Đề tài Ảnh hưởng của khói bụi từ nhà máy xi măng đến môi trường sống và sức khỏe của người dân

Với 100% người lựa chon cho rằng, “hoạt động của nhà máy xi măng ảnh hưởng đến môi trường sống của họ” đã mô tả hình ảnh môi trường sống của một vùng quê chịu nhiều ảnh hưởng từ hoạt động công nghiệp nặng.

Việc đánh giá những tác động đến môi trường sống muốn được làm rõ cần được phân tích sâu vào các khía cạnh của vấn đề. Theo định nghĩa, môi trường sống bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Để phân tích cụ thể được vấn đề đặt ra, cần phải làm rõ được mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến từng thành phần của môi trường.

 

doc35 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14456 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của khói bụi từ nhà máy xi măng đến môi trường sống và sức khỏe của người dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đó sẽ dẫn đến sự thiếu hụt hoặc sự khan hiếm. Không gian sống, hoặc môi trường, cung cấp nhà cửa, hệ thống giao thông, và các thứ thiết yếu khác của đời sống hàng ngày. Lạm dụng chức năng này dẫn đến sự quá tải về dân số, sự tắc nghẽn và suy thoái môi trường sống của các loài khác. Với chức năng kho chứa rác thải, môi trường thẩm thấu rác thải, ô nhiễm công nghiệp và rác thảu loại khác. Vượt quá chức năng của hệ sinh thái trong việc hấp thu rác thải sẽ dẫn tới vấn đề bệnh tật từ rác thải đọc hại và phá vỡ hệ sinh thái. Thêm nữa, các chức năng cạnh tranh nhau để chiếm khoảng không gian, và thường va chạm nhau. Sự chồng chéo, và do đó xung đôt giữa ba chức năng của môi trường đã phát triển nhanh chóng. Như vậy, có thể thấy rằng theo mô hình của Cantton và Dunlap, các chức năng của môi trường luôn xung đột lẫn nhau, nhất là trong điều kiện hiện nay khi mà các vấn đề về môi trường và sức khỏe đang ngày càng trở nên gay gắt. Theo đó, cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc xây dựng và phát triển hàng loạt các cơ sở sản xuất và thu hẹp phạm vi sống của dân cư, sinh vật, đã dẫn đến những xung đột và vấn đề gay gắt về môi trường và sức khỏe. Sự lạm dụng để xây dựng các khu nhà máy, (nhà máy xi măng) trong khi thiếu sự quy hoạch, đồng thời đã tận dụng quá lớn nguồn lực môi trường, vượt ngưỡng chịu đựng của không khí đã dẫn đến tình trạng quá tải sinh thái, và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Với sự ô nhiễm nước,… đặc biệt là môi trường không khi với lương khói bụi nguy hại do nhà máy xi măng xả ra đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân. Và điều đó như là một biểu hiện rõ ràng, rõ nét cho sự xung đột chức năng môi trường mà Cantton và Dunlap đã nêu trong sơ sơ đồ, lý thuyết tiếp cận về cạnh tranh chức năng của môi trường của mình. 1.2.2 Các khái niệm công cụ Môi trường sống Theo (Điều 1, Luật Bảo Vệ Môi Trường Việt Nam, 1993): Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời  sống,  sản  xuất,  sự  tồn  tại,  phát  triển  của  con  người  và  thiên  nhiên . Môi trường sống là tập hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con người, ảnh hưởng tới con người và tác động đến các hoạt động sống của con người như: không khí, nước, độ ẩm, sinh vật, xã hội loài người và các thể chế. Môi trường sống của con người theo chức năng được chia thành các loại: - Môi trường tự nhiên: bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Đó là ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả, không khí, động, thực vật, đất, nước... Môi trường tự nhiên cho ta không khí để thở, đất để xây dựng nhà cửa, trồng cấy, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên khoáng sản cần cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hoá các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp để giả trí, làm cho cuộc sống cong người thêm phong phú. - Môi trường xã hội: là tổng thể các quan hệ giữa người với người. Môi trường xã hội định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định, tạo nên sức mạnh tập thể thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con người khác với các sinh vật khác Nói chung, môi trường của một khách thể bao gồm các vật chất, điều kiện hoàn cảnh, các đối tượng khác hay các điều kiện nào đó mà chúng bao quanh khách thể này hay các hoạt động của khách thể diễn ra trong chúng. Ô nhiễm môi trường sống Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường. Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức khoẻ con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hoá chất hoặc tác nhân vật lý, sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc cường độ các tác nhân trên đạt đến mức có khả năng tác động xấu đến con người, sinh vật và vật liệu. (nguồn: Hoàng Hưng, Nguyễn Thị Kim Loan, sách “Con người và môi trường”, NXB ĐHQG TPHCM, 2005). Các dạng ô nhiễm môi trường sống Ô nhiễm môi trường nước: Ô nhiễm nước là sự thay đổi theo chiều xấu đi các tính chất vật lý – hoá học – sinh học của nước, với sự xuất hiện các chất lạ ở thể lỏng, rắn làm cho nguồn nước trở nên độc hại với con người và sinh vật. Ô nhiễm nước có nguyên nhân từ các loại chất thải và nước thải công nghiệp được thải ra lưu vực các con sông mà chưa qua xử lí đúng mức; các loại phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ngấm vào nguồn nước ngầm và nước ao hồ; nước thải sinh hoạt được thải ra từ các khu dân cư ven sông. Ô nhiễm không khí: Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhin xa do bui.. Hàng năm con người khai thác và sử dụng hàng tỉ tấn than đá, dầu mỏ, khí đốt, đồng thời cũng thải vào môi trường một khối lượng lớn các chất thải khác nhau như: chất thải sinh hoạt, chất thải từ các nhà máy và xí nghiệp làm cho hàm lượng các loại khí độc hại tăng lên nhanh chóng. Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn là tập hợp những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, sắp xếp không có trật tự, gây cảm giác khó chịu cho người nghe, ảnh hưởng đến quá trình làm việc và nghỉ ngơi của cong người. Hay là những âm thanh phát ra không đúng lúc, không đúng nơi, âm thanh phát ra với cường độ quá lớn, vượt quá mức chịu đựng của con người. (Theo luật bảo vệ môi trường nước CHXHCN khóa IX, kì họp thứ 4 từ ngày 6-30/12/1993) • Khái niệm sức khỏe: Trạng thái hoàn toàn khỏe mạnh về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật (WHO, Hiến chương Ottawa, 1974). Sức khỏe của con người không chỉ phụ thuộc vào yếu tố sinh học mà còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố tâm lý, xã hội khác.cho dùng thuốc. Quan điểm của y học lâm sàng: cá nhân bị bệnh/ốm là do bị nhiễmkhuẩn hoặc nhiễm vi rút. Quan điểm của xã hội học sức khỏe: chỉ bị nhiễm vi khuẩn hoặc vi rút thì chưa đủ điều kiện phát triển thành bệnh (được khẳng định qua nghiên cứu về bệnh lao phổi). Quan điểm chủ chốt của các nhà xã hội học sức khỏe là chính các đặc điểm xã hội của cá nhân mới là yếu tố quyết định sức khỏe của họ. Khi gặp một người bệnh, các nhà xã hội học quan tâm đến nhóm xã hội mà cá nhân đó là thành viên và các điều kiện trong nhóm. Đối với các nhà xã hội học, yếu tố làm cho cá nhân bị bệnh hay bị tử vong không chỉ được giải thích đơn giản bằng đặc điểm về tính cách hay về sinh học. Chương 2: Kết quả nghiên cứu 1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu 1.1. Vài nét chung về địa bàn nghiên cứu Huyện Quốc Oai thuộc đại phận tỉnh Hà Tây cũ (nay là Hà Nội) nằm cách trung tâm thành phố Hà Nôi khoảng 20km về phía Tây. Huyện bao gồm có 1 thị trấn và 20 xã: Phú Mãn, Phú Cát, Hoà Thạch, Tuyết Nghĩa, Đông Yên, Liệp Tuyết, Ngọc Liệp, Ngọc Mỹ, Cấn Hữu, Nghĩa Hương, Thạch Thán, Đồng Quang, Sài Sơn, Yên Sơn, Phượng Cách, Tân Phú, Đại Thành, Tân Hoà, Cộng Hoà, Đông Xuân. Với tổng diện tích 147km2, dân số là 163.355 người, mật độ dân số là 1111 người /km2(1/4/2009). Với vị trí gần thủ đô, cộng với một nguồn tài nguyên đá vôi tương đối lớn, Huyện Quốc Oai đã là nơi được chọn xây dựng nhà máy xi măng thứ 2 của nước ta (11/1958, chỉ sau nhà máy xi măng Hải Phòng). Nhà máy được đạt trên địa bàn thôn Khánh Tân, xã Sài Sơn thuộc huyện Quốc Oai. Xã sài Sơn là một trong những xã có diện tích và dân số lớn nhất trong huyện, Xã bao gồm 06 thôn: Đa Phúc, Thụy Khuê, Khánh Tân, Sài Khê, Phúc Đức và Năm Trại. Tuy là một xã có nguồn tài nguyên đá vôi dồi dàovới hàng chục núi đá vôi, nhưng đất đai ở vùng vẫn tương đối bằng phẳng với diện tích đất nông nghiệp khá lớn. Một thế mạnh nữa là về du lịch, tại xã có nhiều ngôi chùa cổ, đặc biệt là Chùa Thầy, thắng cảnh nổi tiếng đã được công nhận là Thắng cảnh quốc gia. Với nguồn lực trên, cơ cấu kinh tế của xã chủ yếu dựa vào nông nghiệp và dịch vụ du lịch. Công nghiệp của xã gần như không phát triển, ngoại trừ khu tổ hợp nhà máy sản xuất xi măng Sài Sơn được xây dựng từ năm 1958. Thôn Khánh Tân (là nơi được chọn để xây dựng nhà máy xi măng năm 1958) bao gồm hơn 300 hộ với trên 1000 nhân khẩu. Sự phân bố dân cư trong thôn theo hướng mô hình tập trung, tức là toàn bộ dân cư cùng tập trung tại một vùng. Đa phần người dân trong thôn gắn bó với nghề trồng lúa và hoa màu. Một bộ phận nhỏ được nhận vào làm công nhân trong nhà máy xi măng. Thôn Sài Khê, là thôn sát với thôn Khánh Tân, với dân số khoảng 1200 người. Tương tự với thôn Khánh Tân, do Sài Khê chỉ cách nhà máy xi măng khoảng 700m nên cũng là thôn phải chịu nhiều ảnh hưởng từ nhà máy xi măng (chủ yếu là khói bụi và tiếng ồn). Tuy nhiên, người dân thôn này không nhận được sự ưu tiên trong việc xin vào làm công nhân trong nhà máy xi măng, nên phần lớn người dân gắn bó với nghề làm ruộng, 1 bộ phận làm dịch vụ và đi làm xa nhà. Tóm lại, đây là hai thôn phải chịu những tác động nhiều nhất từ ảnh hưởng của nhà máy xi măng Sài Sơn. Ngoài ra còng một số thôn cũng chịu nhiều ảnh hưởng khác là: thôn Thụy Khuê, thôn Đa Phúc và năm Trại, nhưng mức độ nhẹ hơn nhiều. Nhà máy xi măng Sài Sơn Công ty Cổ phần Xi măng Sài Sơn tiền thân là Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được thành lập từ ngày 28/11/1958 dưới sự quản lý của Tổng cục Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là cơ sở sản xuất xi măng lò đứng đầu tiên của Việt Nam và là cơ sở sản xuất xi măng thứ hai của Việt Nam sau xi măng Hải Phòng. Năm 1964, Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được chuyển sang khối kinh tế được sự quản lý của Ty Kiến trúc tỉnh. Tháng 12/1996, Xí nghiệp Xi măng Sài Sơn được đổi tên thành Công ty Xi măng Sài Sơn. Tháng 11/1998, Công ty Xi măng Sài Sơn đã đầu tư xong dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng cơ giới hoá của Trung Quốc với công suất thiết kế 60.000 tấn xi măng/năm tại xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũ. Ngay từ năm đầu tiên vận hành dây chuyền sản xuất mới, Công ty đã đạt được 70.000 tấn/năm vượt công suất thiết kế. Cùng với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, chất lượng sản phẩm được ổn định và nâng cao, có uy tín trên thị trường và được người sử dụng tin dùng, nhu cầu đối với sản phẩm của Công ty ngày một tăng. Từ năm 2002 - 2003, Công ty đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất đồng bộ, nâng tổng công suất thiết kế của hai dây chuyền lên 120.000 tấn/năm. Tổng vốn đầu tư của dây chuyền thứ hai bằng 1/3 vốn đầu tư dây chuyền thứ nhất. Do đó, chi phí quản lý doanh nghiệp, quản lý phân xưởng và chi phí nhân công/tấn sản phẩm giảm so với dây chuyền thứ nhất, ví dụ tiêu hao điện/tấn sản phẩm giảm 25% dẫn đến giá thành sản phẩm giảm. Năm 2005, Công ty sản xuất và tiêu thụ 205.000 tấn. Tháng 4/2006, Công ty đã thuê trạm nghiền công suất 150.000 tấn/năm ở Xuân Mai – Chương Mỹ – Hà Tây và thành lập Chi nhánh Chương Mỹ. Chi nhánh sản xuất xi măng hiệu  Xi măng Sài Sơn PCB 30 và Xi măng Nam Sơn PCB 40. Năm 2006, Công ty sản xuất và tiêu thụ 257.000 tấn xi măng. Năm 2007, Công ty dự kiến sản xuất và tiêu thụ trên 300.000 tấn xi măng các loại cung cấp chủ yếu cho thị trường Hà Tây, Hà Nội và các vùng lân cận. Để nâng cao năng lực sản xuẩt, Công ty đã quyết định đầu tư xây dựng nhà máy xi măng Nam Sơn công suất 1.000 tấn clinker/ngày tại xã Nam Phương Tiến – Huyện Chương Mỹ – Tỉnh Hà Tây. Dự án đã được UBND tỉnh Hà Tây cấp giấy chứng nhận đầu tư số 02121000002 ngày 15/11/2006. Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây đã giao 163.156 m2 đất tại xã Nam Phương Tiến cho công ty để thực hiện dự án theo quyết định số 11/QĐ-UBND ngày 3/1/2007. Hiện nay dự án đã hoàn thành khâu san lấp mặt bằng, xây tường bao và đang tiến hành tổ chức đấu thầu EPC xây dựng nhà máy. Ngày 13/11/2003, UBND tỉnh Hà tây có Quyết định số 2368 QĐ/UB về việc phê duyệt phương án cổ phần hoá và chuyển Công ty Xi măng Sài Sơn thành Công ty CP Xi măng Sài Sơn.  Công ty cổ phần Xi măng Sài Sơn đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 25/12/2003 và đăng ký thay đổi lần thứ nhất ngày 08/03/2007. 2.. Kết quả nghiên cứu 2. 1 Thực trạng ảnh hưởng của nhà máy xi măng Sài Sơn tới môi trường Do sử dụng công nghệ lò đứng trong sản xuất xi măng (nay đã lạc hậu) nên trong quá trình hoạt động không bảo đảm về vệ sinh môi trường. Đặc biệt, từ những năm 1996 - 1997 cho tới nay, tình trạng ô nhiễm khói bụi do Nhà máy xi măng Sài Sơn gây ra ngày càng nặng. Vào những ngày gặp hướng gió chính thổi qua, làn khói, bụi màu trắng từ các ống khói của Công ty CP Xi măng Sài Sơn tràn xuống bao phủ cả khu dân cư tạo nên màn sương mù dày đặc. Cây cối, nhà cửa ở đây đều được phủ một lớp bụi trắng ám lại lâu ngày. Kể cả khi các hộ gia đình đã che chắn cửa kỹ càng thì những hạt bụi mịn và nhỏ vẫn len lỏi vào từng nhà, phủ trắng nền nhà và tất cả đồ đạc kèm theo mùi khói hăng hắc, khét lẹt. Hàng chục năm qua, các hộ dân thuộc các thôn Khánh Tân, Thụy Khuê, Đa Phúc, Năm Trại của xã Sài Sơn hiếm có một ngày yên ổn vì phải sống chung với bụi khói phả ra từ Nhà máy xi măng Sài Sơn, kéo theo nhiều nỗi lo về sức khỏe và môi trường. Trong đó, chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ hoạt động của nhà máy xi măng là 2 thôn Khánh Tân và Sài Khê. Người dân ở 2 thôn này quanh năm ngày tháng phải sống chung với khói, bụi nên bị ảnh hưởng sức khỏe rất nhiều do bị các bệnh về mắt, đường hô hấp, tiêu hóa. Dù có bịt hết cửa lại cho đỡ bụi thì vẫn không chắn được tiếng ồn rất khó chịu do nhà máy gây ra. Được biết, những năm qua, lãnh đạo công ty đã có nhiều biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng đến các hộ dân xung quanh, như xây dựng ống khói cao lên, cải tạo hệ thống xử lý nước thải nhưng chưa hiệu quả và triệt để. Thực tế cho thấy, ngoài hàng trăm hộ dân ở thôn Khánh Tân đang trực tiếp bị khói, bụi xi măng "bủa vây", hàng trăm hộ dân khác ở các thôn Đa Phúc, Năm Trại… của xã cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Theo kết quả thu được từ 100 mẫu tại 2 thôn Khánh Tân và Sài Khê về hoạt động của nhà máy xi măng, ta thu được kết quả sau: Bảng 1: Đánh giá của người dân về các hoạt động của nhà máy xi măng ảnh hưởng tới môi trường (100 mẫu) Hoạt động Số người lựa chọn Tỉ lệ (%) Xả khói bụi 90 90 Gây tiếng ồn 83 83 Xả nước thải 63 63 Hoạt động khác 03 03 Bảng 2: Tần suất hoạt động của nhà máy xi măng . Hoạt động Số người lựa chọn Tỉ lệ (%) Cả ngày đêm 89 89 Chỉ làm ca ngày 3 3 ½ ngày 8 8 Khác 00 00 Tổng 100 100 Dựa trên bảng số liệu có thể thấy mức độ ảnh hưởng đến môi trường từ các hoạt động từ nhà máy xi măng là rất lớn. Trong tổng số 100 người được hỏi, có tới 100%, tức tất cả họ đều cho rằng, hoạt động của nhà máy xi măng có những ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của họ. Xét trên từng biểu hiện cụ thể, mỗi biểu hiện có mức ảnh hưởng nhiều hay ít khác nhau, cụ thể: Xả ra khói bụi là biểu hiện được nhiều người lựa chọn nhất (100%), với tỉ lệ tuyệt đối như vậy, nhà máy lại nằm trong vùng dân cư đông đúc, hẳn chúng ta đã thấy được mức độ ảnh hưởng rất lớn từ hoạt động của nhà máy xi măng đến môi trường. Cùng với khói bụi, tiếng ồn (83% người lựa chọn) và nước thải (63%) là các yếu tố có ảnh hưởng to lớn đến môi trường sống của người dân. Mặt khác, cùng với những yếu tố trên, thì tần suất hoạt động của nhà máy đã góp phần làm mức độ ảnh hưởng đến nhà máy trở nên nặng nề hơn. Trong 100 người được hỏi, có đến 89% người được chọn cho rằng: “nhà máy hoạt động suốt ngày đêm”. Khi được hỏi về thời gian hoạt động của nhà máy xi măng, một người dân trả lời rằng: “Nhà tôi ở gần, con lại là công nhân nhà máy nên tôi khẳng định với anh rằng, nhà máy làm việc cả ngày lẫn đêm. Con trai cả tôi làm ca đêm, còn thằng út làm ca ngày, nếu chia ca như vậy thì chắc chắn là hoạt động cả ngày đêm rồi…” (Nguyễn Văn Tám 60 tuổi – thôn Khánh Tân) Với công suất hoạt động như vậy, cộng với tuổi đời trên 50 năm hoạt động và sán xuất tại đây, có thể thấy được những ảnh hưởng của nhà máy xi măng này đến đời sống của người dân lớn đến như thế nào. Từ kết quả thu thập được khi tìm hiểu về các biểu hiện của sự ảnh hưởng do nhà máy xi măng gây ra, có được bảng sau: Bảng 3: Đánh giá của người dân về những ảnh hưởng đến môi trường do hoạt động của nhà máy xi măng Ảnh hưởng Số người lựa chọn Tỉ lệ (%) Gây ô nhiễm môi trường 94 94 Làm xấu cảnh quan 68 68 Khó khăn trong giao thông, đi lại 46 46 Tác động xấu tới sức khỏe 73 73 Khác 13 13 Từ kết quả trên cho thấy, môi trường sống của người dân trong vùng phải chịu những ảnh hưởng tầm trọng từ hoạt động của nhà máy xi măng. 94% người được hỏi cho rằng: hoạt động của nhà máy xi măng khiến môi trường bị ô nhiễm, 73% cho rằng hoạt động của nhà máy xi măng gây nên hoặc làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tật của họ. Tiếp theo là những ảnh hưởng đến cảnh quan (68%), tiếp theo là “gây khó khăn trong đi lại” 46%. Các số liệu trên đã cho thấy những ảnh hưởng của nhà máy xi măng là như thế nào, trong đó, “khói bụi” chính là nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả nhất. Đây cũng là yếu tố có phạm vi ảnh hưởng rộng, do dễ phát tán và bị các yếu tố tự nhiên tác động đến như gió, mưa. Hơn nữa, khói bụi cũng là yếu tố góp mặt ở mọi biểu hiện ảnh hưởng đến môi trường. Trong khi đó, mức độ ảnh hưởng trong giao thông, đi lại mặc dù được khá nhiều người lựa chọn, nhưng mức ảnh hưởng lại chỉ đứng thứ ba. Điều này gắn với vị trí nhà dân và tầm ảnh hưởng của nhà máy, khi người dân ở gần nhà máy, mức độ ảnh hưởng nặng nề hơn, nên họ thường phải đối mặt với nhiều hình thức ảnh hưởng khác nhau. Ảnh hưởng của hoạt việc xả thải của nhà máy xi măng đến môi trường sống.: Với 100% người lựa chon cho rằng, “hoạt động của nhà máy xi măng ảnh hưởng đến môi trường sống của họ” đã mô tả hình ảnh môi trường sống của một vùng quê chịu nhiều ảnh hưởng từ hoạt động công nghiệp nặng. Việc đánh giá những tác động đến môi trường sống muốn được làm rõ cần được phân tích sâu vào các khía cạnh của vấn đề. Theo định nghĩa, môi trường sống bao gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Để phân tích cụ thể được vấn đề đặt ra, cần phải làm rõ được mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến từng thành phần của môi trường. 2.2.1: Ô nhiễm môi trường tự nhiên Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hoá học, sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động của con người. Trên phương diện những tác động có thể đến từ hoạt động của nhà máy xi măng, kết quả nghiên cứu đã thống kê được các dạng ô nhiễm môi trường tự nhiên do ảnh hưởng của nhà máy xi măng như sau: Bảng 4: Đánh giá của người dân về thực trạng ô nhiễm môi trường tự nhiên ở địa phương Tình trạng Số người lựa chọn Tỉ lệ (%) Ô nhiễm nguồn nước 79 79 Ô nhiễm không khí 90 90 Ô nhiễm âm thanh 74 74 Ô nhiễm đất 31 31 Từ kết quả trên cho thấy, không khí là yếu tố chịu nhiều ảnh hưởng nhất từ hoạt động của nhà máy xi măng với 90% số người được hỏi cho rằng: môi trường của họ đang bị ô nhiễm. Các ảnh hưởng tiếp theo lần lượt là ô nhiễm môi trường nước (70%), ô nhiễm âm thanh do tiếng ồn (74%) và ô nhiễm đất là 31%. Sở dĩ ô nhiễm đất ít chịu ảnh hưởng hơn các yếu tố khác là do đất đai thường chỉ bị ô nhiễm ở khu vực sát với nhà máy, do chất thải rắn, nước và khí thải có nồng độ ô nhiễm cao hơn. Đánh giá vấn đề ô nhiễm môi trường, khi quan sát, có thễ dễ dàng nhận ra các biểu hiện của vấn đề này bằng mắt thường. Chỉ cần tìm một vị trí quan sát tốt, ai cũng có thể nhìn thấy những quầng khói, những mái nhà, cây cối đầy bụi, hay nguồn nước đặc quánh và mùi clinker nồng nặc. Để khách quan hơn, dựa trên kết quả thu được từ quá trình nghiên cứu, có biểu đồ sau: Biểu đồ: biểu đồ thể hiện mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến môi trường qua ý kiến người dân. Thông qua biểu đồ, có thể thấy rõ, nguyên nhân chủ yếu gây ô nhiễm môi trường khói bụi (94%) tiếp theo là nước thải (56%). Tiếng ồn 51%, mùi hôi thối 43 % và cuối cùng là các nguyên nhân khác, bao gồm sỉ than, vật liệu rơi… chiếm 3%. Để làm rõ và phân tích cụ thể được vấn đề đặt ra, cần phải làm rõ được mức độ ảnh hưởng của nhà máy xi măng đến từng thành phần của ô nhiễm môi trường. Ô nhiếm môi trường không khí: Với sự ảnh hưởng rất lớn từ khói bụi, cùng với các yếu tố khác, môi trường không khí trong vùng được người đánh giá là rất trầm trọng. Từ bảng 4 ta có thể thấy 90% là tỉ lệ người lựa chọn cho rằng, không khí trong vùng họ sinh sống đang bị ô nhiễm trầm trọng. Một thực tế là, nếu chỉ cần đứng ở một vị trí không bị khuất tầm nhìn, thì dù đứng cách khu vực này cả chục km, vẫn có thể nhìn thấy những cột khói, cùng một khoảng trắng bởi khói xi măng bao trùm. Nếu đến sát với địa bàn, có thể thấy được một loại mùi hắc hắc trộn lẫn với mùi Clinker tuy không nặng mùi nhưng gây ra cảm giác rất khó chịu. Ngoài hiện tượng có thể dễ dàng quan sát đó, còn có những hiện tượng khác, nhưng phải qua những khoảng thời gian nhất định mới có thể nhận ra được. Một trong những hiện tượng đó chính là sự ngột ngạt khi trời oi nóng, hay hiện tượng khói không tan do trời lặng gió, khi không khí có độ ảm cao. Khi được hỏi về mức độ ảnh hưởng do ô nhiễm không khí, bác Hoa chia sẻ: Bác kể: “Tính đến nay nhà tôi đã có... ba đời sống chung với cái nhà máy bụi này. Quanh năm suốt tháng, hầu như ngày nào khói cũng toả mù trời. Nhất là mùa đông, nhiều lúc giữa trưa mà có cảm tưởng như buổi sáng sớm bởi khói phủ trắng như sương. Nhà tôi đóng cửa suốt ngày. Bọn trẻ không đứa nào dám ở nhà vào ban ngày. Đêm đến thì ngột ngạt không sao chịu nổi. Khổ lắm anh à. (nữ, 63 tuổi, thôn Khánh Tân)) Mặt khác, khi được hỏi về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến môi trường sống, thu được kết quả sau: Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đến đời sống. Qua biểu đồ trên cho thấy, có đến 100% người dân cho rằng, ô nhiễm không khí có ảnh hưởng đến cuộc sống của họ nhưng với những mức độ khác nhau. Trong đó, tỉ lệ lựa chọn câu trả lời là ảnh hưởng rất nhiều lớn nhất với 63%, tiếp theo là ảnh hưởng nhiều với 31 %. 6% là tỉ lệ cho rằng ô nhiễm không khí chỉ ảnh hưởng ít, nhóm này chủ yếu tập trung vào những gia đình nằm xa nhà máy xi măng nhất. Một người dân được hỏi về tình trạng ô nhiễm không khí ở địa phương trả lời: Hàng ngày mỗi khi ra khỏi nhà là mọi người phải dùng đến khẩu trang. Khi nhà máy hoạt động, khói bụi tràn xuống, không khí nơi đây mù mịt và âm u hẳn đi. Có khi hai người đứng cách xa 12 - 15m không thể nhìn thấy nhau". (Nữ, 36 tuổi, thôn Khánh Tân) Hay: “Mới tháng trước tôi vừa quét dọn trên này. Chỗ bụi này là mới hình thành. Cứ 3 tuần đến 1 tháng là tôi phải tôi phải quét dọn 1 lần". (Nam. 58 tuổi, người làng Khánh Tân) Những câu trả lời của người dân một lần nữa cho thấy rõ hơn tình trạng ô nhiễm môi trường tại địa phương.Điều đó đã góp phần minh chứng cho sự ô nhiễm không khí nơi đây. Tóm lại, với việc xả khí thải, nước thải cùng với khói bụi từ các phương tiện cơ giới làm việc trong nhà máy đã khiến bầu không khí nơi đây trở nên ô nhiễm trầm trọng. Ô nhiễm môi trường nước Nhiều đời nay, người dân tại xã Sài Sơn đã quen sử dụng nước mưa cho sinh hoạt, ăn uống. Nguồn nước ngọt đồng thời cũng là yếu tố quan trọng trong công tác sản xuất, do đa số người dân trong vùng gắn bó với nông nghiệp. Tuy nhiên, tác động của nhà máy xi măng đã khiến cho nguồn nước nơi đây bị ô nhiễm, đặc biệt là đối với các khu dân cư nằm sát với nhà máy xi măng. Mỗi khi mưa, phải đợi ít nhất là nửa giờ đồng hồ, chúng tôi mới dám bắc ống hứng nước mưa vào bể để sử dụng. Đồng thời tôi còn phải làm hệ thống bể lọc nữa. Chứ cứ để vậy mà ăn thì sợ bệnh lắm. Làng này từ trước đến nay ối người ung thư đấy…”(nam 55tuổi, thôn Khánh Tân) Một người dân khi được hỏi về tình hình ô nhiễm nguồn nước ở địa phương trả lời. Hay: Cháu nhìn cái ao trước mắt mà xem, xung quanh nhà máy còn mấy cái nữa đấy, từng đám cặn bẩn vón cục, nổi lều phều trên mặt nước, người dân cũng không còn dám thò chân, tay xuống rửa. Đấy là chưa kể đến mùa hè nóng bức, mùi hôi, mùi Clinker nồng nặc, khó chịu lắm cháu à. (nữ 54 tuổi, thôn Khánh Tân) Việc tồn tại một nhà máy xi măng giữa khu dân cư mà không đảm bảo điều kiện vệ sinh môi trường như hiện nay quả là vấn đề cấp bách. Nguồn nước luôn là yếu tố có vai trò quan trọng trong đời sống của người dân, do vậy, khi nguồn nước bị ô nhiễm, cuộc sống của người dân chắc chắn sẽ phải chịu những ảnh hưởng tiêu cực. Dựa trên những đánh giá của người dân, có biểu đồ sau: Biểu đồ thể hiện cơ cấu đánh giá của người dân về mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước đến đời sống. Từ biểu đồ trên cho thấy, mức độ ảnh hưởng của ô nhiễm nguồn nước đến môi trường sống của người dân là rất lớn. Tổng cộng có đến 84% số người trả lời nhận định rằng, nguồn nước bị ô nhiễm ảnh hưởng đến cuộc sống của họ. 16% còn lại cho rằng nguồn nước của họ không bị ảnh hưởng do nhà họ cách khá xa nhà máy. Trong số % chịu ảnh hưởng trên, cũng có những mức độ khác nhau. Đáng báo động là phương án :ảnh hưởng rất nhiều và nhiều” lại là những đánh giá được chọn nhiều nhất (39% và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTác động của khói bụi công nghiệp đến môi trường sống của người dân (nghiên cứu cụ thể tại HN).doc
Tài liệu liên quan