Lời nói đầu 1
Phần I 5
Cơ sở và phương pháp luận nghiên cứu ảnh hưởng của giáo dục đến mức sinh 5
I/ Các khái niệm cơ bản 5
1. Giáo dục, trình độ học vấn 5
2. Vai trò của trình độ học vấn 7
3. Cách yếu tố ảnh hưởng đến trình độ học vấn ở nông thôn Việt Nam 8
II/ Khái niệm mức sinh và chỉ tiêu đánh giá 10
1. Khái niệm mức sinh 10
2. Các chỉ tiêu đo lường mức sinh 10
3. Yếu tố ảnh hưởng và động lực sinh đẻ cao ở nông thôn Việt Nam 14
III/ Những ảnh hưởng qua lại giữa học vấn và mức sinh 16
1. Tác động của học vấn đến Mức sinh 16
2. ảnh hưởng của Mức sinh đến học vấn 18
3. Sự cần thiết phải giảm Mức sinh và nâng cao trình độ học vấn của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam 19
Phần II 22
Thực trạng học vấn và mức sinh của 22
nông thôn Việt Nam thời gian qua 22
I/ Điều kiện và môi trường kinh tế xã hội 22
ở nông thôn việt nam 22
1. Đặc điểm tự nhiên 22
2. Điều kiện kinh tế, xã hội nói chung 23
3. Việc làm và thu nhập của phụ nữ ở nông thôn Việt Nam 25
II/ học vấn và mức sinh của việt nam qua các thời kỳ 27
1. Trình độ học vấn chung của Việt Nam trong thời gian qua 27
2. Mức sinh của Việt Nam từ trước tới nay 35
III/ ảnh hưởng của trình độ học vấn thấp đến mức sinh ở nông thôn việt nam hiện nay 38
1. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến hôn nhân gia đình 38
2. Tác động của của trình độ học vấn đến hành vi sinh sản 44
d. Lựa chọn quy mô gia đình 58
3. Trình độ học vấn với sự am hiểu và sử dụng các biện pháp tránh thai 61
4. Học vấn với địa vị phụ nữ. 70
5. Đánh giá chung 71
Phần III 73
Khuyến nghị 73
I/ Các biện pháp nhằm làm giảm mức sinh 73
ở nông thôn việt nam trong thời gian tới 73
1. Đưa giáo dục Dân Số vào trong nhà trường 73
2. Nâng cao trình độ học vấn cho phụ nữ ở nông thôn 74
3. Tăng cường công tác giáo dục truyền thông dân số ở nông thôn 74
4. Tạo việc làm, tăng thu nhập nâng cao địa vị người phụ nữ ở nông thôn 75
5. Các biện pháp hành chính pháp lý 76
II/ Các biện pháp nâng cao trình độ học vấn 76
1. Đầu tư cho giáo dục nông thôn, miền núi và hải đảo 76
2. Xây dựng và ban hành một số chính sách nhằm thu hút nhân tài tham gia vào lĩnh vực giáo dục. 77
3. Xây dựng một chế độ chính sách ưu đãi thoả đáng đối với giáo viên ở nông thôn 77
Kết luận 78
Tài liệu tham khảo 79
82 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2107 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của trình độ Học vấn đến mức sinh ở nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nữ đã từng được đi học là 85,3%, con số này không thể phản ánh hết được tình trạng dân trí rất thấp ở nông thôn hiện nay đặc biệt là nữ, năm 1993 có 43,8% phụ nữ ở nông thôn chưa học hết cấp I. Đây thực sự là trình độ học vấn ở mức rất thấp, điều đó ảnh hưởng đến trình độ học vấn chung của cả nước.
Sở dĩ ở nông thôn trình độ học vấn của nữ thấp như vậy phần lớn là do nhu cầu kinh tế của gia đình. ở đây ngành nông - lâm -ngư nghiệp thường tiến hành theo kinh nghiệm, lao động giản đơn nên nhu cầu học lên cao của phụ nữ ở nông thôn không có, phụ nữ ở nông thôn tuổi 15- 19 bỏ học nhiều vì lý do khác đi xây dựng gia đình, quan niệm con gái không cần phải học... ta sẽ thấy rõ hơn sự khác biệt về trình độ học vấn giữa nam và nữ qua biểu 3 dưới đây.
Biểu 3: Tỷ lệ dân số chưa bao giờ được đi học phân theo giới tính và nhóm tuổi 1989 và 1994 (%)
Đơn vị:%
Nhóm tuổi
1989
1994*
Nam
Nữ
Nữ/Nam
Nam
Nữ
Nữ/Nam
10-14
7,4
8,3
1,12
4,9
6,4
1,31
15-19
7,2
7,6
1,06
6,2
7,9
1,27
20-24
6,3
7,2
1,14
6,7
7,7
1,15
25-29
4,9
7,1
1,45
5,4
6,3
1,17
30-34
4,5
8,0
1,78
4,2
6,5
1,55
35-39
5,0
10,1
2,02
4,1
9,5
2,32
40-44
5,3
13,2
2,49
4,2
10,0
2,38
45-49
6,7
19,5
2,91
5,1
13,0
2,55
50-54
8,0
26,5
3,31
7,4
25,0
3,38
55-59
11,0
36,0
3,27
10,0
32,0
3,2
60-64
15,8
50,3
3,18
13,0
47,0
3,62
65+
31,6
71,5
2,26
29,0
73,0
2,52
10+
8,2
17,0
2,07
6,8
14,7
2,16
Nguồn: TĐTDS 1989 và ĐTNKHGK 1994
Ghi chú: Số liệu đã được chuẩn hoá, lấy cơ cấu dân số 1989 làm chuẩn
Nhìn một cách chung nhất chúng ta thấy năm 1989 sự chênh lệch về dân số chưa đến trường giữa nam và nữ lớn (nữ 17%, nam 8,2%) hơn thế nữa tỷ lệ này còn cao. Đến năm 1994 tuy sự chênh lệch này vẫn còn lớn, tỷ lệ chưa đến trường đã giảm xuống còn 6,4% đối với nam và 14,7% đối với nữ. Tỷ lệ chưa đến trường của nữ giảm nhanh hơn nam điều đó cho ta thấy những cố gắng của Nhà nước và ngành giáo dục đã đem đến sự bình đẳng giữa nam và nữ trong việc nâng cao trình độ học vấn hơn so với trước đây.
Đối với các nhóm tuổi, ở độ tuổi càng cao chênh lệch càng lớn. Đặc biệt là các nhóm tuổi trên 3 năm. Số phụ nữ chưa được đi học nhiều gấp 2 - 4 lần so với nam. Điều đó chứng tỏ sự phân biệt đối xử với người phụ nữ rất gay gắt ở giia đoạn trước đây và vì vậy người phụ nữ chịu rất nhiều thiệt thòi hơn nữa các tư tưởng phong kiến lạc hậu chi phối mạnh mẽ nhất là tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Lứa tuổi càng trẻ sự chênh lệch càng giảm dần điều đó chứng tỏ sự đầu tư và quan tâm đúng mực đã rút ngắn dần khoảng cách trình độ học vấn giữa nam và nữ. Tuy nhiên tỷ lệ mù chữ trong dân cư không những phụ thuộc vào chính sách của Nhà nước đối với giáo dục mà nó còn ảnh hưởng mạnh mẽ bởi ngoại cảnh đó là môi trường kinh tế - xã hội. Cụ thể như số liệu của biểu 3, tỷ lệ chưa đến trường của nữ lứa tuổi 15 - 24 năm 1994 cao hơn năm 1989 (năm 1994: nam 6,7%; nữ : 7,7%; năm 1989 nam: 6,3%; nữ 7,2%). Những con số này phản ánh sự biến đổi mạnh mẽ về tình hình kinh tế xã hội thời kỳ 1985 - 1990, đó là việc chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Việc học tập và nâng cao trình độ học vấn của phụ nữ nói riêng và phong trào bổ túc văn hoá nói chung của cả nước gặp phải rất nhiều khó khăn. Có thể nói phong trào bổ túc văn hoá trong thời kỳ này giảm sút nghiêm trọng, theo số liệu của Bộ giáo dục đào tạo thời kỳ năm 1986 - 1987 có 662.000 học sinh thì đến năm 1989 giảm xuống chỉ còn 454.000. Trong đó nữ bao giờ cũng cao gấp đôi nam giới, những chuyển biến về tình hình kinh tế xã hội đó ảnh hưởng đến trình độ học vấn chung ở hai khía cạnh sau:
* Việc xoá bỏ bao cấp trong giáo dục đã buộc phải cân nhắc tính toán hiệu quả kinh tế vì vậy việc tổ chức các lớp xoá mù chữ và bổ túc văn hoá không còn được quan tâm. Việc đi học không được thưởng, cộng điểm, không được miễn nghĩa vụ lao động hoặc động viên dưới hình này hoặc hình thức khác.
* Đời sống kinh tế khó khăn việc học hành không được quan tâm nữa mà thay thế vào đó là những nhu cầu về những điều kiện đảm bảo cuộc sống vật chất ngay trước mắt họ, buộc họ phải tìm kiếm việc làm. Thực tế chúng ta thấy rằng nếu như các bậc cha mẹ khi buộc phải cho con em mình thôi học vì không có khả năng chi phí, thì họ sẽ cho con gái thôi học trước. Nhiều lý do khiến các bậc cha mẹ không đầu tư cho con gái học tập vì học không nhận thấy tầm quan trọng của học tập đối với con gái họ cho rằng con gái cả đời chỉ làm việc nhà và trông nom con cái. Đại diện của tổ chức UNICEF đã nhận xét "Trong tất cả các khu vực của ngành giáo dục, số học sinh nữ đều thấp hơn nam, tỷ lệ nữ bỏ học và lưu ban cũng cao hơn nam".
Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng như thế nào đến tình hình học vấn của dân cư nói chung khi mà ở nước ta sự chênh lệch về cơ sở hạ tầng và tốc độ phát triển còn lớn giữa hai khu vực là thành thị và nông thôn. Qua biểu 4 chúng ta thấy rõ hơn về vấn đề này.
Biểu 4: Tỷ lệ phần trăm dân số từ 10 tuổi trở lên theo trình độ học vấn, nơi cư trú và vùng.
Ghi chú: Vùng 1: Miền núi và Trung du Bắc bộ
Vùng 2: Đồng bằng Bắc bộ
Vùng 3: Bắc Trung bộ
Vùng 4: Duyên hải miền Trung
Vùng 5: Tây nguyên
Vùng 6: Đông Nam bộ
Vùng 7: Đồng bằng sông Cửu Long
(Trang sau)
Biểu 4: Tỷ lệ dân số từ 10 tuổi trở lên theo trình độ học vấn nơi cư trú và vùng
Đơn vị: %, năm
Vùng/Khu vực
Chưa đi học
Chưa tốt nghiệp cấp I
Tốt nghiệp cấp I
Cấp II
Cấp III trở lên
Số năm đi học TB
Chung
12,3
22,5
31,5
23,3
10,4
6,4
Thành thị
6,5
12,2
31,8
24,8
24,7
8,3
Nông thôn
13,5
25,2
31,4
22,9
6,6
5,9
Vùng I
19,6
20,7
23,7
26,9
9,2
6,0
Vùng II
8,0
11,8
26,5
38,7
15,0
7,7
Vùng III
11,6
20,7
28,8
27,0
11,9
6,5
Vùng IV
11,1
23,7
39,8
17,0
8,5
5,7
Vùng V
25,2
26,2
28,1
12,4
8,1
4,7
Vùng VI
8,5
19,1
41,1
18,7
12,7
6,5
Vùng VII
11,9
35,5
34,6
12,0
6,1
5,0
Nguồn ĐTNKHGK 1994
Ta nhận thấy trong thời kỳ 1989-1994 tỷ lệ không được đi học của thanh thiếu niên giảm đáng kể ở cả thành thị lẫn nông thôn, nhưng sự khác biệt trong thời kỳ đổi mới lại lớn hơn. Năm 1994 tỷ lệ trẻ em chưa đi học ở nông thôn độ tuổi 7 tuổi là 26,3% thì ở thành thị tỷ lệ này là 8,4% và 1,7%. Điều đó cũng cho thấy khi nền kinh tế thị trường phát triển, bên cạnh những mặt tích cực cũng nảy sinh những mặt tiêu cực, sự b ất bình đẳng và khoảng cách giàu ngèo ngày càng dãn ra, thành thị là nơi trung tâm giao lưu văn hoá kinh tế, chính trị xã hội bao giờ cũng có một khoảng cách rất xa với nông thôn về mọi mặt. Đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, các lợi thế cao hơn hẳn so với nông thôn.
Ta nhận thấy ở khu vực thành thị hơn một nửa dân số từ 10 tuổi trở lên có trình độ cấp hai trở lên trong khi đó ở khu vực nông thôn có tới 70% dân số từ 10 tuổi trở lên có trình độ học vấn thấp hơn mức này. Với dân số tập trung tới 80% là ở khu vực nông thôn thì đây quả là một vấn đề bức thiết và cần quan tâm sâu sắc. Học vấn thấp như vậy sẽ là tác nhân của nhiều vấn đề kinh tế xã hội
Chất lượng của giáo dục được phản ánh qua số năm được đi học. Khoản 2/3 số người từ 10 tuổi trở lên đạt trình độ tiểu học trở lên. Tuy nhiên nếu lấy trình độ từ cấp II trở lên là mức tối thiểu cần thiết cho cuộc sống thì trình độ học vấn của Việt Nam vẫn còn thấp(như số liệu ở biểu trên chỉ có 23,3% là hết cấp II, cấp III là 10,4%). Hơn nữa số năm đi học trung bình chung của chúng ta còn rất thấp đặc biệt là ở nông thôn (5,9 năm). Điển hình là vùng Tây nguyên và Miền núi, Trung du Bắc bộ. Một điều đặc biệt là ở tất cả các vùng, phụ nữ luôn thua thiệt hơn nam giới về mặt học hành.
Tóm lại trong thời gian qua tỷ lệ học sinh đến trường tăng nhưng chậm, tỷ lệ biết chữ cao so với nhiều nước khác (gần 90%). Song trình độ học vấn còn thấp thể hiện ở biểu 5 (10,4% tính đến năm 1994). Sự khác biệt về giới tính, về tỷ lệ người có trình độ học vấn cao khá lớn, đặc biệt là thời kỳ cách đây 5 - 10 năm (biểu3, tuổi từ 35trở lên nữ mù chữ nhiều hơn nam từ 2 - 4lần). Thiệt thòi nghiêng hẳn về phía nữ giới, điều đó cho thấy quá trình đổi mới kinh tế dường như đem lại cơ hội tốt hơn cho nam giới.
Giữa thành thị và nông thôn có sự khác biệt lớn về trình độ học vấn. ở thành thị tỷ lệ trẻ em được đi học luôn cao hơn ở nông thôn, ở nông thôn số người chưa đi học là 13,5% còn ở thành thị là 6,5% (năm 1994). Số học sinh tốt nghiệp cấp II trở lên ở nông thôn luôn thấp hơn ở thành thị.
Giữa các vùng có sự khác biệt đáng kể, các vùng có đô thị lớn thì tỷ lệ người tốt nghiệp từ cấp III trở lên thường cao hơn ở vùng khác như: Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Đông Nam Bộ, các tỷ lệ tương ứng là: 15%; 11,9%; 12,7%. Đây cũng là những vùng có truyền thống hiếu học, trong khi đó ở các vùng như Tây nguyên tỷ lệ này thấp hơn nhiều: 8,1%.
Như vậy việc ban hành các chính sách chú trọng đến việc nâng cao số năm học trung bình của một người dân, chú ý đến đối tượng nữ giới, đẩy mạnh công tác hỗ trợ các gia đình gặp khó khăn, cho trẻ em nghèo hiếu học, tạo dựng phong trào ham học ở mọi đối tượng, đây cũng là một việc làm cần thực hiện.
2. Mức sinh của Việt Nam từ trước tới nay
Đầu thập kỷ 90 đến nay, việc giảm mức sinh ở nước ta đã đạt nhiều kết quả khả quan. Điều đó minh chứng cho sự thành công của công tác DS-KHHGĐ ở nước ta. Tuy nhiên chúng ta cũng cần lưu ý rằng ngoài chính sách dân số của nhà nước thì sự giám sinh của nước ta cũng một phần là do trình độ phát triển và ý thức của người dân nói chung, nhiều người đã ý thức được vấn đề dân số vì vậy đã tự giác điều chỉnh mức sinh của mình. Điều đó thể hiện ở trình độ học vấn càng cao do thu nhập của họ tăng lên, mức độ tham gia vào các hoạt động kinh tế tăng lên dẫn tới mức sinh giảm xuống, xu hướng này hiện nay phổ biến ở thành thị. Còn ở nông thôn thì trái lại đặc biệt là ở các vùng xa xôi hẻo lánh, vùng dân tộc thiểu số trình độ học vấn của dân cư rất thấp tương ứng với nó là mức sinh rất cao.
Trước đây khi nền kinh tế xã hội còn nhiều yếu kém, mức sinh rất cao. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp 1950-1954 TFR ở Miền Bắc Việt Nam chỉ là 5,5% (xem biểu)
Biểu 5: Tổng tỷ suất sinh trong các thời kỳ
Đơn vị: con
50-54
55-59
60-64
65-69
70-74
75-79
80-84
85-89
Miền Bắc
5,5
6,9
6,3
5,8
5,3
4,4
4,5
4,3
Miền nam
6,0
6,6
6,6
5,2
4,6
4,0
Cả nước
6,15
6,2
5,95
4,8
4,5
4,1
Nguồn: TĐTDS-1960; TĐTDS-1979; TĐTDS-1989
Sau năm 1954, TFR đã tăng lên 6,9 ở miền Bắc và 7,2-7,3 ở các tỉnh Nam Định, Ninh Bình. Sau đó thì giảm dần. Xong đến năm 1989 mức sinh của các nước còn rất cao TFR = 4,1. So với các nước khác ví dụ như Hàn Quốc bắt đầu có chương trình quốc gia về KHHGĐ từ năm 1962. Xem biểu và Thái Lan có chương trình này từ 1970. Xem biểu 6 và 7
Biểu 6: Tổng tỷ suất sinh qua các năm của Hàn Quốc
Đơn vị: con
Năm
1960
1975
1981
1985
1990
TFR
6,0
3,5
2,7
2,1
1,7
Biểu 7: Tổng tỷ suất sinh qua các năm của Thái Lan
Đơn vị: con
Năm
1961
1971
1981
1986
1990
TFR
6,6
6,0
3,7
3,0
2,2
Như vậy cũng cùng một thời gian thực hiện chương trình KHHGĐ như nhau song kết quả đạt được của nước ta rất thấp, TFR của ta vào thời điểm năm 1990 vẫn còn cao gấp đôi so với 2 nước kia. Điều đó một phần là chương trình triển khai công tác DSKHHGĐ vẫn chưa triệt để. Đặc biệt là ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa mức sinh còn rất cao.
Biểu 8:Tổng tỷ suất sinh của Việt Nam qua các năm
Đơn vị: con
1989
1994
1996
Thành thị
2,32
2,1
1,84
Nông thôn
4,25
3,39
2,,9
Chung
3,8
2,91
2,69
Nguồn: - Tổng điều tra dân số 1989
- Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ năm 1994
- Điều tra nhân khẩu học nhiều vòng năm 1996
Như đã nói ở trên, sự giảm mức sinh ngoài những ảnh hưởng tích cực của chính sách dân số còn có sự ảnh hưởng của sự tiến bộ của các nhóm dân cư. ở thành thị mức sinh tính cho đến thời điểm 1.7.1997 là 1,9 trong khi đó ở nông thôn là 2,84. Tuy nhiên khác với các thập kỷ trước, bước sang thập kỷ 90 này đã có rất nhiều thay đổi. Từ 1990 đến 1997 tổng tỷ suất sinh (TFR) cũng giảm 1,1 conm trong vòng 7 năm, như vậy mỗi năm giảm được 0,16 con là mức giảm cao so với trước đây cũng như so với chỉ tiêu nhà nước đề ra
Biểu 9: Tổng tỷ suất sinh qua các cuộc điều tra gần đây nhất
Đơn vị: con
Năm
Tổng tỷ suất sinh
Tên các cuộc điều tra
1989
3,8
Tổng điều tra dân số 1989
1990
-
Không điều tra
1991
-
Điều tra chọn mẫu
1992
-
Điều tra biến động dân số và KHHGĐ
1993
-
1994
3,1
Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ
1995
2,78
Điều tra nhân khẩu học nhiều vòng và KHHGĐ
1996
2,69
1997
2,33
Điều tra nhân khẩu học và sức khoẻ
Nhìn chung mức sinh của cả nước năm 1997 là 2,33 con thì chương trình Dân số và KHHGĐ vẫn còn nhiều việc phải làm. Đặc biệt ở nông thôn, nơi tập trung tới dân số, bất cứ một sự thay đổi nhỏ nào ở đây cũng có những tác động rất mạnh đến qui mô cả nước.
III/ ảnh hưởng của trình độ học vấn thấp đến mức sinh ở nông thôn việt nam hiện nay
1. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến hôn nhân gia đình
Hôn nhân là một khái niệm tổng hợp, bao gồm nhiều yếu tố: Kết hôn, ly hôn, ly thân, tái kết hôn... Sự thay đổi của các hành vi hôn nhân này ảnh hưởng trực tiếp đến mức sinh. Cùng với một quy mô dân số nhất định thì kết hôn sớm sẽ tạo ra số gia đình nhiều hơn. Độ dài của thời gian sinh đẻ kéo dài hơn dẫn tới số trẻ sinh ra cũng nhiều hơn và phía sau của quy luật này là trình độ nhận thức con thấp. Xu hướng chung cho các yếu tố khác của hôn nhân cũng tương tự.
a. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến tuổi kết hôn
Con người biểu hiện sự tiến bộ và văn minh vượt bậc của mình ở chỗ có thể tự điều khiển hành vi sinh đẻ của mình một cách hợp lý và khoa học, để tạo nên một cơ thể vừa có sức khoẻ, vừa có trí tuệ, minh mẫn, đảm bảo hạnh phúc cho gia đình và xã hội.
Người phụ nữ có thể thụ thai vào tuổi dậy thì. Tốt nhất là nên có con từ tuổi 22 trở lên. Vào tuổi này người con gái mới đủ tư cách làm mẹ, quản lý gia đình, mặt khác vào tuổi này cơ thể người mẹ mới được phát triển hoàn thiện, bảo đảm sức khoẻ tốt để nuôi dưỡng thai và sinh đẻ dễ dàng hơn. Nhiều công trình nghiên cứu y sinh học đã chứng minh rất rõ ràng rằng những đặc điểm tâm lý, sinh lý và sức khoẻ của người mẹ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và trí tuệ của trẻ sơ sinh.
Đối với những người mẹ quá trẻ sự phát triển của thể lực và tinh thần còn chưa đầy đủ thì đứa con sinh ra thường xuyên gầy yếu, kém thông minh. Còn đối với phụ nữ đã có nhiều tuổi còn sinh đẻ, hoặc đẻ nhiều lần, đẻ quá dày, thì đứa con sẽ bị suy dinh dưỡng, dễ có những dị tật và việc sinh đẻ cũng gặp nhiều khó khăn hơn. Thật đáng tiếc đây lại là xu hướng chung ở nông thôn Việt Nam - nơi mà nghề nông là nghề chủ yếu, cuộc sống vật chất còn nhiều thiếu thốn tuổi kết hôn thường thấp, có nhiều nơi tình trạng tảo hôn còn phổ biến (Xem biểu 1.1).
Biểu 1.1. Tỷ lệ và tuổi kết hôn theo nhóm tuổi và vùng
Đơn vị: %, tuổi
Nhóm tuổi hiện tại
Đã từng kết hôn (Đơn vị tính: %)
Trước 18 tuổi
(Đơn vị tính: %)
Tuổi trung vị kết hôn lần đầu
(Đơn vị tính: tuổi)
Thành thị:
20 - 24
25 - 29
30 - 34
35 - 39
40 - 44
45 - 49
31,9
70,4
80,5
83,2
89,6
92,6
5,1
7,1
9,5
13,3
10,4
16,1
20,9
23,4
23,7
21,9
21,9
---
Nông thôn:
20 - 24
25 - 29
30 - 34
35 - 39
40 - 44
45 - 49
58,8
89,1
94,2
97,1
89,2
98,2
10,4
13,6
13,8
12,0
16,2
24,8
21,8
20,9
20,8
20,9
19,8
---
Nguồn: Báo cáo kết quả điều tra biến động DS & KHHGĐ
Ngày 1/10/1996. Nhà xuất bản Thống kê - 1998
Qua biểu trên ta nhận thấy ở nông thôn hiện nay tình trạng tảo hôn còn nhiều 10,4%, ở thành thị là 5,1%. ở độ tuổi 20-24 thì ở nông thôn tỷ lệ đã kết hôn là 58,8%, còn ở thành thị là 31,9%. Điều này cũng đã chỉ ra rằng ở thành thị điều kiện kinh tế, trình độ học vấn đã làm thay đổi tuổi kết hôn.
Tuổi kết hôn là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến mức sinh ở nước ta, kết hôn sớm ở nông thôn trung bình 22 so với 24,6 ở thành thị phản ánh một phần trình độ giáo dục thấp ở nông thôn. Một thực tế khá rõ phản ánh trình độ giáo dục càng thấp thì tuổi kết hôn càng thấp. Biểu 1.2.
Biểu 1.2. Trình độ học vấn và tuổi kết hôn trung bình lần đầu
Đơn vị: tuổi
Trình độ học vấn
Tuổi kết hôn mong muốn trung bình
Tuổi kết hôn thực tế trung bình
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Chưa TN cấp I
Đã TN cấp I
TN cấp II
TN cấp III
ĐH, CĐ, trên ĐH
21,2
21,6
22,7
24,3
29,6
18,9
20,2
21,9
20,9
22,6
21,1
21,4
22,9
24,5
28,7
18,7
20,1
20,7
21,9
23,4
Nguồn: Kết quả điều tra của UBDS-Hà Nội năm 1994
Xu hướng tăng tuổi kết hôn cùng với học vấn đặc biệt ở bậc Đại học, Cao đẳng, ở mức học vấn này họ nhận thức rất lớn về hôn nhân và điều kiện để bảo đảm cho hạnh phúc và sự thành đạt trong xã hội bằng con đường học vấn. ở nông thôn với những điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn, là lực cản cho việc nâng cao trình độ học vấn ở đây. Một tỷ lệ rất lớn là học chỉ ở mức thấp nhất, điều này cũng đồng nghĩa với việc kết hôn sớm ở nông thôn . ở mức học vấn chưa tốt nghiệp tiểu học, tuổi kết hôn nữ là 18,7, trong khi đó là ở bậc đại học là 23,55 đặc biệt là đối với nam, tuổi kết hôn rất cao 28,7.
Tóm lại học vấn ảnh hưởng vừa trực tiếp lại vừa gián tiếp đến mức sinh xét ở góc độ tuổi kết hôn của người phụ nữ.
Trực tiếp là làm rút ngắn thời gian sinh đẻ, tuy nhiên điều này ở nông thôn không rõ bằng thành thị bởi ở thành thị khoảng thời gian học tập rất dài, học hết cấp III rồi lại lên bậc cao đẳng hoặc đại học. Còn ở nông thôn phần lớn là chỉ hết cấp II rồi bỏ hẳn. Tỷ lệ học cao đẳng, đại học còn rất ít. Học vấn làm cho tuổi kết hôn tăng lên đặc biệt là ở những bà mẹ, điều này sẽ có những ảnh hưởng không nhỏ đến con cái họ sau này, có tác dụng kìm hãm bớt vòng quay của quá trình tái sản xuất và dân số.
Gián tiếp là làm giảm sinh thông qua thái độ đối với việc lập gia đình sớm hay muộn. Khi học vấn càng cao càng làm thay đổi thái độ của người phụ nữ đến kết hôn và gia đình. Đặc biệt ở nông thôn họ sẽ chủ động hơn trong quyết định vấn đề hôn nhân của họ, không chịu phụ thuộc vào sự sắp đặt của cha mẹ và sức ép của dư luận xã hội, và những tư tưởng nặng nề của nho giáo vẫn còn mạnh mẽ ở nông thôn Việt Nam.
b. ảnh hưởng của trình độ học vấn đến tình trạng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân là một mảng lớn trong nghiên cứu về hôn nhân gia đình, nó bao gồm các sự kiện chưa vợ, chưa chồng, đã có vợ có chồng hoặc goá, ly thân. Đây cũng là các yếu tố ảnh hưởng tới thời gian chung sống và sinh đẻ của các cặp vợ chồng.
Việc kết hôn thường phổ biến ở độ tuổi từ 15 trở lên, khoảng 32% nam giới và 27% phụ nữ ở độ tuổi từ 15 trở lên chưa vợ, chưa chồng. Tỷ lệ ly thân, ly hôn ở nước ta không cao, chỉ chiếm khoảng từ 1 đến 2% dân số chỉ tiêu này là thấp tương tự như ở Trung Quốc (Cục Thống kê TQ.1992). Song lại thấp hơn nhiều so với nhiều nước khác trong khối ASEAN. Điều này phản ánh tình hình hôn nhân một vợ một chồng gắn bó suốt đời ở nông thôn, nơi có tới 80% dân số tập trung ở đây và ít chịu ảnh hưởng của phong cách, lối sống tự do, phóng khoáng của đô thị. Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ goá chồng tương đối cao, lớn hơn gấp năm lần so với nam. Nguyên nhân của tình trạng này là do tỷ lệ tử vong của nam giới cao hơn mức bình thường do chiến tranh và nam giới goá vợ thường đi bước nữa nhiều hơn. Biểu 1.3.
Biểu 1.3. Phân bố dân số 15 tuổi trở lên theo tình trạng hôn nhân 1989, 1994
Đơn vị tính: %
Tình trạng hôn nhân
1989
1994
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Chưa vợ/chồng
Đã từng có vợ/chồng
Hiện có vợ/chồng
Goá
Ly hôn/thân
32,4
67,6
64,7
2,2
0,7
26,7
73,3
58,8
11,6
1,9
33,1
66,9
64,0
2,2
0,7
27,9
72,1
59,1
10,7
2,3
Nguồn: Tổng điều tra dân số 1989 và ĐTNKHGK năm 1994
Để xem xét sự khác biệt về tình trạng hôn nhân giữa khu vực thành thị và nông thôn ta có biểu 1.4. qua biểu này cho thấy tỷ lệ người chưa vợ/chồng ở khu vực thành thị cao hơn nhiều so với ở nông thôn. ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên phụ nữ ở nông thôn chưa chồng là 24,9% còn ở thành thị là 30,1%. Nam giới 15 tuổi trở lên chưa vợ ở nông thôn là 29,4% còn ở khu vực thành thị là 36,4%. Điều đó nói lên rất rõ ràng rằng ở nông thôn kết hôn sớm hơn ở thành thị. ở khu vực thành thị, những người có trình độ học vấn cao (đặc biệt là loại trình độ từ tốt nghiệp phổ thông cơ sở trở lên) thường kết hôn muộn hơn ở nông thôn.
Thành thị là nơi mà chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu văn hoá từ nước ngoài mang lại, các mối quan hệ rộng và công việc rất năng động đã dẫn tới xu hường ngoại tỉnh ngày càng cao và hậu quả của nó là tỷ lệ ly hôn cũng tăng lên, đặc biệt ở nam giới 1,1% trong khi đó ở nông thôn là 0,6% và nữ giới ở thành thị là 2,6%, nông thôn là 2,3%.
Biểu 1.4. Phân bố dân số từ 15 tuổi trở lên theo
tình trạng hôn nhân và nơi cư trú. 1994
Đơn vị tính: %
Tình trạng hôn nhân
Thành thị
Nông thôn
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Chưa vợ/chồng
Đã từng có vợ/chồng
Hiện có vợ/chồng
Goá
Ly hôn/thân
36,4
63,6
60,5
2,0
1,1
30,1
69,9
55,7
11,6
2,6
29,4
70,6
67,5
2,4
0,6
24,9
75,1
61,1
11,8
2,3
Nguồn: Tổng ĐTDS năm 1989 và ĐTNKHGK năm 1994
Tình trạng hôn nhân ảnh hưởng đến mức sinh thông qua thời gian chung sống của các cặp vợ chồng, đây là một yếu tố làm giảm sút mức sinh, song không phải là tích cực mà chỉ là một trong những yếu tố làm giảm mức sinh song không được khuyến khích. Khi học vấn càng cao thì tính độc lập về kinh tế cao, các quan hệ được mở rộng, điều này nhiều khi là những nguyên nhân dẫn tới tình trạng ly hôn và ly thân cao, mà người chịu hậu quả lớn nhất là trẻ em. Điều này dường như trái với mối quan hệ xu hướng rằng học vấn càng cao thì mức sinh giảm và chất lượng cuộc sống được nâng cao. Song vì đây là một trong nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh xét ở góc độ hôn nhân gia đình, chính vì vậy mà không thể nhắc đến.
2. Tác động của của trình độ học vấn đến hành vi sinh sản
Những điều kiện sống và sinh hoạt ở nông thôn đã và đang có nhiều tác động đến người phụ nữ, buộc họ phải có những ứng xử để phù hợp với hoàn cảnh sống. Cũng như các thành viên khác trong gia đình, người phụ nữ phải tham gia vào quá trình lao động sản xuất để nuôi sống mình và nuôi sống gia đình. Bên cạnh đó người phụ nữ vừa phải thực hiện thiên chức của mình là sinh đẻ để duy trì nòi giống. Người phụ nữ đồng thời đóng vai trò quan trọng lao động sản xuất, đồng thời đảm nhiệm vai trò quan trọng trong việc tái sản xuất ra con người. Đây là hai nhiệm vụ chủ yếu của người phụ nữ để xác định vị trí của mình trong gia đình và xã hội. Vì vậy những hành vi ứng xử đối với hành vi sinh đẻ của người phụ nữ nông thôn thể hiện rõ những yếu tố chi phối họ và những mối quan tâm của họ tới hành vi sinh đẻ. Biểu 2.1.
Biểu 2.1. Định hướng giá trị sinh đẻ của người nông dân
Đơn vị tính: %
Các định hướng giá trị
Số %
Nhiều con hơn nhiều của
Có con trai để nối dõi tông đường
Có con để chăm sóc bố mẹ khi về già
Không có ông bà nuôi dạy con khó hơn
Có con nhà chồng nể hơn
Việc có con là do nhà chồng quyết định
Kế hoạch hoá gia đình gây bất hoà trong gia đình
Đời sống khá lên nhiều người muốn đẻ thêm
Gia đình đông con có uy tín hơn
20,4
6,3
2,5
1,1
2,6
11,9
20,2
18,0
17,0
Nguồn: ảnh hưởng của văn hoá truyền thống đến hành vi sinh đẻ của người phụ nữ nông thôn đồng bằng Bắc bộ.
Viện Khoa học xã hội - 1997.
Qua biểu trên chúng ta nhận thấy rằng chương trình KHHGĐ đang vấp phải các tập tục, các quan niệm truyền thống ở nông thôn làm cản trở công tác này và chính bản thân người phụ nữ ở đây chịu những áp lực này trong hành vi sinh đẻ của mình. Các hành vi sinh đẻ: Tuổi sinh con đầu lòng, khoảng cách giữa các lần sinh, số con mong muốn và số con thực tế, sự lựa chọn giới tính của con cái.
a. Tuổi sinh con đầu lòng và khoảng cách giữa các lần sinh
Như ta đã nói ở mục 1. tuổi sinh con tốt nhất là từ 22 tuổi trở lên thì mới cho con khoẻ mạnh và trí tuệ phát triển. Nhiều số liệu thống kê cho thấy rằng tỷ lệ tử vong của người mẹ tăng lên gấp hai lần khi đẻ con thứ 5 và tăng gấp 4 lần khi đẻ con thứ 7 (so với lần đẻ thứ nhất và thứ 2). Cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch khuyến khích mỗi cặp vợ chồng chỉ nên có một hoặc 2 con và khoảng cách sinh tốt nhất là 5 năm giữa 2 lần sinh. ở nông thôn nước ta hiện nay với điều kiện kinh tế và xã hội như đã nêu ở Phần I mục 2 và các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh ở phần đầu thì hiện nay tuổi sinh con đầu lòng và khoảng cách giữa các lần sinh là như thế nào và chịu ảnh hưởng của yếu tố nào.
Trước hết ta cần xem xét tuổi sinh con đầu lòng giữa hai khu vực là thành thị và nông thôn để thấy rõ sự khác biệt này.
Biểu 2.2. Tuổi sinh con đầu lòng theo bằng cấp cao nhất của người mẹ
Đơn vị: tuổi
Khu vực
Bằng cấp cao nhất của người mẹ
Chung
Không
Cấp I
Cấp II
Cấp III
CNKT sơ cấp
THCN
ĐHCĐ
Nông thôn
Thành thị
21,5
22,6
21,8
22,7
22,2
22,8
22,1
23,7
24,1
24,1
24,4
25,0
25,5
27,1
22,0
23,4
Nguồn: Điều tra nhân khẩu học giữa kỳ năm 1994
Ta nhận thấy cùng một mức học vấn như nhau song ở nông thôn tuổi sinh con đầu lòng bao giờ cũng thấp hơn ở thành thị, qua đó ta nhận thấy ở nông thôn người phụ nữ chịu nhiều áp lực hơn đối với việc sinh đẻ. Những áp lực đó không phải chỉ riêng ở trong gia đình mà các cả ngoài xã hội. Tuy nhiên chúng ta cũng nhìn thấy một điều đáng mừng ở đây. Điềun này sẽ góp phần nâng cao tuổi sinh con đầu lòng lên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0016.doc