MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Tổng quan về tỷ giá
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Các loại tỷ giá
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá
1.2. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động xuất nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm
1.2.2. Đặc điểm
2. ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu
2.1.2. Tác động của tỷ giá hối đoái lên hoạt động nhập khẩu
2.1.3. Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn
2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
2.2.1. Giai đoạn 1989-1992
2.2.2. Giai đoạn 1993-1996
2.2.3. Giai đoạn 1997-1999
2.2.4. Giai đoạn 2000-2006
2.2.5. Giai đoạn 2007-nay
3. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ ẢNH HƯỞNG ĐẾN XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Những khó khăn hạn chế trong việc điều hành chính sách tỷ giá ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu tại Việt Nam
3.1.1. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên trong
3.1.2. Khó khăn, hạn chế xuất phát từ bên ngoài
3.2. Giải pháp
3.2.1. Nhà nước
3.2.2. Doanh nghiệp
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16594 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này kéo dài, hàng hóa nhập khẩu từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản phẩm trong nước.
2.1.3.Tuyến J trong ngắn hạn và dài hạn
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng, theo lý thuyết người tiêu dùng sẽ chuyển sang dùng hàng hóa thay thế trong nước.Tuy nhiên việc điều chỉnh ưu tiên hàng thay thế cần phải mất một thời gian nhất định. Do đó có thể nói rằng cầu trong ngắn hạn có độ co giãn thấp hơn so với cầu trong dài hạn. Vì vậy sau khi đồng nội tệ giảm giá, giá hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng nhưng người tiêu dùng trong nước vẫn tiếp tục mua hàng nhập khẩu với hai lý do sau:
- Người tiêu dùng vẫn chưa điều chỉnh ngay việc ưu tiên mua hàng nội địa thay vì mua hàng nhập khẩu (cầu nhập khẩu không co giãn).
- Các nhà sản xuất trong nước cần phải có một thời gian nhất định đểsản xuất được hàng có thể thay thế hàng nhập khẩu (cung không co giãn).
Như vậy chỉ sau khi những nhà sản xuất trong nước thực sự cung cấp hàng thay thế nhập khẩu và người tiêu dùng ưu tiên dùng hàng nội thay vì dùng hàng ngoại thì cầu về hàng hoá nhập khẩu mới giảm.
Tương tự như vậy, sau khi đồng nội tệ giảm giá, việc mở rộng xuất khẩu chỉ trở thành hiện thực khi các nhà sản xuất đã sản xuất được nhiều hàng hóa hơn để xuất khẩu và người tiêu dùng nước ngoài đã thực sự chuyển hướng ưu tiên mua hàng hoá của nước này.
*Tuyến J
Hiệu ứng tuyến J trong trường hợp đồng tiền của 1 nước giảm giá đối với cán cân thương mại của nước đó: Theo thời gian, cán cân thương mại có hình dáng như chữ J nếu độ co giãn của cầu nhập khẩu và cung xuất khẩu nhỏ hơn trong thời gian ngắn hạn so với thời gian dài hạn.
Vì cầu nhập khẩu và cung về xuất khẩu có độ giãn trong ngắn hạn thấp hơn so với dài hạn, nên khi đồng nội tệ giảm giá thì cán cân thương mại trở nên xấu đi trong ngắn hạn, nhưng sau đó sẽ được cải thiện. Theo thời gian, sự thay đổi của cán cân thương mại được mô tả như hình a.
Hình này nói lên, đồng tiền giảm giá tại thời điểm 0, và sau do người tiêu dùng tạm thời chi tiêu nhiều hơn cho hàng nhập khẩu, xuất khẩu cũng tăng nhưng chỉ bù đắp phần chi tiêu phụ trội cho nhập khẩu, do đó cán cân thương mại trở nên xấu hơn ngay sau khi đồng nội tệ giảm giá. Sau một thời gian, khi nhập khẩu và xuất khẩu co giãn, thì cán cân thương mại dần dần được cải thiện và cuối cùng là tăng lên. Điều này được mô tả bằng tuyến J trên hình a và còn được gọi là hiệu ứng tuyến J.
Hình b diễn tả những gì xảy ra trong trường hợp khi động nội tệ lên giá so với những ngoại tệ khác. Sau khi đồng nội tệ tăng giá tại thời điểm 0, giá hàng hoá nhập khẩu giảm, nên chi tiêu để mua hàng nhập khẩu giảm. Nếu giá trị xuất khẩu giảm ít hơn so với giá trị nhập khẩu, thì cán cân thương mại trở nên tốt hơn, đây cũng là điều thường được dự tính trong thực tế sau khi đồng tiền lên giá.Tuy nhiên, sau một thời gian nhất định, xuất khẩu và nhập khẩu trở nên co giãn hơn, dẫn đến tốc độ tăng giá trị nhập khẩu nhanh hơn tốc độ giảm giá và xuất khẩu giảm đủ để cho cán cân thương mại trở nên xấu đi. Chúng ta thấy rằng tuyến J trong trường hợp đồng nội tệ lên giá, như hình b và ngược lại với tuyến J trên hình a trong trường hợp đồng nội tệ giảm giá. Qua phân tích trên ta thấy rằng tuyến J xuất hiện đồng thời: tỷ giá không bình ổn và cán cân thương mại tạm thời trở nên xấu đi hay tốt lên hơn sau khi đồng tiền giảm giá hoặc lên giá.
Tóm lại, tác động của tỷ giá với hoạt động xuất nhập khẩu thường có những hiệu ứng tích cực nhanh chóng trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển tương đối cao, đồng bộ, nguyên tắc thị trường được đảm bảo, không có sự can thiệp của nhà nước vào quá trình xuất nhập khẩu.
Trong điều kiện Việt Nam ảnh hưởng của việc tăng giảm tỷ giá USD/VND chưa thể so sánh với ảnh hưởng của sự biến động của tỷ giá hối đoái tới hoạt động xuất nhập khẩu của một số cặp tỷ giá như USD/JPY, USD/NDT vì điều kiện thị trường chưa cao, vì chính sách can thiệp bảo hộ sản xuất, vì năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam, đặc biệt vì năng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam khác xa so với điều kiện của Mỹ, Nhật do đó chính sách tỷ giá của Việt Nam thường bị động, không phát huy hết tác dụng như mong muốn.
2.2. Thực trạng tại Việt Nam từ năm 1989 đến nay
2.2.1. Giai đoạn 1989-1992
Chỉ thị 271-CT ban hành tháng 10/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng với nội dung xác lập một mức tỷ giá đồng Việt Nam đối với khu vực ngoại tệ chuyển đổi phù hợp với mức tỷ giá thị trường trong biên độ dao động 10-20% chính là biện pháp đầu tiên trong việc thực hiện chính sách đổi mới tỷ giá của Chính phủ. Tháng 3/1989, Nhà nước bãi bỏ hệ thống tỷ giá kết toán nội bộ, tiến tới thực hiện thống nhất một mức tỷ giá duy nhất cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế - tỷ giá chính thức. Từ đó, động lực phát triển ngoại thương được khôi phục, kinh tế Việt Nam cũng như hoạt động xuất nhập khẩu có cơ hội phát triển mạnh.
Thật vậy, tỷ giá hối đoái cũng đã thể hiện vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động ngoại thương trên tất cả các phương diện từ kim ngạch cho đến cơ cấu, thị trường xuất nhập khẩu.
Bảng 1: Tỷ giá hối đoái và xuất nhập khẩu giai đoạn 1986-1992
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Tỷ giá thị trường (USD/VND)
Mức tỷ giá
(đồng)
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Giá trị (triệu USD)
% Tăng, giảm
Mức tỷ giá
(đồng)
% Tăng, giảm
1986
80
100
789,1
100
2155,1
100
-1366
100
425
369,56
1987
368
460
854,2
108,25
2455,1
113,92
-1600,9
117,20
1270
298,82
1988
3000
815,21
1038,4
121,56
2756,7
112,29
-1718,3
107,33
5000
393,70
1989
3900
130
1320
127,12
2565,8
93,08
-1245,8
72,50
4100
82
1990
6300
161,54
2404
182,12
2752,4
107,27
-348,4
27,96
6500
158,54
1991
9767
155,03
2087,1
86,82
2338.4
84,96
-251,3
72,13
11975
184,23
1992
10720
109,75
2580,7
123,65
2540,7
108,65
40
-15,92
10550
88,1
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu Tổng Cục Thống Kê
Bảng 1 cho thấy giá trị danh nghĩa đồng Việt Nam sụt giảm mạnh và liên tiếp trong suốt giai đoạn 89-92. Từ mức tỷ giá 1USD = 3000VND năm 1989, đồng VND đã giảm xuống 10720 đồng/đôla năm 1992. Trong vòng 3 năm, tỷ giá đã sụt giảm gần 4 lần. Sự sụt giảm này đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là trên phương diện kim ngạch xuất-nhập khẩu trong quan hệ buôn bán với các quốc gia.
Ta có thể nhận thấy trước thời điểm 1989, khi Nhà nước càng cố gắng hạ giá đồng nội tệ thì nhập siêu lại càng lớn. Nếu nhập siêu năm 1987 khoảng 1,6 tỷ thì sang năm 1988, khi tỷ giá bị hạ xuống thấp hơn so với năm trước đó 8 lần thì nhập siêu lại lên đến hơn 1,7 tỷ. Điều này cho thấy việc hạ giá đồng Việt Nam trong bối cảnh vẫn áp dụng tỷ giá kết toán nội bộ không kích thích được ngoại thương mà còn làm cho nhập siêu trầm trọng hơn.
Trong thời kỳ 86-89, tổng độ co giãn xuất nhập khẩu chỉ đạt 0,003 (giai đoạn 89-92, chỉ số này đạt 0,46), điều đó thể hiện rằng nền kinh tế tăng trưởng không bền vững. Trung bình giá đồng nội tệ giảm 1 đồng thì xuất khẩu chỉ tăng có 0,195 đồng và nhập khẩu giảm 0,192 đồng. Nhưng do lượng hàng xuất khẩu luôn nhỏ hơn lượng hàng nhập khẩu nên tình trạng kim ngạch nhập khẩu lớn gấp hai, ba lần kim ngạch xuất khẩu diễn ra liên tục trong 3 năm 1986-1989. Nguyên nhân chính là trong khi sản xuất hàng xuất khẩu sụt giảm, động lực xuất khẩu bị thủ tiêu do tính cứng nhắc của tỷ giá, thì nhập khẩu lại tăng lên để phục vụ nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng nổi.
Năm 1989, sau khi xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thực hiện thống nhất tỷ giá, lĩnh vực ngoại thương nhanh chóng có chuyển biến rõ nét. Mặc dù mức giá đồng ngoại tệ chỉ tăng 30% ( ít hơn so với giai đoạn trước đó) song nhập khẩu đã giảm xuống chỉ bằng 93% so với năm trước, xuất khẩu được kích thích tăng trưởng nên kim ngạch đã đạt được 1,3 tỷ đô la, thu hẹp khoảng cách nhập siêu xuống còn 1,2 tỷ đô la (so với mức 1,7 tỷ đô la năm 1988).
Mặt khác, do tỷ giá chính thức được điều chỉnh sát với tỷ giá thị trường, hình thành theo quy luật cung cầu nên tác động của tỷ giá đến hoạt động thương mại- xuất nhập khẩu trở nên rõ ràng hơn. Giá đồng nội tệ giảm xuống thực sự kích thích tăng trưởng xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Năm 1989 nếu tỷ giá giảm 1 đồng, xuất khẩu lập tức tăng lên 0,97 đồng, thì bước sang năm 1990 sau khi giảm tỷ giá xuống trên 60% thì 1 đồng giảm của tỷ giá lại khiến xuất khẩu tăng những 1,13 đồng, một mức tăng khá lớn, ta thấy được xuất khẩu co giãn hoàn toàn với tỷ giá do đó có tác động tích cực lên hoạt động xuất khẩu. Trong bốn năm 1989-1992 tác động của tỷ giá đến hoạt động nhập khẩu thể hiện qua thực trạng: mức giảm giá đồng nội tệ càng lớn thì mức tăng nhập khẩu càng giảm. Như năm 1989, mức giảm giá 30%, trong đó 1 đồng giảm giá kéo theo mức tăng 0,71 đồng thì bước sang năm 1990, tỷ giá giảm đến 60% đã lập tức giảm mức tăng nhập khẩu xuống còn 0,66 đồng.
Đặc biệt, sự kiện tỷ giá danh nghĩa giảm thấp hơn 7,04% so với tỷ giá thị trường cuối năm 1991 cùng với quyết định bãi bỏ “tỷ giá nhóm hàng” trong thanh toán ngoại thương năm 1992 đã khiến ngoại thương Việt Nam xuất siêu liên tục trong 6 tháng đầu năm 1992. Vào cuối năm 1992, cán cân thương mại thặng dư 40 triệu đô la. Nguyên nhân xuất siêu chính là do tỷ giá năm 1992 bởi tại thời điểm 92 giá thành sản xuất hàng Việt Nam còn cao, chất lượng còn thấp, công tác xúc tiến thương mại cũng chưa được coi trọng và cạnh tranh về giá được xem là yếu tố duy nhất đưa ngoại thương Việt Nam đạt thành tích trên. Nếu đầu năm 1991, buôn lậu qua biên giới Việt Nam -Trung Quốc tăng mạnh do hàng hóa của Trung Quốc được duy trì ở mức giá thấp hơn nhiều so với mức giá hàng hóa của nước ta thì cuối năm 1991, khi đồng Việt Nam bị phá giá mạnh so với đô la 50% từ khoảng 7000VND/đô la xuống 14500 VND/đô la thì tỷ giá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt giảm mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu thụ trên thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh với giá thấp hơn các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc.
Về tác động của tỷ giá lên cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu giai đoạn 1989-1992, cùng với sự tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trên cơ sở giảm giá VND, nền kinh tế đã tích lũy được một số vốn sử dụng trong việc đầu tư, mở rộng sản xuất. Sản xuất lương thực trong nước đối với một số mặt hàng nhờ có vốn đã bắt đầu đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước. Số lượng gạo nhập khẩu giảm, thay vào đó là các mặt hàng thuộc danh mục tư liệu sản xuất, nguyên nhiên vật liệu. Cơ cấu xuất khẩu cũng có sự thay đổi, danh mục các mặt hàng xuất khẩu được mở rộng. Năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô với sản lượng 1,5 triệu tấn, đó là chưa kể đến hàng loạt các nhà máy cũ được đổi mới, các nhà máy mới được xây dựng nhằm phục vụ công tác xuất khẩu. Ngoại thương được đa dạng hóa ở mức cao, tạo ra được gần 10 mặt hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu trên 100 triệu USD.
Đối với thị trường xuất nhập khẩu, do tỷ giá hối đoái neo với đồng đô la được xem là chuẩn mực nên khu vực thị trường xuất nhập khẩu cũng có xu thế chuyển hướng sang những khu vực sử dụng đồng đô la trong thanh toán. Tỷ trọng xuất nhập khẩu từ khu vực đồng Rúp giảm hẳn, chỉ còn khoảng 15% năm 1989 so với 85% năm 1987. Thị trường Đông Âu không còn giữ vai trò chủ đạo, mà thị trường Châu Á dần được coi trọng hơn trong hợp tác thương mại với Việt Nam trên lĩnh vực xuất nhập khẩu.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống nhất tỷ giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức tỷ giá hợp lý những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là một chủ trương đúng đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, giúp cải thiện cán cân thương mại và đặc biệt tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam trong phát triển kinh tế thông qua xuất khẩu.
2.2.2. Giai đoạn 1993-1996
Tình hình xuất siêu năm 1992 kéo dài không lâu. Ngay trong năm 1992, trong khi 6 tháng đầu năm xuất siêu do tỷ giá diễn biến có lợi cho xuất khẩu thì 6 tháng cuối năm, nhập siêu liên tục diễn ra. Trong khi báo chí ra sức cảnh báo việc tăng giá nội tệ sẽ hủy hoại xuất khẩu thì tỷ giá lại tiếp tục bị điều chỉnh theo hướng lên giá và ngày càng lệch xa khỏi trục tỷ giá thực.
Bên cạnh đó, nguyên nhân chính của việc chỉ đạo lên giá nội tệ lại được cho rằng là tình trạng lạm phát cao đang diễn ra, do đó cần nâng tỷ giá hối đoái để tăng cường tiêu dùng, giảm tỷ lệ lạm phát. Sau đó mức lạm phát đã giảm từ 17,5% năm 1992 xuống còn 5,2% năm 1993. Thế nhưng khi lạm phát tăng đột biến từ 5,2% năm 1993 lên 14,4% năm 1994 thì ảnh hưởng của việc nâng giá tiền tệ lại không được coi trọng. Tuy nhiên động lực làm giảm lạm phát trong thời kỳ này không phải là nâng giá tiền tệ mà do độ trễ trong xuất siêu 1992. Chính việc sự kiện phá giá giai đoạn 89-91 đã thúc đẩy xuất khẩu, một lượng ngoại tệ lớn được thu hút vào nước ta đã nâng sức mua thực tế của đồng Việt Nam cao hơn, từ đó lạm phát giảm xuống. Quan điểm chỉ đạo nâng giá nội tệ trong bối cảnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, khi chiến lược hướng về xuất khẩu vừa được thực hiên thực sự là vấn đề đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam giai đoạn này.
Đồ thị 1: Diễn biến tỷ giá danh nghĩa và tỷ giá thực (USD/VND) 1993-1999
Nguồn: Vụ ngoại hối, NHNN
Trong suốt thời kỳ 93-96, tỷ giá danh nghĩa (USD/VND) liên tục ở mức cao tương đối so với tỷ giá thực. Trong khi tỷ giá thực giảm đáng kể thì tỷ giá danh nghĩa hầu như không đổi. Có thể thấy rõ điều này trong biểu đồ 5, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa ngày càng lớn dần, năm có độ khoảng cách lớn nhất chính là 1996, đây cũng là năm tổng kim ngạch nhập khẩu tăng đột biến do nhập siêu đạt mức kỷ lục. Trên góc độ tài chính-tiền tệ, cách điều hành tỷ giá trong giai đoạn đầu thập niên 90 còn mang nặng tính chủ quan, việc ấn định tỷ giá còn quá đơn giản, không gần với thực tế bởi ngân hàng trung ương đã coi việc giảm tỷ giá danh nghĩa là phá giá đồng tiền mà không tính đến tương quan chỉ số giá tiêu dùng cũng như mức lạm phát giữa Việt Nam với các quốc gia khác. Năm 1994, tỷ lệ lạm phát nội tệ 14,4% và USD 3% tức USD tăng giá 11,4% so với VND song ngân hàng trung ương chỉ chỉ đạo tăng giá 1,8%. Việc giảm 1,8% được giải thích là đã phá giá nhẹ đồng nội tệ, làm sai lệch cơ chế điều hành tỷ giá vốn dựa trên qui luật thị trường và tiếp tục ảnh hưởng xấu đến hoạt động thương mại.
Những năm 90, có ý kiến cho rẳng tỷ giá không hề ảnh hưởng gì đến hoạt động xuất-nhập khẩu nói riêng cũng như ngoại thương nói chung, rằng hoạt động này chịu sự chi phối hoàn toàn của các chiến lược phát triển ngoại thương, cách quản lý hạn ngạch, cách áp đặt thuế suất và nhất là chất lượng sản phẩm. Nhưng thực tế cho thấy trong khi Bộ Thương Mại cùng các cơ quan chức năng đang ra sức củng cố, mở rộng thị trường xuất khẩu, đầu tư mới dây chuyền-công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản xuất hàng xuất khẩu thì mức tăng kim ngạch xuất khẩu lại sụt giảm. Cán cân thương mại thâm hụt nghiêm trọng, từ 1 tỷ năm 1994, rồi trên 2 tỷ năm 1995 và gần 4 tỷ năm 1996. Ngoại thương Việt Nam phát triển chậm trong giai đoạn này với thâm hụt cán cân lên đến hàng tỷ USD.
Bảng 3: Xuất-nhập khẩu Việt Nam trong tương quan với tỷ giá 1993-1999
Năm
Tỷ giá chính thức (USD/VND)
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Cán cân thương mại
Hệ số co giãn
Mức tỷ giá
%Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Kim ngạch (triệu USD)
% Tăng, giảm
Thâm hụt (triệu USD)
% Tăng, giảm
Xuất khẩu (ηx)
Nhập khẩu (ηn)
1993
10640
100
2985,2
100
3924
100
938,8
100
1994
10955
102,9
4054,3
135,8
5825,8
148,5
1771,5
143,7
1,32
-1,44
1995
10970
100,1
5448,9
134,4
8155,4
140
2706,5
149,7
1,34
-1,40
1996
11100
101,2
7255,9
133,2
11143,6
136,6
3887,7
153,6
1,32
-1,35
1997
11175
100,7
9185
126,6
11592,3
104
2407,3
126,2
1,26
-1,03
1998
12985
116,2
9360
101,9
11499,6
99,2
2139,6
122.9
0,88
-0,85
1999
14004
107.848
11541.4
123.306
11742.1
102.109
200.7
101,7
1,14
-0,94
Nguồn: Tính toán theo số liệu WB, Tổng Cục thống kê, Vụ ngoại hối-Ngân hàng nhà nước.
Với các số liệu tính toán từ bảng 3 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên độ +/- 0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn định cao hơn so với giá trị thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện thuận lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Trước tình trạng hàng trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước phải có chính sách cấm nhập khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Ví như giá đường trong nước năm 1993 nếu qui đổi ra USD là 544 USD/tấn trong khi giá đường nhập khẩu chỉ có 400USD/tấn thì cấm nhập khẩu đường là tất yếu. Thời điểm này,hàng hóa xuất khẩu lại gặp bất lợi . Trong 3 năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt Nam đã lên giá 24% và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên 24% trên các thị trường ngoại quốc. Nếu một đô la xuất khẩu gạo trả theo tỷ giá thực năm 1995 là 13.992 (hay chỉ 12.000 theo cách xóa dần tình trạng lên giá đồng nội tệ) thì nông dân sản xuất hàng xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ không bị lỗ đến hơn 1000 đồng/đôla. Giá tơ tằm xuất khẩu quy theo USD giai đoạn 93-96 tăng từ 18 USD lên 26 USD/kg làm sao có thể địch nổi giá tơ 21 USD/kg của Trung Quốc.
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần khiến đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật...Điều này cũng khiến việcmở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do việc giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được thực hiện mạnh mẽ nên qui mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu
2.2.3. Giai đoạn 1997-1999
Giai đoạn 1997-1999 là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác động mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng USD lên giá mạnh so với tất cả các đồng tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình đó, ngân hàng Trung Ương đã tiến hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: tăng biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-0,5% rồi +/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền Việt Nam nhằm tạo một mức tỷ giá mới sát với mức tỷ giá thực tế.
Tác động từ chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá 16% chỉ trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương mại Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn 2,4 tỷ USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập siêu chỉ còn 200 triệu USD.
Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước trong khu vực,khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam khó có thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu phần nào bị hạn chế (tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong năm 1998).
Bên cạnh đó, việc đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng khiến cho cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối ASEAN sang thị trường châu Âu.Cuộc khủng hoảng kinh tế khiến cho các quốc gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại tệ cũng là một phần nguyên nhân của hiện tượng này.
Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã mang lại những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời mở ra những cơ hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu. Có thể nói đây là một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
2.2.4. Giai đoạn 2000-2006
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống nhất trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong bối cảnh này, Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ giá Việt Nam được gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được nâng lên.
Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% đối với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ kì hạn ngày 1/7/2002.Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt Nam bị định giá cao hơn USD từ 10-20%.
Tác động của chính sách tỷ giá:
Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh được với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là hơn 3% năm 2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức nhập siêu là 4,55 tỷ USD. Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng dẫn đến tình trạng nhập khẩu hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được do mức giá nhập khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước.
Việc đồng Việt Nam lên giá cùng với những biến động bất thường về tỷ giá của USD, EUR… đã gây tổn hại lớn cho các dónh nghiệp xuất nhập khẩu.Thời kỳ này có nhiều ngoại tệ mạnh khác nhau được khuyến khích trong thanh toán, do đó rủi ro tỷ giá càng lớn hơn.Ví dụ như tháng 9/2002, đồng EUR mất giá mạnh từ 0,94USD xuống còn 0,84USD để làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu chịu thiệt hại một khoản 0,1EUR/USD. Trong vòng 2 tháng từ tháng 1/2003 đến tháng 3/2003, đồng EUR đột ngột tăng giá so với USD khiến cho chi phí nhập khẩu phát sinh cao, điển hình là công ty giày da thời trang T&T đã phải trả thêm 700 triệu đồng để mua 700.000EUR thanh toán cho việc nhập khẩu thiết bị sản xuất. Trong khi đó tại thị trường Mỹ, việc đồng Việt Nam bị định giá cao hơn 20% giá trị thực so với giá USD cũng làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải chịu tổn thất lớn.
Nói tóm lại, trong thời gian này, mặc dù trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt cơ chế tỷ giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt Nam bị neo giữ một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất trong kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.
2.2.5. Giai đoạn 2007-nay
Năm 2007, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng USD đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào Việt Nam làm phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá.
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%, vượt xa mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%).Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm 2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.5 tháng đầu năm 2008, nhập siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ USD).Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VNĐ, trong khi đó giá USD trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND.
Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân hàng để nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh nghiệp mua USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm doanh nghiệp được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 USD, nếu doanh nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển ra VND với tỷ giá 16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599 đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng.
Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động xuất nhập khẩu
Bảng 4: Tình hình xuất nhập khẩu Việt Nam từ năm 2007-2009
(Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á – ADB)
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá trong năm 2008 đạt 143,4 tỷ USD, tăng 28,9% so với năm 2007, trong đó xuất khẩu đạt 62,69 tỷ USD, tăng 29,1% so với năm trước, vượt 7% kế hoạch năm và nhập khẩu là 80,71 tỷ U
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh huong cua ty gia den hoat dong xuat nhap khau nhom 11.doc