USD), tuy chỉ bằng 27% tổng vốn đăng ký mới, nhưng vốn thực hiện năm 2007 tăng 12% so với năm 2006, và sẽ là tiền đề cho việc giải ngân của 2 năm tới 2008 và 2009 tăng cao vì trong các dự án cấp mới trong 2 năm 2006 và 2007 có nhiều dự án quy mô vốn đăng ký lớn.
Trong cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu đã ít nhiều ảnh hưởng đến vấn đề giải ngân vốn. Hiện tại, triển vọng năm 2008 số vốn FDI thực hiện có thể đạt hơn 10 tỉ USD.
Nguồn vốn ĐT gián tiếp nước ngoài những năm trước kia không đáng kể, từ nửa cuối năm 2006 đã chảy vào Việt Nam khá mạnh (lên đến 3 tỉ USD) góp phần làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam nóng lên với chỉ số giá chứng khoán “phi mã”. Đầu năm nay, lượng vốn thuộc nguồn này còn tăng mạnh hơn, ước tính đến nay đã lên đến trên 4 tỉ USD, chiếm gần 1/3 tổng giá trị vốn hóa thị trường (khoảng 14 tỉ USD, bằng 23% GDP).
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) cuối năm trước các nhà tài trợ đã cam kết cho Việt Nam đạt cao nhất từ trước tới nay (4,45 tỉ USD). Khả năng thực hiện của năm nay sẽ tăng khá và năm thứ 3 liên tục vượt kế hoạch đề ra, bởi không chỉ lượng vốn cam kết tăng cao mà lượng vốn ký kết tính đến cũng đạt khá.
3. Tác động tích cực của ĐTNN đối với nền kinh tế
Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, là khu vực có tốc độ phát triển năng động nhất.
Về mặt kinh tế:
ĐTNN là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn ĐT đáp ứng nhu cầu ĐT phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế:
Đóng góp của ĐTNN trong tổng vốn ĐT xã hội có biến động lớn, từ tỷ trọng chiếm 13,1% vào năm 1990 đã tăng lên mức 32,3% trong năm 1995. Tỷ lệ này đã giảm dần trong giai đoạn 1996-2000, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính khu vực (năm 2000 chiếm 18,6%) và trong 5 năm 2001-2005 chiếm khoảng 16% tổng vốn ĐT xã hội; hai năm 2006-2007 chiếm khoảng 16%( năm 2003 là 16%, năm 2004 là 14,2%, năm 2005 là 14,9% và năm 2006 là 15,9%, ước năm 2007 đạt trên 16%).
Vốn ĐTNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Từ năm 1991-2000, GDP tăng liên tục qua các năm với tốc động tăng bình quân mỗi năm 7,56%. Trong 5 năm 2001-2005: tốc độ tăng GDP đạt 7,5% (nông lâm ngư tăng 3,8%; công nghiệp xây dựng tăng 10,2%, dịch vụ tăng 7%;
ĐTNN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp:
Nhiều công trình lớn đã hoàn thành đưa vào sản xuất, phát huy hiệu quả ĐT, làm cơ sở cho tăng trưởng giai đoạn sau đó được khởi công và đẩy nhanh tiến độ, nhất là các công trình điện, dầu khí, công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ xuất khẩu...
Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cao hơn mức tăng trưởng công nghiệp chung của cả nước, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong ngành công nghiệp qua các năm (từ 23,79% vào năm 1991 lên 40% năm 2004, 41% năm 2005 và năm 2006). Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN trong 5 năm qua chiếm trung bình 42,5% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ thông tin, hóa chất, ô tô, xe máy, thép, điện tử và điện tử gia dụng, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, da giày, dệt may… Hiện ĐTNN đóng góp 100% sản lượng của một số sản phẩm công nghiệp (dầu khí, thiết bị máy tính, máy giặt, điều hòa), 60% cán thép, 33% hàng điện tử, 76% dụng cụ y tế chính xác, 49% sản phẩm da giày, 55% sản lượng sợi, 25% hàng may mặc.
ĐTNN đã góp phần hình thành và phát triển trong cả nước hệ thống các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tương đối đồng bộ và hiện đại, đem lại hiệu quả sử dụng đất cao hơn ở một số địa phương đất đai kém màu mỡ.
ĐTNN thúc đẩy chuyển giao công nghệ:
ĐTNN góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, phát triển một số ngành kinh tế quan trọng của đất nước như viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí, hoá USD đô la Mỹ vào Việt Nam trong dự án sản xuất linh kiện điện tử cao cấp, đã gia tăng số lượng các dự án ĐT vào lĩnh vực công nghệ cao của các tập đoàn đa quốc gia (Canon, Panasonic, Ritech.v.v)
Tác động lan tỏa của ĐTNN đến các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế:
Hiệu quả hoạt động của DN ĐTNN được nâng cao qua số lượng các DN tăng vốn ĐT, mở rộng quy mô sản xuất. Đồng thời, có tác động lan tỏa đến các thành phần khác của nền kinh tế thông qua sự liên kết giữa DN có vốn ĐTNN với các DN trong nước, công nghệ và năng lực kinh doanh được chuyển giao từ DN có vốn ĐTNN.
Sự lan tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các DN trong ngành dọc hoặc theo hàng ngang giữa các DN hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các DN ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các DN trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa.
ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô:
Cùng với sự phát triển các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng.
ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu...
ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế:
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào gia tăng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới.
Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng.
Về mặt xã hội:
ĐTNN góp phần quan trọng tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực:
Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các DN có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Hoạt động của các DN có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các DN trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các DN có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý DN cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại.
ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới:
ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá TM và ĐT.
4. Tác động tiêu cực của ĐTNN đối với nền kinh tế
Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau:
Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ:
Mục đích cao nhất của các nhà ĐT là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà ĐT quan tâm, còn những lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được ĐTNN.
Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án ĐT thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà ĐT quan tâm.
Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp.
Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ ĐT vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN.
Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn ĐTNN chưa được giải quyết kịp thời
Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm DN mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi DN gặp khó khăn về kinh doanh. Mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho DN.
ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn DN của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường ĐT ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các DN ĐTNN.
Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ
Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các DN ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta.
Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam.
Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ.
5. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN.
Nguyên nhân của những thành tựu:
Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành.
Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn ĐT an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà ĐT. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà ĐTQT, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà ĐT giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
Công tác vận động xúc tiến ĐT ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng.
Quy hoạch vùng, đặc biệt là quy hoạch khu công nghiệp của Việt Nam hiện rất tốt; đưa ra nhiều khu công nghiệp để thu hút các nhà ĐTNN. Đối với các nhà ĐTNN, khu công nghiệp là một công cụ tốt đối với họ, mọi thứ đều có sẵn ở đó, chính sách một cửa, sẵn điện, đất. Các nhà ĐTNN dễ dàng ký được hợp đồng, đỡ nhức đầu. Nếu ĐT ra ngoài khu công nghiệp sẽ phức tạp hơn.
Việt Nam đang xử lí những vấn đề này như xây cầu, đường rất nhiều ở Hà Nội và Tp.HCM. Nhìn vào quy hoạch của Chính phủ Việt Nam, kế hoạch xây dựng 30 cảng biển trong vòng 20 năm tới có thể làm được vì Việt Nam có bờ biển dài.
Nguồn nhân lực: Đây là một lợi thế của Việt Nam. Nhân lực Việt Nam ham học hỏi, chăm chỉ, và có tâm lí tốt. Các nhà ĐTNN khi đến cũng rất thích thú. Tuy nhiên, cũng có vấn đề đặt ra là thiếu các lao động có kỹ năng.
Về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa ĐT trong nước Ngay đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam.
Hệ thống luật pháp, chính sách về ĐT tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán, Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn của Chính phủ.
Môi trường ĐT-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các DN ĐTNN với DN trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu ĐT tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
Xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách khuyến khích huy động nguồn lực trong nước, ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho DN, ảnh hưởng xấu đến môi trường ĐT.
Sự liên kết giữa khu vực kinh tế ĐTNN với khu vực kinh tế nước nhà còn thể hiện sự thiếu đồng bộ ở cơ chế trong việc hợp tác, phối hợp khi các đối tác có nhu cầu, thủ tục hành chính về quản lý ĐT còn quá rườm rà.
6. Ảnh hưởng của các cam kết gia nhập WTO đến hoạt động ĐTNN tại Việt Nam.
Việc thực hiện các cam kết WTO liên quan đến ĐT thời gian qua vẫn còn khá nhiều vướng mắc mới phát sinh.
Vướng mắc phát sinh trong cơ quan quản lý
Có một nhận định chung được khẳng định, đó là việc thực hiện theo biểu cam kết có nhiều vướng mắc. Thứ nhất, ngôn ngữ trong biểu cam kết khó hiểu: ví dụ “không cam kết”, “không hạn chế” như thế nào vẫn có những ý kiến khác nhau và thậm chí không thống nhất cách hiểu ngay trong thành viên đoàn đàm phán.
Thứ hai, trong biểu cam kết về dịch vụ, rất nhiều ngành của chúng ta đưa ra các điều kiện hạn chế nhà ĐTNN chặt chẽ hơn so với luật pháp hiện hành của Việt Nam.
Trên thực tế, trong một số ngành trước khi gia nhập WTO, chúng ta đã mở cửa với mức độ rất cao, không hạn chế phần vốn của nhà ĐTNN.
Tuy nhiên, theo quy định của biểu cam kết này thì chúng ta hạn chế lại. Ví dụ như trong ngành dịch vụ giáo dục, y tế thì đến ngày 1/1/2009, nhà ĐTNN mới được phép thành lập DN 100% vốn ĐTNN tại Việt Nam. Trong khi đó, từ chục năm nay, chúng ta đã cho phép hình thức này. Thậm chí đối với dịch vụ giáo dục, Việt Nam còn đặc biệt khuyến khích ĐT và dành nhiều ưu đãi.
Cái khó đặt ra ở đây là chúng ta sẽ áp dụng cam kết như thế nào? Theo thực trạng pháp luật hiện hành hay áp dụng theo cam kết. Hiện nay, các cơ quan cấp chứng nhận ĐT ở các địa phương không có phương án xử lý cụ thể vấn đề này. Do đó, nhiều địa phương đã áp dụng biện pháp “an toàn” là từ chối cấp phép.
Một điểm khác nữa cũng gặp khó khăn là theo quy định một nước thành viên chỉ có nghĩa vụ mở các ngành dịch vụ được quy định tại biểu cam kết dịch vụ.
Đối với các ngành dịch vụ khác thì chúng ta không có nghĩa vụ mở cửa. Riêng quy định này đã dẫn đến sự hiểu rất khác nhau giữa các cơ quan cấp phép ĐT. Bộ TM và Bộ Kế hoạch ĐT đôi khi không thống nhất với nhau.
Căn cứ theo kỹ thuật đàm phán thì Việt Nam chỉ cam kết mở cửa những ngành chúng ta đưa vào biểu cam kết, khi nhà ĐTNN xin phép ĐT lĩnh vực ngoài biểu cam kết thì Bộ TM trả lời không mở cửa. Đây là hiện tượng khiến rất nhiều sở kế hoạch ĐT các tỉnh không biết xử lý thế nào và trên thực tế tồn đọng rất nhiều dự án.
Đó là trường hợp cấp mới, còn đối với các dự án đang hoạt động muốn điều chỉnh chứng nhận ĐT để mở rộng sang một hoạt động khác thuộc biểu cam kết dịch vụ thì có bị hạn chế hay không cũng đang gặp vướng mắc. Thực tế hiện nay, các cơ quan Nhà nước còn lúng túng chưa có phương án xử lý trong quá trình cấp phép.
Các địa phương sẵn sàng từ chối cấp phép để giữ an toàn thay vì đi nghiên cứu các cam kết. Những hiện tượng đó dẫn đến sự xáo trộn rất lớn đến môi trường ĐT:
Mức độ cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO và các hiệp định song phương khôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A5290.DOC