MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ LẠM PHÁT VÀ 2
ẢNH HƯỞNG CỦA LẠM PHÁT ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ. 2
1- Nhận thức chung về lạm phát và các quan điểm về lạm phát: 2
a- Trường phái của Karl Marx: 2
b- Trường phái kinh tế học thị trường : 2
c. Phái tiền tệ. 3
d. Quan điểm của phái Keynes: 4
2. Các nguyên nhân của lạm phát: 5
a. Lạm phát cầu kéo: 5
b. Lạm phát chi phí đẩy: 7
c. Lạm phát do thâm hụt Ngân sách: 8
3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế. 8
PHẦN II. LẠM PHÁT VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỰC TIỄN KINH TẾ Ở VIỆT NAM 11
1. Lạm phát và trăng trưởng kinh tế trong những năm qua. 11
2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với tăng trưởng kinh tế: 12
a. Thực trạng vấn đề giảm phát: 12
b. Nguyên nhân giảm phát. 13
c. Các giải pháp “kích cầu” và hiệu quả áp dụng: 14
PHẦN III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP. 17
I. Những giải pháp chung để kiểm soát lạm phát, ổn định tăng trưởng kinh tế trong những năm sắp tới: 17
1. Nhóm những giải pháp cấp bách: 17
a. Về tiền tệ tín dụng: 17
b. Về ngân sách Nhà nước. 17
2. Nhóm những giải pháp cơ bản và lâu dài có liên quan đến việc đổi mới các chính sách kinh tế và công tác điều hành phù hợp với cơ chế thị trường. 18
a. Về cơ chế chung của nền kinh tế: 18
b. Về doanh nghiệp nhà nước: 18
c. Về ngân sách nhà nước: 18
d. Việc chính sách tiền tệ và tín dụng: 18
e. Cơ chế xuất nhập khẩu và thuế quan: 19
II. Giải pháp khắc phục giảm lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời điểm hiện nay: 19
KẾT LUẬN 21
22 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam. Một số giải pháp kiểm soát lạm phát để đảm bảo tăng trưởng trong thời gian sắp tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ế lại sẽ tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên 6% nhưng ở mức giá cả P2 cao hơn. Do thất nghiệp lại cao hơn mức chỉ tiêu, các nhà hoạch định chính sách sẽ di chuyển đường tổng cầu đến AD3 để đạt chỉ tiêu sản phẩm đến điểm 2’, toàn bộ quá trính ẽ tiếp tục đẩy nền kinh tế đến điểm 3 và xa hơn. Kết quả là mức giá cả tăng đều dần và lạm phát. Các nhà hoạch định chính sách không thể tiếp tục di chuyển đường tổng cầu thông qua chính sách tài chính do những giới hạn trong việc chi tiêu của chính phủ và giảm thuế. Do đó họ phải áp dụng chính sách tiền tệ bành trướng, do đó gây nên tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao.
Như vậy theo đuổi một chỉ tiêu sản phẩm quá cao hay tương đương là một tỷ lệ thất nghiệp quá thấp là nguồn gốc sinh ra chính sách tiền tệ lạm phát.
b. Lạm phát chi phí đẩy:
Ngay cả khi sản lượng chưa đạt mức tiềm năng nhưng vẫn có thể xảy ra lạm phất ở nhiều nước, kể cả ở những nước phát triển cao. Đó là một đặc điểm của lạm phát hiện tại. Kiểu lạm phát này gọi là lạm phát chi phí đẩy, vừa lạm phát vừa suy giảm sản lượng, tăng thêm thất nghiệp nên cũng gọi là “lạm phát đình trệ”.
Các cơn sốc giá cả của thị trường đầu vào, đặc biệt là các vật tư cơ bản: xăng, dầu, điện... là nguyên nhân chủ yếu đẩy chi phí lên cao, đường AS dịch chuyển lên trên. Tuy tổng cầu không thay đổi nhưng giá cả lại tăng lên và sản lượng giảm xuống. Giá cả sản phẩm trung gian (vật tư) tăng đột biến thường do các nguyên nhân như thiên tại, chiến tranh, biến động chính trị kinh tế...
Lạm phát chi phí cũng có thể là kết quả của chính sách ổn định năng động nhằm thúc đẩy một mức công ăn việc làm cao. Nó xảy ra do những cú sốc cung tiêu cực hoặc do việc các công nhân đòi tăng lương cao hơn gây nên.
Tổng mức giá cả
Tổng sản phẩm Y
AS1
AS2
AS3
AS4
AD4
AD3
AD2
AD1
4
3
2
1
P1
P2
P3
P4
2’
3’
1’
Yn
Y’
Lúc đầu nền kinh tế ở tại điểm 1. Giả định công nhân đòi tăng lương do họ muốn tăng lương thực tế hoặc do họ dự đoán lạm phát sẽ lên cao nên đòi tăng lương để khớp với mức lạm phát. Ảnh hưởng của việc tăng đó tương tự như một cú sốc cung tiêu cực làm đường tổng cung di chuyển vào đến AS2. Nếu chính sách tài chính, tiền tệ không thay đổi thì nền kinh tế chuyển tới điểm 1’ sản phẩm sẽ giảm xuống dưới mức tỷ lệ tự nhiên trong khi giá cả tăng lên. Khi đó do sản phẩm giảm, thất nghiệp tăng, các nhà hoạch định chính sách sẽ thức hiện chính sách nhằm tăng đường tổng cầu đến AD2, quay trở lại mức tỷ lệ tự nhiên của sản phẩm tại điểm 2 và mức giá cả P2. Nếu việc tăng lương lại tiếp tục thì đường tổng cung lại di chuyển vào đến AS3, thất nghiệp lại phát triển khi chuyển đến điểm 2’, các chính sách năng động lại được sử dụng để di chuyển đường tổng cầu đến AD3 và đưa nền kinh tế trở lại tình hình công ăn việc làm đầy đủ với mức giá cả P3. Nếu quá trình này tiếp tục thì kết quả sẽ là việc tăng liên tục của mức giá cả, nghĩa là gây lạm phát. Nếu lạm phát cầu kéo đi liền với thời kỳ mà thất nghiệp thấp hơn mức tỷ lệ tự nhiên thì lạm phát chi phí đấy lại lại đi liền với những thời kỳ mà thất nghiệp cao hơn mức tỷ lệ tự nhiên. Khi lạm phát cầu kéo gây nên tỷ lệ lạm phát cao hơn thì lạm phát dự tính cuối cùng sẽ tăng lên làm cho công nhân đòi tăng lương, nên tiền lương thực tế của họ không giảm xuống. Vì vậy cuối cùng lạm phát cầu kéo có thể gây nên lạm phát phí đẩy.
c. Lạm phát do thâm hụt Ngân sách:
Chính phủ có thể trang trải thâm hụt ngân sách bằng cách bán trái phiếu cho công chúng hoặc tạo ra tiền tệ (hay in tiền). Bán trái phiếu cho công chúng không có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ sở tiền tệ và do đó đến cung tiền tệ, vì vậy nó sẽ không có ảnh hưởng rõ ràng đến tổng cầu và sẽ không có lạm phát. Ngược lại việc tạo ra tiền tệ có ảnh hưởng đến tổng cầu và có thể gây ra lạm phát. Thâm hụt ngân sách được trang trải bằng in tiền sẽ gây ra lạm phát nếu ngân sách thâm hụt trong một thời kỳ khá dài. Trong thời kỳ đầu nếu thiếu hụt được trang trải bằng tạo ra tiền tệ thì cung tiền tệ sẽ tăng làm đường tổng cầu dịch sang phải và mức giá cả tăng lên. Nếu thâm hụt ngân sách vẫn xảy ra trong thời kỳ sau, cung tiền tệ sẽ lại tăng lên và đường tổng cầu lại di chuyển sang phải làm mức giá cả tăng hơn nữa. Khi thâm hụt còn dai dẳng và chính phủ phải tin tiền để trang trải thâm hụt đó thì quá trình này sẽ tiếp tục và đưa đến lạm phát kéo dài.
Tuy nhiên nếu là thâm hụt tạm thời thì nó sẽ không gây nên lạm phát trong thời kỳ thâm hụt xảy ra, tiền tệ sẽ tăng lên để trang trải thâm hụt. Việc di chuyển ra của đường cầu sẽ làm mức giá cả tăng lên trong thời kỳ sau không còn thâm hụt thì không còn nhu cầu in tiền nữa. Đường tổng cầu sẽ không di chuyển nữa, mức giá cả sẽ không tiếp tục tăng. Như vậy sự tăng lên một đợt trong cung tiền tệ do thâm hụt tạm thời chỉ gây nên sự tăng lên một đợt trong mức giá cả và lạm phát không mở rộng.
Mặc dù kết quả là lạm phát nhưng chính phủ vẫn thường xuyên trang trải thâm hụt dai dẳng bằng tạo thêm tiền. Nếu các nước đang phát triển bị thâm hụt ngân sách, họ không thể trang trải bằng phát hành trái khoán do không có một thị trường vốn phát triển nên phải dùng đến cách in tiền. Kết quả là khi bị thâm hụt nghiêm trọng so với GNP của họ thì cung tiền tệ tăng trưởng với tỷ lệ cao và gây nên lạm phát. Ngược lại ở những nước phát triển đặc biệt là Mỹ do có thị trường chứng khoán nhà nước phát triển tốt nên có thể phát hành nhiều trái khoán để tài trợ thâm hụt.
3. Ảnh hưởng của lạm phát đối với tăng trưởng kinh tế.
Giữa tăng trưởng kinh tế và lam phát thường tồn tại một quan hệ tỷ lệ chế ước lẫn nhau. Lạm phát chỉ có thể ở một mức nhất định mới phù hợp cho tăng trưởng kinh tế. Vì thế kiểm soát lạm phát là một trong nhiều mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô. Về lý thuyết, nếu lạm phát ở mức có thể kiểm soát được thì nền kinh tế có thể tránh được mọi hậu quả xấu. Nếu không sẽ xảy ra những hậu quả như:
- Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng vì nó làm lệch lạc cơ cấu giá cả, kéo theo tài nguyên, nguồn lực không được phân bố hiệu quả, kết cục là tăng trưởng chậm.
- Lạm phát là kẻ thù của tăng trường và đầu tư dài hạn. Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắn mức giá cả trong tương lại, kéo theo không biết lãi suất thực thì không ai dám liều lĩnh đầu tư nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn. Lạm phát sẽ đẩy lãi suất lên cao do chủ nợ muốn có sự đảm bảo cho mức rủi ro lớn. Lãi suất cao kìm hãm đầu tư do đó làm chậm tốc độ tăng trưởng.
- Lạm phát cao khuyến khích mọi người quan tâm đến lợi ích trước mắt.
- Lạm phát cao gây khó khăn trong cân đối thu chi ngân sách nhà nước.
Những nước đã từng trải qua lạm phát cao đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất, toàn bộ hoạt động kinh tế sẽ bị méo mó, biến dạng nghiệm trọng, tâm lý xã hội phức tạp, lãng phí ghê gớm tiềm lực trong sản xuất. Mặt khác từ khi rơi vào lạm phát cao cho đến khi kiểm soát được lạm phát đòi hỏi một phí tổn rất lns cho nền kinh tế.
Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là sự biểu hiện tập trung nhất về các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như: cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, thu chi ngân sách, thanh toán quốc tế... Nếu một trong những cân đối này bị vi phạm sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống cấn đối vĩ mô của nền kinh tế, đến mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Khi đó hoặc:
Một là: lạm phát gia tăng. Hậu quả là đầu tư quá mức, hiệu quả thấp, lãng phí vốn, giá cả tăng, nhu cầu có khả năng thanh toán giảm sút, tốc độ sản xuất chậm lại, thất nghiệp nảy sinh.
Hai là: lạm phát quá thấp (thiểu phát) khi đầu tư trong nước giảm sút, một phần vốn đáng kể di chuyển ra ngoài hoặc rút về tích trữ, sản xuất và lưu thông đình trệ, thất nghiệp gia tăng.
Cả hai trường hợp trên đều ảnh hưởng tiêu cực đến nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Về vấn đề ảnh hưởng của lạm phát đối với vấn đề tăng trưởng kinh tế tồn tại 2 hệ quan điểm cơ bản.
Quan điểm thứ nhất cho sự ổn định về giá cả (lạm phát bị kiềm chế giữ vững ở mức 0%) là nền tảng tốt nhất cho sự tăng trưởng nhanh. Những nhà chính trị và kinh tế theo quan điểm này cho rằng sự ổn định giá trị tiền tệ là vấn đề cần phải bảo vệ và duy trì. Họ đã đưa ra các lý lẽ tác hại của lạm phát đối với toàn bộ nền kinh tế và cho rằng chỉ có sự ổn định như vậy mới thúc đẩy sự tăng trưởng cao và bền vững.
Quan điểm thứ 2 với tư tưởng “lạm phát vừa phải” sẽ có tác dụng khuyến khích sản xuất phát triển với tốc độ cao thông qua lạm phát. Những người theo quan điểm này cho rằng suy thoái kinh tế còn gây hậu quả nghiêm trọng hơn nhiều so với vấn đề lạm phát. Ở một mức độ vừa phải, lạm phát cũng cần cho nền kinh tế để giảm bớt gánh nặng nợ nần và do đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trở lại. Họ lập luận rằng lạm phát vừa phải đóng vai trò như chất bôi trơn, đó là điều lành mạnh giúp kinh tế phát triển. Hơn nữa cái giá phải trả để giảm lạm phát xuống gần số 0 còn lớn hơn cái giá phải trả cho việc chấp nhận một ít lạm phát.
Tuy nhiên một câu hỏi cần đặt ra là các nước có mức lạm phát cao sẽ có sự tăng trường kinh tế nhanh hơn hay chậm hơn so với các nước có mức lạm phát thấp. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong giai đoạn 1955 ¸ 1973 (lạm phát vừa), sự tăng trưởng kinh tế gần như cùng chiều với lạm phát đặc biệt là Nhật Bản. Những giai đoạn sau thì ngược lại, các quốc gia có mức lạm phát thấp có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn. Nhóm các nước có mức lạm phát trung bình dưới 6%/năm thì mức tăng GDP/đầu người trung bình là 2,1%/năm, các nước có lạm phát từ 6 ¸ 10%/năm thì mức tăng trưởng GDP/đầu người là 1,9%, còn những nước có mức lạm phát trên 10%/năm thì mức tăng trưởng GDP/đầu người là dưới 1%.
Trong thực tế cũng có trường hợp:
- Khi kinh tế tăng trưởng cao, nhu cầu tài chính mở rộng kéo theo chỉ số giá tăng. Chỉ số giá ở đây là hệ quả chứ không phải là động lực.
- Khi lạm phát cao buộc phải thu hẹp tín dụng thì lạm phát giảm, mức tăng GDP danh nghĩa có xu hướng chậm lại làm mức tăng GDP danh nghĩa gắn với mức tăng thực tế.
Mặc dù còn nhiều điểm chưa thống nhất nhưng các nhà kinh tế đều thừa nhận sự thành công về sự tăng trưởng nhanh nhất trong giai đoạn dài là việc tạo ra môi trường kinh tế - tài chính ổn định, thuận lợi, trong đó duy trì mức lạm phát trung bình 8%, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 18% ở các nước đang phát triển khác trong 30 năm qua. Thực tế trong mấy thập kỷ qua cho thấy nước nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn tốc độ tăng trưởng thì nền kinh tế không phát triển được, điển hình là Philippin. Ngược lại những nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Malaysia luôn kiểm soát được lạm phát và giữ tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ lạm phát nên đã phát triển nhanh chóng.
PHẦN II. LẠM PHÁT VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TRONG THỰC TIỄN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Lạm phát và trăng trưởng kinh tế trong những năm qua.
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, đó là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi, khống chế ở mức hợp lý. Liên tục từ năm 1988, mọi nỗ lực của chính phủ được tập trung vào kiềm chế, đẩy lùi lạm phát từ mức 3 chữ số xuống còn 1 chữ số. Đây là kết quả của quá trình đổi mới và phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi lạm phát được kéo xuống thì kinh tế vẫn tăng trưởng cao và khá ổn định, bình quân hàng năm tăng 7¸ 8%.
- Năm 1989, khi các cơ sở sản xuất nông nghiệp được phi tập trung hóa và giá nông sản được thả nổi, cùng với tác động của các yếu tố khác, chỉ trong vòng 1 năm Việt Nam đã từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuất khẩu gạo, thu nhập của nông dân tăng lên.
- Công cuộc chống lạm phát và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế đã được tạo điều kiện hết sức thuận lợi qua việc môi trường pháp lý đã từng bước được kiện toàn, đầu tư trong nước và nước ngoài tăng mạnh số doanh nghiệp làm ăn thu lỗ đã giảm hơn, tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế nhà nước không ngừng được nâng cao.
Mức độ phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong năm qua có được là nhờ kinh tế tăng trưởng cao trong khi lạm phát bị đẩy lùi và bị khống chế ở mức hợp lý. Điều này trái ngược hẳn với một số quốc gia khi chống lạm phát thường làm kinh tế suy thoái.
Bên cạnh những thành tựu đạt được cũng nảy sinh nhiều khó khăn mới:
- Lạm phát giảm trong điều kiện nhập siêu vốn nước ngoài (chủ yếu là vay nợ) đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng lên giá so với một số đồng tiền khác, ảnh hưởng bất lợi đến việc khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong khi đó sản xuất trong nước bị chèn ép, cạnh tranh mảnh bời hàng nhập đặc biệt là hàng nhập lậu. Năm 1992 tỷ lệ hàng tích lũy phải nhập lên tới 63,7%, tỷ lệ sản phẩm trung gian dùng trong sản xuất phải nhập lên tới 25%. Cán cân thương mại do đó tiếp tục thâm hụt trong điều kiện đó việc tăng trưởng kinh tế cao hơn sẽ kích thích lạm phát gia tăng, gây khó khăn cho việc duy trì thành quả đạt được. Do đó giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế phải được tiếp tục. Năm 1994, mức lạm phát do quốc hội thông qua là 10% nhưng do một số nguyên nhân khách quan như giá cả thị trường thế giới tăng ảnh hưởng đến trong nước, thiên tai, bội chi ngân sách... đã khiến lạm phát vượt mức dự kiến 14,4%. Phân tích đã chỉ ra rằng năm 1994 lạm phát tăng chủ yếu thuộc về khâu cung ứng hàng hóa, trong đó lương thực chiếm phần quan trọng. Trong một thời gian dài giá lương thực đã đứng mở mức thấp so với giá cả các mặt hàng khác nên gía lương thực tăng lên ở chừng mực nhất định là hợp lý và phản ánh đúng thực tế.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi gắn với nhiều bất ổn nên mức lạm phát có thể vượt quá so với mức dự kiến hàng năm. Mức lạm phát năm 1994 tuy không đạt kế hoạch nhưng có yếu tố có thể chấp nhận được. Nhiều nhà kinh tế cho rằng cần phải xác lập một tỷ lệ nhất định giữa tăng trưởng và lạm phát. Có ý kiến cho rằng phải kiềm chế lạm phát thấp, ổn định giá cả để phát triển kinh tế dù ở nhịp độ thấp nhưng ổn định lâu dài (các nước nhân NICS). Ngược lại có ý kiến lại cho rằng khuyến khích lạm phát mới tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và xuất phát điểm rất thấp so với các nước khác nên để tránh khỏi tụt hậu, kinh tế Việt Nam phải đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm. Muốn vậy, Việt Nam có thể phải duy trì tỷ lệ lạm phát vài năm đầu cao hơn mức tăng trưởng trong nước một chút, kéo dần xuống những năm sau. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là chúng ta thả nổi hoàn toàn lạm phát. Tỷ lệ lạm phát ở mức dự tính hợp lý và có khả năng kiểm soát được để làm cơ sở cho việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ hàng năm nhằm giải quyết cùng lúc 2 mục tiêu là ổn định tiền tệ và đảm bảo tăng trưởng kinh tế cao, liên tục, lâu dài.
2. Vấn đề mới nảy sinh: Giảm phát và ảnh hưởng của nó đối với tăng trưởng kinh tế:
a. Thực trạng vấn đề giảm phát:
Một điều có vẻ không bình thường là trong khi đang là giai đoạn phục hồi của các nền kinh tế bị khủng hoảng nặng ở Châu á thì kinh tế Việt Nam lại đang trên đà đi xuống. Việc đi xuống này rất khó hãm lại và việc đưa nền kinh tế trở lại mức tăng trưởng dù chỉ ở mức trên dưới 6% đã rất khó khăn. Tốc độ tăng GDP 6 tháng đầu năm 1999 chỉ đạt 4,3 % trong khi chỉ số giá giảm liên tục. Mức lạm phát 9 tháng chỉ là 0,2% trong 6 tháng đầu năm 1999, trừ 2 tháng 1 và 2 là hai tháng giáp tết, giá cả diễn biến hợp quy luật, 4 tháng còn lại chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tiếp mang dấu âm. Tình hình 6 tháng cuối năm cũng không khả quan hơn.
Tháng 1: 1,7%, tháng 2: 1,9%; tháng 3: - 0,7%; tháng 4: - 0,6%, tháng 5: - 0,4%, tháng 6: - 0,3%.
Mức lạm phát 6 tháng đầu năm 1999 là 1,6% thấp hơn nhiều cùng kỳ năm 1998 (6%). Giảm phát xuất hiện đã gây thêm khó khăn cho nền kinh tế vốn đang trì trệ. Trong khoảng 7/99, các hoạt động kinh tế chưa có sự chuyển biến tích cực. Chỉ số giá cả tháng 7 tiếp tục giảm 0,4% làm cho tỷ lệ lạm phát 7 tháng đầu năm 1999 chỉ ở mức 1,2%.
Trong 10 nhóm hàng hóa hình thành CPI thì giá hầu hết các mặt hàng đều giảm, giảm mạnh nhất là lương thực. Đây là nguyên nhân cơ bản làm giảm mức thu nhập bằng tiền do đó làm giảm sức mua của 76,5% dân số là nông dân là 1 trong những nguyên nhân gây giảm phát.
Đối với một nền kinh tế có hiện tượng giảm phát, điều dễ nhận thấy là tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất gồm sản xuất - phân phối - trao đổi, tiêu dùng đều ở trạng thái trì trệ. Các doanh nghiệp chỉ sản xuất cầm chừng, sản phẩm làm ra ứ đọng, sức cạnh tranh trên thị trường yếu ớt, hoạt động xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Nhiều nước trong khu vực phá giá đồng tiền tung ra thị trường khối lượng lớn hàng hóa rẻ gây cạnh tranh gay gắt về giá và chất lượng với hàng sản xuất trong nước. Trong nội địa sức mua xã hội dường như bão hòa trong khi tại các cửa khẩu biên giới hàng lậu được tuôn vào tràn lan với giả rẻ.
Giảm phát sẽ gây ra nguy hại cho nền kinh tế nếu nguyên nhân do mức cầu giảm năng lực sản xuất dư thừa và mức cung ứng tiền thu hẹp. Khi ấy giảm phát sẽ gây ra những tác hại to lớn. Người tiêu dùng sẽ trì hoãn việc mua hàng với hy vọng giá ngày mai sẽ thấp hơn giá hôm nay. Tâm lý này sẽ làm giảm mức cầu xã hội buộc các nhà sản xuất phải liên tục giảm giá hàng. Nếu kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ phải ngừng sản xuất hoặc sập tiệm. Giá hàng hạ làm tăng mức dư nợ thực tế của các doanh nghiệp không trả được nợ ngân hàng kéo ngân hàng đến bờ phá sản. Nó còn làm các khoản thu ngân sách giảm sút, kìm hãm tốc độ trăng trưởng kinh tế. Nguy hại hơn là giảm phát có thể vô hiệu quá chính sách lãi suất một công cụ quan trọng để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia.
b. Nguyên nhân giảm phát.
Giảm phát là hiện tượng thị trường bị chi phối bởi hai yếu tố cung và cầu. Thực chất của nó trong trường hợp Việt Nam tại thời điểm năm 1999 là tình trạng cung ngày càng vượt xa cầu.
* Các nguyên nhân về phía cung:
Trước hết cần khẳng định rẳng không hề có sự dư thừa cung nói chung mà chỉ là sự dư thừa cung trong cơ cấu. Tình trạng ứ đọng sản phẩm sản xuất cầm chừng không xảy ra đối với toàn bộ nền kinh tế, với tất cả các ngnàh, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi khu vực mà chỉ xảy ra cho một số sản phẩm, một số ngành hẹp và tập trung vào một số doanh nghiệp thuộc một vài khu vực nhất định. Khi bị đẩy tới mức nghiêm trọng thì hiệu ứng của nó lan tỏa sang toàn bộ nền kinh tế khi đó nó gaay ra cảm giác dư thừa cung toàn bộ. Cụ thể nhiều sản phẩm bị tồn kho nhiều nhât chính là những ngành được ưu tiên phát triển trong những năm gần đây như xi măng, đường, thép, gạch ốp lát. Những ngành sản phẩm bắt đầu bị ứ đọng từ năm 1988 thì sang 1999 duy trì mức tăng trưởng thuộc loaị cao nhất, làm cho cung cầu thị trường đối với chúng trở nên gay gắt hơn. Hầu hết những doanh nghiệp chịu hậu quả nặng nền nhất thuộc khu vực kinh tế nhà nước. HIện tượng “thừa cung” trong lĩnh vực dịch vụ là hậu quả trực tiếp của tình trạng “thiếu cầu” do mức thu nhập dân cư trong nước giảm và do tác động của khủng hoảng. Như vậy nguyên nhân ách tắc thị trường năm 1999 là do sự mất cân đối mang tính cơ cấu, chiến lược đầu tư không phù hợp, phản ứng chính sách chưa kịp thời vẫn tiếp tục duy trì mức đầu tư, tăng trưởng cao cho những sản phẩm khó tiêu thụ, làm gia tăng thêm tình trạng mất cân đối cung cầu.
Ngoài ra cũng có những nguyên nhân bên ngoài như xu hướng giảm giá toàn cầu trong đó có giá các sản phẩm xuất khẩu và thay thế nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng giảm phát của nước ta trong năm 1999.
* Các nguyên nhân về phía cầu:
Tổng cầu suy giảm là nguyên nhân làm tăng thêm tình trạng mất cân đối thị trường. Nó bắt nguồn từ một số lý do.
Thứ nhất: số lao động thất nghiệp, thiếu việc làm tăng nhanh là yếu tố quan trọng hàng đầu làm giảm thu nhập dân cư đặc biệt là trong ngành than (8 vạn lao động không đủ việc làm) và ngành mía đường (40 vạn lao động bị ảnh hưởng về việc làm và thu nhập ).
Thứ hai: mức giá nông sản nội địa giảm nhan hơn mức tăng sản lượng làm chi phí sản xuất của nông dân tăng nhanh hơn thu nhập. Cả tổng thu nhập và hiệu quả hoạt động trong nông dân đều giảm.
Thứ ba: sự giảm sút thu nhập làm cho việc chi tiêu của dân cư có xu hướng tăng tỷ phần chi tiêu vào các mặt hàng tiêu dùng tối thiểu với giá rẻ, chất lượng phải chăng làm giảm sức mua đối với các sản phẩm cao cấp hoặc mang tính đầu tư, mua hàng nhập lậu tăng.
Thứ tư: trong điều kiện thu nhập giảm người dân vẫn giữ tiền tiết kiệm vào các ngân hàng hơn là giữ lại để chi tiêu. Do lòng tin vào triển vọng kinh tế ít sáng sủa trong thời gian tới thúc đẩy dân cư gửi tiền như các bảo đảm cho tương lai hơn là mua hàng để tiêu dùng hiện tại.
Ngoài những nguyên nhân kể trên, một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là việc đề ra và thực hiện các giải pháp để đối phó với tình trạng giảm phát nêu trên thường ít chú ý đến tính hệ thống và phản ứng daay chuyền, dễ triệt tiêu lẫn nhau. Vì vậy tình hình không được khắc phục mà tiếp diễn trong suốt thời gian khá dài. Điểm này sẽ được xem xét kỹ hơn trong mục tiếp theo: “Các giải pháp kích cầu và hiệu quả áp dụng”.
c. Các giải pháp “kích cầu” và hiệu quả áp dụng:
Trong năm 1999, nỗ lực chính sách lớn nhất là áp dụng các giải pháp “kích cầu” nhằm khắc phục tình trạng giảm phát. Những giải pháp được coi là mạnh nhất trong số đó là 4 lần giảm lãi suất, tăng đầu tư nhà nước, tăng lương cho người lao động trong khu vực nhà nước bằng cách giảm ngày làm việc. Tuy nhiên thực tế cho thấy hiệu quả áp dụng các giải pháp này là rất thấp. Thị trtường hầu như không có phản ứng gì tích cực đối với các giải pháp vốn được coi là hết sức nhạy cảm trong điều kiện bình thường của kinh tế thị trường.
* Giải pháp hạ lãi suất:
Năm 1999, ngân hàng nhà nước đã hạ lãi suất trần 4 lần và nới lỏng các điều kiện tín dụng. Mục đích của hành động này về cơ bản là xuất phát từ động cơ kích cầu (khuyến khích vay để chi tiêu và đầu tư). Mặt khác hạ lãi suất trước hết là phản ứng thuần túy thị trường khi mức lạm phát giảm mạnh. Vì vậy việc hạ lãi suất bị động cơ khách quan (giảm mức lạm phát) triệt tiêu sức kích thích của động cơ chủ quan (khuyến khích vay). Đây là lý do đầu tiên giải thích tại sao sau những lần hạ lãi suất kết luận vay ngân hàng của các doanh nghiệp hầu như không tăng, vốn vẫn ùn đọng trong hệ thống ngân hàng, dân chúng vẫn tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng.
Về phía các doanh nghiệp đa số doanh nghiệp đang thực sự thiếu cơ hội đầu tư hơn là thiếu vốn. Sự ách tắc thị trường đã đến mức làm triệt tiêu đáng kể cơ hội và mong muốn gia tăng đầu tư để thoát khỏi tình thế bế tắc trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Như vậy điều cần suy nghĩ là giảm lãi suất có phải là một công cụ mạnh để tăng cơ hội đầu tư của doanh nghiệp hay không. Việc ngân hàng hạ lãi suất trần 4 lần song kết quả vẫn chưa thu được là bao chứng tỏ nguyên nhân không phải ở lĩnh vực tiền tệ, do đó công cụ lãi suất hoạt động không có hiệu quả.
Về phía các ngân hàng, một mặt gánh nặng nợ quá hạn đã đạt đến con số khổng lồ làm các ngân hàng phải chịu rủi ro rất lớn do không thu hồi được vốn (chương trình mía đường nợ 4500 tỷ đồng, ngành xi măng và cao su mỗi ngành nợ 3000 tỷ đồng, chương trình nhà ở đồng bằng sông Cửu Long, chương trình khắc phục hậu quả cơn bão số 5... nợ hơn 4000 tỷ...). Mặt khác dường như các ngân hàng đang lâm vào tình trạng bội thực về vốn: huy động vốn tiết kiệm nhiều nhưng ngân hàng lại không thể cho vay (vì nhiều doanh nghiệp không dám) và không dám cho vay (vì rất nhiều doanh nghiệp muốn vay là doanh nghiệp thua lỗ và có nguy cơ phá sản). Tình hình kinh tế đã trở nên trì trệ đến mức giảm lãi suất hầu như không có tác dụng kích thích đầu tư. Tuy nhiên nguyên nhân sâu sa của vấn đề lại là tình trạng cơ cấu bởi đối tượng cho vay chính của các ngân hàng hiện nay vẫn là các doanh nghiệp nhà nước, nhiều trường hợp được vay theo chỉ định. Vì vậy hạ lãi suất không chỉ nhằm mục tiêu kích cầu mà còn chủ yếu nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả.
Việc giảm lãi suất nhằm vào những mục tiêu không hoàn toàn đồng hướng với nhau vì thế tạo ra xu hướng triệt tiêu tác dụng, làm cho công cụ phát huy được hiệu quả thậm chí còn tiềm ẩn nguy cơ gây bất ổn định.
* Giải pháp chi tiêu và đầu tư ngân sách nhà nước:
Trong lĩnh vực ngân sách có 2 giải pháp quan trọng đã được áp dụng trong năm 1999 là thuế VAT và phát hành công trái với khối lượng 4000 tỷ đồng.
- Về giải pháp VAT: Về nguyên tắc việc áp dụng thuế VAT là một bước đi đúng đắn hướng tới hình thành một môi trường kinh doanh lành mạnh rõ ràng hơn trong nền kinh tế và trong cơ chế vận hành ngân sách. Nó là một khâu quan trọng trong chương trình cơ cấu lại nền kinh tế. Tuy nhiên việc triển khai VAT một phần do chuẩn bị chưa hoàn toàn chu đáo, bước đi chưa thật đồng bộ với sự thay đổi trong toàn bộ hệ thống thuế nhưng các doanh nghiệp phản ứng khá mạnh. Trong thực tế việc áp dụng VAT 10% là cao làm tổng mức đóng góp ngân sách của nhiêù doanh nghiệp tăng lên trong khi dknh doanh gặp nhiều khó khăn thì việc áp dụng VAT như vậy không góp gì vào việc tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp như mục tiêu nỗ lực kích cầu của chính phủ. Mặt khác điều chỉnh mức VAT lại giải quyết theo từng trường hợp có khả năng làm phục hồi cơ chế xin - cho trong quan hệ giữa nhà nướ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0764.doc