Đề tài Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam

 

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 3

I. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở 3

1. Sự ra đời và phát triển của nghiệp vụ thị trường mở 3

2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở 4

II. Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở 5

1. Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng 5

2. Tác động qua lãi suất 6

III. Cơ chế hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở 6

1. Các nghiệp vụ thị trường mở 6

2. Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở 8

3. Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở 8

4. Những người tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở 10

IV. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ 12

CHƯƠNG II: SỬ DỤNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 14

I. Thực trạng của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian 14

1. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua 14

2. Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua 18

3. Tác dụng của thị trường mở 19

II. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn hiện nay ở Việt Nam 20

1. Sự phát triển các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam 20

2. Mức độ thị trường hoá của các công cụ ngắn hạn hiện có 25

III. Thực trạng hoạt động của thị trường mở - giải pháp và kiến nghị 26

1. Thực trạng của hoạt động thị trường mở ở Việt Nam 26

2. Giải pháp và kiến nghị 28

KẾT LUẬN 31

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 32

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng nghiệp vụ thị trường mở trong thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đảo, phong phú với nhiều mục đích khác nhau. a. Các ngân hàng thương mại: Các NHTM tham gia thị trường mở nhằm điều hoà mức dự trữ ngân quỹ để duy trì khả năng thanh toán, cho vay khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Đồng thời thông qua thị trường này các NHTM thực hiện nghiệp vụ môi giới và kinh doanh chứng khoán. Các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường mở vì: NHTM là trung gian tài chính lớn nhất, nhận một số lượng khổng lồ vốn tiền gửi và dùng tiền gửi huy động được để cho khách hàng vay; NHTM là thành viên đặc biệt của thị trường tiền tệ, vừa là người đi vay vừa là người cho vay. b. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm: các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ đầu tư, các hội tiết kiệm... Các tổ chức này coi thị trường mở như là một nơi kiếm thu nhập qua việc sử dịng vố nhàn rỗi để mua, bán các chứng khoán có giá ngắn hạn hoặc dài hạn. Các tổ chức này thường có khối lượng các chứng khoán lớn và họ thường xuyên thay đổi cơ cấu danh mục đầu tư nhằm đảm bảo mức sinh lời cao nhất và rủi ro dự tính thấp nhất. Đó là động cơ của họ để tham gia vào nghiệp vụ thị trường mở. c. Các doanh nghiệp sản xuất – kinh doang lớn: Các doanh nghiệp có nhu cầu bán các chứng khoán để đổi ra tiền mặt hay để kiếm lời trong thời gian ngắn nhất, khi thừa vốn kinh doanh các doanh nghiệp có thể mua các loại chứng khoán ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi... để kiếm lời. d. Các hộ gia đình: Hộ gia đình tham gia thị trường mở: như họ phải chuyển các chứng khoán ngắn hạn mà họ đang nắm giữ thành tiền mặt có tính lỏng mạnh nhất; họ mua các chứng khoán phòng ngừa những rủi ro bất ngờ; đầu tư vào các giấy tờ có giá nhờ vào sự thay đổi về lãi suất dự đoán e. Các nhà giao dịch chuyên nghiệp: Tham gia vào thị trường mở với tư cách là người trung gian trong việc mua bán các giấy tờ có giá giữa NHTW và các đối tác khác như các hãng sản xuất, kinh doanh, các nhà đầu tư tư nhân, các ngân hàng và các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua nghiệp vụ này họ hưởng chênh lệch giá mua bán. ở hầu hết các nước có thị trường mở phát triển thì 70% giao thông qua vai trò người giao dịch. Những người giao dịch thường là những công ty chứng khoán chuyên nghiệp. f. Ngân hàng trung ương: NHTW tham gia thị trường mở với vị trí là người điều hành, quản lý thị trường thông qua việc mua, bán các giấy tờ có giá ngắn hạn nhằm cung cấp cho hệ thống ngân hàng khả năng thanh toán cần thiết phù hợp với nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. NHTW sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trên cơ sở hoạch định chính sách tiền tệ. Qua đó NHTW quản lý khối lượng tiền cung ứng, kiểm soát và điều tiết hoạt động tín dụng của các tổ chức tín dụng. NHTW tham gia thị trường mở không phải để kinh doanh mà để quản lý, chi phối thị trường làm cho chính sách tiền tệ được thực hiện theo đúng mục tiêu của nó. g. Kho bạc nhà nước: Kho bạc nhà nước cung ứng hàng hóa cho thị trường mở như tín phiếu, trái phiếu kho bạc. Kho bạc cung cấp hàng hoá và kết hợp với NHTW trong các hoạt động của thị trường mở. IV. Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở cùng với các công cụ của chính sách tiền tệ: Để chính sách tiền tệ có hiệu quả cao thì NHTW phải phối hợp các công cụ tiền tệ một cách hợp lý. Nghiệp vụ thị trường mở là một công cụ của chính sách tiền tệ ra đời muộn hơn các công cụ khác. Tuy nhiên, nghiệp vụ thị trường mở lại là một công cụ hết sức linh hoạt và hiệu quả. Công cụ tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở đều nhằm mục đích tái cấp vốn khả dụng cho các NHTM. Không những thế, nghiệp vụ thị trường mở còn có thể rút vốn khả dụng của NHTM ra khỏi thị trường tiền tệ bằng việc nâng cao các lãi suất của các giấy tờ có giá. Điều này giúp NHTW kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng của các ngân hàng và lãi suất trên thị trường. Khi thực hiện nghiệp vụ tái chiết khấu, các NHTM đều biết trước lãi suất tái chiết khấu, còn lãi suất trên thị trường mở luôn biến động, nên NHTM khó dự đoán được. Chính sự linh hoạt của nghiệp vụ thị trường mở đã khắc phục được những hạn chế của công cụ tái chiết khấu. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ hỗ trợ cho công cụ tái chiết khấu vì công cụ tái chiết khấu chỉ có hiệu lực khi các NHTM phụ thuộc NHTW về vốn khả dụng. Đối với công cụ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở được tién hành đồng thời, nó cho phép NHTW chủ động điều tiết dự trữ của hệ thống ngân hàng. Dự trữ bắt buộc được sử dụng để làm tăng hoặc giảm nhu cầu về vốn khả dụng của NHTM dẫn tới việc mua, bán các giấy tờ có giá cho NHTW. Để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ, NHTW sử dụng nhiều công cụ đa dạng trong đó có công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Nghiệp vụ thị trường mở được sử dụng linh hoạt trong bất cứ chính sách tiền tệ nào. Nó tạo ra sự cạnh tranh giữa các chủ thể trong nền kinh tế – xã hội, nó có khả năng tác động trực tiếp vào cơ số tiền và khả năng thanh toán vừa phù hợp với khả năng thanh toán vừa phù hợp với thị trường cả về xu hướng tăng hoặc giảm tiền tệ. Chính vì vậy mà công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng vào việc thực hiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam bắt đầu từ ngày 12/07/2000. Chương 2 Sử dụng nghiệp vụ thị trường mở trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam I. Thực trạng của việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua: 1. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Sau khi pháp lệnh ngân hàng nhà nước được ban hành năm 1990, NHNN đã thực hiện điều hành chính sách tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, hạn mức tín dụng, trần lãi suất cho vay và tỉ giá ngoại tệ. Trừ công cụ tái cấp vốn, các công cụ còn lại đều tác động trực tiếp đến mục tiêu trung gian là tổng phương tiện thanh toán M2 a. Các công cụ dự trữ bắt buộc: Cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc đã thay đổi đáng kể từ năm 1995 nhăm tăng hiệu quả của dự trữ bắt buộc với tư cách là công cụ điều tiết số dự trữ vượt mức của các tín dụng. Theo quyết định số 260 và 261/QĐ - NH1 ngày 19/9/1995 cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thay đổi cơ bản như sau: Tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc được thống nhất vào một tài khoản. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% áp dụng thống nhất cho các loại tiền gửi dưới 1 năm( tỷ lệ này thay đổi thường xuyên từ năm 1999), với cơcấu 70% phải gửi tại NHTW và 30% là tiền mặt, ngân phiếu thanh toán còn giá trị lưu hành tòn quỹ tại tổ chức tín dụng. Kỳ tính dự trữ bắt buộc là 15 ngày 1 kỳ, về sau đổi thành một tháng theo quyết định 51/1999 QĐ - NHNN 1 tháng /1999. Mức tiền dự trữ bắt buộc hàng kỳ được tính trên cơ sở tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Thống đốc quy định đối với toàn bộ số dư tiền gửi bình quân phải dự trữ bắt buộc trong kỳ trước của tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bứt buộc phải gửi tại NHNN – tức là dự trữ bắt buộc theo ngày. Công cụ dự trữ bắt buộc có ưu điểm: phát huy được hiệu quả của nó khi các tổ chức tín dụng phai quan tâm hơn đến tình trạng vốn khả dụng để đảm bảo yêu cầu dự trữ bắt buộc. Việc điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc liên tục trong năm 1999 chứng tỏ tính tích cực trong việc sử dụng công cụ này nhằm mở rộng khả năng cho vay và giảm chi phí vốn cho các tổ chức tín dụng, hay nói cách khác là làm tăng khả năng kiểm soát của NHNN với M1 Tuy nhiên công cụ dự trữ bắt buộc cũng có những hạn chế: Do quy định dự trữ bắt buộc chỉ áp dụng đối với các loại tiền gửi dưới 12 tháng nên khả năng kiểm soát lượng tiền M2 còn hạn chế. Bên cạnh đó, việc quy định trả lãi cho tiền gửi dự trữ vượt không khuyến khích cho các NHTM sử dụng tối đa nguồn vốn dẫn đến tình trạng dự trữ vượt nhiều, hạn chế các hoạt động cho vay. Dự trữ bắt buộc được quản lý theo phương pháp bình quân ngày trong tháng, trong điều kiện số dư tiền gửi biến động mạnh và có xu hướng ngày càng tăng trong thời gian qua thì phương pháp quản lý này dẫn đến sự chênh lệch lớn giữa lượng tiền gửi thực tế và tiền gửi của thời kì xác định làm giảm hiệu lực điều tiêt dự trữ của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra các tổ chức tíndụng không tôn trọng nghiêm ngặt yêu cầu dự trữ bắt buộc do trình độ quản lý của tổ chức tín dụng và việc xử phạt không nghiêm của NHNN đối với các trường hợp vi phạm. b. Công cụ tái cấp vốn: Theo quyết định 285/QĐ - NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc NHNN, công cụ tái cấp vốn được thực hiện qua các hình thức: cho vay theo mục tiêu chỉ định của chính phủ, cho vay thế chấpchứng từ, ngày 24/12/1997 Thống đốc NHNN đã có quyết định số 431 – 1997/QĐ - NH14 bổ sung hình thức cho vay có thể thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM tại NHNN để đảm bảo khả năng thanh toán của các NHTM, thời hạn cho vay tối đa là 6 tháng. Đối tượng tái cấp vốn là các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân trung ương, nhưng trên thực tế chủ yếu các khoản tái cấp vốn được tập trung ở NHTM quốc doanh, rất ít các NHTM cổ phần được tái cấp vốn. Cho đến năm 1997, lãi suất tái cấp vốn theo tỷ lệ phần trăm lãi suất cho vay trên dự án cho vay của các tổ chức tín dụng bằng từ 60% đến 100% lãi suất cho vay trên khế ước. Trong thực tế, mức lãi suất tái cấp vốn giảm liên tục từ 1,1% trong tháng cuối năm 1998 xuống 0,5% trong tháng cuối năm 1999. Bên cạnh việc cho vay tái cấp vốn theo quyết định số 285/QĐ - NH14, NHNN còn thực hiện cho vay thanh toán bù trừ, thực chất đây là hình thức tái cấp vốn ngắn hạn của NHNN đối với các NHTM để bù đắp thiếu hụt tạm thời. Thời hạn cho vay thanh toán bù trừ tối đa không quá 10 ngày. Lãi suất cho vay thanh toán bù trừ hiện nay của NHNN đối với các NHTM là 0,06%/ngày đối với thời hạn từ 1 ngày đến 5 ngày và 0.09%/ngày đối với thời hạn từ 6 ngày đến 10 ngày. So với mức lãi suất tái cấp vốn hiện hành, mức lãi suất cho vay thanh toán bù trừ nêu trên là mức tương đối cao, khiến cho các NHTM phải bù đắp nhanh số vốn thiếu hụt trong thanh toán. Công cụ tái cấp vốn đã bước đầu hình thành cơ chế cho vay các NHTM trên cơ sở bù đắp thiếu hụt thanh toán, đáp ứng nhu cầu thiếu vốn cho của các NHTM nền kinh tế. Nó tạo ra kênh cung ứng vốn tín dụng có sự kiểm soát của NHNN, qua đó NHNN có thể kiểm soát được lạm phát. Việc cho vay thanh toán bù trừ đã hỗ trợ việc phát triển hệ thống thanh toán giữa các tổ chức tín dụng. Nhưng, công cụ tái cấp vốn còn chưa được thực hiện phổ biến mà chỉ sử dụng cho 4 NHTM quốc doanh. Trong đó, hơn 70% hoạt động tái cấp vốn là dành cho mục tiêu chỉ định của Chính phủ mà không xuất phát từ nhu cầu bổ sung vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, điều này đã phần nào gây hạn chế tính năng động của công cụ tái cấp vốn. Hiệu jực tác động của công cụ tái cấp vốn thấp, không có tác dụng kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ của các tổ chức tín dụng và cũng không có khả năng chi phối lãi suất của thị trường tiền tệ. c. Hạn mức tín dụng: Việc sử dụng công cụ hạn mức tín dụng trong thời gian qua đã góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán của NHNN, góp phần hạn chế lạm phát ở mức thấp và nâng cao chất lượng tín dụng. Trong điều kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, NHNN chưa thể sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp như thị trường mở, để kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán thì việc sử dụng công cụ này nhằm hạn chế hệ số nhân tiền tệ, nâng cao chất lượng tín dụng là cần thiết. Tuy nhiên công cụ này cũng có những hạn chế: Hạn mức tín dụng mới chỉ được phân bổ đối với một số NHTM làm hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Công cụ này chưa được điều chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, Phần nào làm ảnh hưởng đến việc đấp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế, đến kinh doanh của các NHTM. Chính vì những hạn chế này, đến quý 2 năm 1998, NHNN đã không sử dụng công cụ này như một công cụ thường xuyên mà chỉ sử dụng khi hạn chế sự gia tăng tín dụng nhanh chóng. d. Công cụ lãi suất: Công cụ lãi suất được sử dụng trong việc điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua về cơ bản đã thu được những thành công nhất định. Tuy nhiên, với cơ chế trần lãi suất cho vay vẫn còn những nhược điểm không còn phù hợp với diễn biến thị trường và làm giảm hiệu lực điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Trước hết, chính sách lãi suất hiện nay không còn làm cho lãi suất thực sự trở thành công cụ để NHNN kiểm soát khối lượng tiền tệ. Với cơ chế này, lãi suất chưa thực sự gắn liền với cung cầu vốn trên thị trường, cũng không phản ánh mức độ rủi ro của món vay và trong một chừng mực nhất định hạn chế khả năng kinh doanh của các NHTM, sự phát triển của hệ thống NHTM và cơ chế hoạt động của thị trường tiền tệ Thứ hai, mặt bằng lãi suất đã ở mức quá thấp gây khó khăn cho các NHTM trong việc huy động vốn, đặc biệt là vốn dài hạn. Vào năm 1999, lãi suất danh nghĩa thấp nhưng lãi suất thực cao, do vậy xác định mức trần lãi suất cao hay thấp đều không đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên. Nếu lãi suất trần quy định đảm bảo lãi suất thực không cao thì có lợi cho doanh nghiệp, nhưng các NHTM sẽ rất khó khăn trong hoạt động. Nếu đưa mức lãi suất đảm bảo cho các NHTM hoạt động bớt khó khăn thì mức lãi suất thực cao, điều đó sẽ gây khó khăn cho việc kinh doanh của các doanh nghiệp và việc mở rộng đầu tư tín dụng vốn đã khó khăn lại càng khó khăn. 2. Đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua. Việc sử dụng các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ trong thập kỷ qua đã đem lại những thành công đáng kể khi nhìn vào các chỉ số phản ánh sự biến động của các mục tiêu vĩ mô: tỷ lệ lạm phát ở mức độ một con số và tốc độ tăng trưỏng kinh tế đạt bình quân 8,6% /năm trong cùng thời kì. Điều này là hoàn toàn phù hợp với các điều kiện cụ thể về kinh tế, quản lý, khả năng và nhu cầu về vốn. Thế nhưng, nếu quan niệm: mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lạm phát ở mức thấp thì trong thời gian qua, mục tiêu này vẫn chưa được thực hiện một cách hoàn hảo: tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán gây nên sự phân phối lại trong nền kinh tế. Trong năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng chỉ số giá cả CPI có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và cả trong năm 1999. Điều này chứng tỏ sự hạn chế trong hiệu quả tác động của các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp, thể hiện ở sự thiếu chủ động, linh hoạt và khả năng truyền dẫn tác động chậm chạp. Các công cụ trực tiếp không cho phép NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện dư thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các NHTM bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đén nay làm cho các NHTM phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn, đồng thời làm giảm hiệu quả tác động của chính sách tiền tệ, đặc biệt là hiệu lực của công cụ tái cấp vốn. Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này được thể hiện trong các năm 1998,1999 khi trần lãi suất cho vay_ công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ_ giảm liên tục nhưng khối lượng tín dụng không tăng tương ứng, đồng thời giá cả và sản lượng giảm xuống liên tục. Các quyết định giảm trần lãi suất cho cay thường là bị động nhằm mục đích điều chỉnh lại theo lãi suất thị trường và do đó chúng có tác dungj khẳng định xu hướng của thị trường hơn là hướng dẫn và dự báo xu hướng đó. Hiệu quả của chính sách tiền tệ thấp còn bởi vì nó chỉ sử dụng được kênh dẫn truyền duy nhất là qua NHTM_kênh tín dụng. Các kênh tác động khác qua lãi suất và thị trường tài chính chưa phát huy được là do thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán chưa phát triển. Vì vậy tác động chủ yếu của chính sách tiền tệ vừa qua chủ yếu là thông qua tác động về khối lượng. Để khắc phục hạn chế này, bên cạnh việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các công cụ hiện có, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết. Công cụ này cho phép NHNN có thể điều tiết nhanh, linh hoạt và chủ động khối lượng tiền trung ương, từ đó tác động đến các khối tiền cung ứng khác. Vì vậy, hình thành thị trường mở trở thành mục tiêu của nhiều NHTW cũng như NHTW Việt Nam trong việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ. 3. Tác dụng của thị trường mở. a. Đối với chính phủ. Thị trường mở giúp Chính phủ thực thi chính sách tài chính quốc gia có hiệu quả. Các quyết định của Chính phủ về quản lý nợ và cân đối tiền có ảnh hưởng quan trọng tới nghiệp vụ thị trường mở. Kho bạc nhà nước thường đưa ra quyết định quản lý nợ còn NHTW lại liên quan đến dự trữ nhân hàng. Giữa hai bộ này thường có quan hệ với nhau tuỳ theo đặc điểm và hoạt động tài chính của mỗi nước khi NSNN bội chi, Bộ tài chính có thể phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp phần bội chi. Để duy trì sự rõ ràng giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính, các khoản nợ này thường được kho bạc bán ra dưới hình thức đấu giá tự do giups cho thị trường cạnh tranh có hiệu quả. Thông thường NHTW không có quyền xử lý tiền gửi của Chính phủ, nhưng ở hầu hết các nước, các quy định về quản lý nợ được dựa vào số liệu đầu vào chính thức và không chính thức của NHTW. Vì vậy, nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam sẽ giúp cho mối quan hệ giữa NHNN và Bộ tài chính được thống nhất, có hiệu quả, giúp thực hiện các chính sách kinh tế có hiệu quả. b. Đối với các tổ chức tín dụng. Nghiệp vụ thị trường mở sẽ làm tăng tính thanh khoản của tài sản có của các ngân hàng khi tạo nên thị trường thứ cấp cho các tài sản tài chính mà nó nắm giữ. Điều này sẽ làm tăng dự trữ tiền mặt và tăng khả năng sinh lời của ngân hàng, góp phần cải thiện tình hình tài chính cho các ngân hàng. Mặt khác, yêu cầu về chủng loại và chất lượng các giấy tờ có giá được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ gián tiếp làm thay đổi danh mục đầu tư vào các giấy tờ có giá của các ngân hàng, từ đó mà cải thiện theo hướng tích cực cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng, giảm bớt dự trữ không sinh lời và cải tạo bảng tổng kết tài sản. Như vậy, trong giai đoạn hiện nay, việc áp dụng nghiệp vụ thị trường mở có ý nghĩa vô cùng quan trọng và công cụ trên thị trường mở cũng là vấn đề rất đáng quan tâm. II. Tính chất hàng hoá của công cụ ngắn hạn hiện nay ở Việt Nam. 1. Sự phát triển các loại giấy tờ có giá ngắn hạn ở Việt Nam: Cho đến nay các công cụ ngắn hạn ở Việt Nam còn rất đơn giản, đang còn ở giai đoạn đầu và chưa thể hiện tính chất đầy đủ vốn có của nó. Nổi trội hơn là các loại tín phiếu, trái phiếu kho bạc mà Kho bạc Nhà nước đã phát hành trong những năm qua. a. Tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạc là giấy vay nợ nhắn hạn của Kho bạc Nhà nước nhằm bù đăps bội chi Ngân sách Nhà nước. Thời gian của tín phiếu kho bạc thường là dưới 1 năm. Trong giai đoạn 1991 đến 1998, việc huy động vốn trong nước chủ yếu là dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu Chính phủ có thể được phát hành thông qua hình thức trực tiếp cho công chúng thông qua đấu thầu hay qua đại lý. Bắt đầu từ 08/06/1995 trái phiếu Chính phủ được phát hành qua đấu thầu tại Ngân hàng Nhà nước. Cho đến hết năm 1999, số lượng trái phiếu Chính phủ được phát hành qua đấu thầu lên tới 10718,1 tỉ đồng. Lãi suất đấu thầu trái phiếu thường thấp hơn lãi suất do kho bạc Nhà nước phát hành từ 2-3%. Thời hạn các trái phiếu là ngắn hạn, thường là 1,2,3 năm. Lãi suất của trái phiếu Chính phủ từng bước được hạ dần cho phù hợp với lãi suất thị trường, góp phần giảm nhẹ gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên mức lãi suất chưa thật hợp lý nên nhiều khi lượng đăng ký dự thầu cao nhưng lượng trúng thầu thấp hơn nhiều so với dự kiến phát hành số lượng tín phiếu, trái phiếu kho bạc phts hành còn quá nhỏ bé chưa tương xứng với nhu cầu sử dụng vốn và tiềm năng vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thị trường. Thành viên tham gia vào thị trường đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc thường là các tổ chức tín dụng lớn như Ngân hàng thương mại quốc doanh, NHTM cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài, công ty bảo hiểm quỹ đầu tư. Năm 1995: số thành viên tham gia đấu thầu là 36 tổ chức; năm 1996 là 44; năm 1997 là 47; năm 1998 là 48; năm 1999 là 48. Thị trường tín phiếu kho bạc hiện có là thị trường sơ cấp, chưa phải là thị trường thứ cấp phục vụ đông đảo cho các tầng lớp dân cư. Trái phiếu kho bạc được phát hành trực tiếp cho dân cư ít được chiết khấu và chuyển nhượng. Phương thức phát hành và thanh toán trái phiếu Chính phủ đã được cải thiện từng phần như thanh toán một phần cả gốc và lãi khi đến hạn, thanh toán định kỳ 6 tháng 1 lần, thanh toán lãi trước... Tuy nhiên, các thành viên tham gia vào thị trường mua bán tín phiếu, trái phiều kho bạc còn hạn chế. Mặt khác, nguồn vốn huy động của các NHTM Việt Nam chủ yếu là nguồn vón ngắn hạn nên khả năng mua trái phiếu có thời hạn bị hạn chế. b. Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước: Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước là giấy nhận nợ nhắn hạn, có lãi suất do Ngân hàng Nhà nước phát hành nhằm tạo ra công cụ để điều hành thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chíh sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Đây là chính sách chiết khấu được Ngân hàng Nhà nước bán với giá thấp hơn mệnh giá, giá bán được hình thành theo quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường tiền tệ. Thời hạn của tín phiếu được xac định là 1,3,6 hoặc 9 tháng; mệnh giá có nhiều loại mà tối thiểu là 500 triệu VND, tối đa là 10.000 triệu VND. Tổng giá trị phát hành từng đợt và mệnh giá cụ thể do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước công bố trước mỗi đợt phát hành. Các tín phiếu được bán dưới hình thức đấu giá theo 1 trong 2 phương thức: đấu giá khối lượng và đấu giá giá bán. Người mua tín phiếu là các tổ chức tín dụng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Ngân hành Nhà nước đã tổ chức được 3 đợt đấu thầu tín phiếu vào cuối năm 1995 và đầu 1996 vớ tổng số phát hành là 1565,5 tỷ VND, thời hạn từ 1 đến 3 tháng, lãi suất 0,7%/tháng trả trước. Đến tháng 1/1999, NHNN phát hành lượng tín phiếu NHNN với tổng giá trị là 600 tỷ đồng; thời hạn 3 tháng, lãi suất 0,9%/ tháng. Ngày 28/04/1999, NHNN đã phát hành 700 tỷ VND tín phiếu NHNN với phương thức bắt buộc. Trong những năm qua, số lượng tín phiếu NHNN được phát hành rất ít, phát hành không thường xuyên. Các tổ chức tín dụng tham gia mua tín phiếu chủ yếu là NHTM quốc doanh thời hạn tín phiếu rất ngắn thường là 3 tháng. Để trở thành công cụ điều hành thị trường tiền tệ có hiệu quả thì tín phiếu NHNN phải đáp ứng hơn nữa cả về số lượng và chất lượng. Theo quy chế phát hành tín phiếu NHNN số 362/1999 QĐ-NHNN1 ngày 08/19/1999 thì tín phiếu được tự do mua bán, chuyển nhượng, cầm cố giữa các tổ chức tín dụng, được cầm cố để vay vốn hoặc chiết khấu giưa các NHNN, được sử dụng làm công cụ cho nghiệp vụ thị trường mở. Thời hạn tín phiếu là dưới 1 năm, mệnh giá tối thiểu là 100 triệu đồng và các mức mệnh giá bằng bội số của 100 triệu đồng. c. Kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng: Từ năm 1992 cho đến nay, các NHTMmà chủ yếu là các NHTM quốc doanh đã phát hành các loại kỳ phiếu ngân hàng ngắn hạn của mình. Các NHTM cổ phần và công ty tài chính cũng đã phát hành các loại giấy tờ có giá, các trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng này có mục đích là một loại giấy nhận nợ của nhân hàng nhằm huy động vốn trong dân cư, đáp ứng cho một dự án kinh tế nhất định, chúng có lãi suất in sẵn, có thể được trả lãi trước khi mua kỳ phiếu. Hiện nay số lượng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng được phát hành ra với số lượng ngày càng tăng. Điều này đã tạo thói quen đầu tư kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng trong dân chúng, mở ra một hình thức đầu tư mới bên cạnh việc gửi tiết kiệm vào ngân hàng. Tuy nhiên các kỳ phiếu, trái phiếu vẫn còn mọt số điểm hạn chế. Thời hạn của kỳ phiếu, trái phiếu thông thường là 3 thàng hoặc 6 tháng và tối đa là một năm. Do đó để đảm bảo cho kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng được chuyển nhượng giữa những người đầu tư (trong điều kiện thị trường còn rất hạn hẹp) thị trời hạn của kỳ phiếu, trái phiếu cần đa dạng hơn. Các NHTM không phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng một cách thường xuyên. Thông thường, khi nào các ngân hàng cần vốn đầu tư ngắn hạn thì các ngân hàng mới phát hành kỳ phiếu. Vì lẽ đó, lượng kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng trong nền kinh tế không nhiều, chưa đủ sức tạo ra một thị trường thứ cấp về kỳ phiếu ngân hàng. Các kỳ phiếu, trái phiếu phát hành trong những năm qua thực chất như một loại sổ tiết kiệm có lãi suất cố định, tính chuyển nhượng rất thấp. Tỷ lệ vốn huy động trong việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của họ. Điều này có thể cho thấy là các NHTM chưa thực sự chú trọng đến việc huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng. Do đó các NHTM chưa thu hút được triệt để nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Việc phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng ngắn hạn mới chủ yếu là hoạt động của các NHTM quốc doanh. NHTM cổ phần gần như chưa huy động vốn dưới hình thức này, không phải các NHTM cổ phần không có nhu cầu vốn đầu tư mà là các ngân hàng này chưa tạo được niềm tin cho dân chúng, tình hình tài chính chưa thật sự lành mạnh, niềm tin đối với người đầu tư chưa cao. Các ngân hàng liên doanh và chi nhánh NHNN cũng ít khi và hầu như không huy động vốn dưới hình thức này. d. Thương phiếu: Thương phiếu là một công cụ nợ ngắn hạn do các doanh nghiệp phát hành trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá. Từ khi có các luật liên quan đến thương

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0975.doc