Đề tài Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Đưa ra quyết định áp dụng pháp luật. Đây là giai đoạn quan

trọng bởi nó phản ánh kết quảthực tếcủa quá trình áp dụng pháp luật của các

chủthểcó thẩm quyền. Vềbản chất, đây là giai đoạn chuyển hóa những qui

định chung được nêu ra trong các qui phạm pháp luật thành những qui định cụ

thể, cá biệt. Các quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra phải đảm bảo tính

khách quan, hợp pháp cũng nhưsựphù hợp cảvềnội dung và hình thức. Sựphù

hợp của quyết định áp dụng pháp luật được đưa ra cần phải xem xét ởcảhai

khía cạnh là pháp lý và thực tế. Theo đó, mức độcá thểhóa càng chi tiết, sát

thực vềnội dung, yêu cầu và đảm bảo khách quan thì quyết định áp dụng pháp

luật càng chính xác, hiệu quả. Quyết định áp dụng pháp luật có thể được thể

hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản. Việc các quyết định áp dụng pháp luật

được thểhiện bằng lời nói trên thực tếkhông phổbiến nhưng không có phải là

không có trong thực tiễn lịch sửpháp lý. Thực ra đây là hình thức mệnh lệnh có

tính chất pháp lý bất thành văn tồn tại chủyếu ởcác chế độchiếm hữu nô lệvà

phong kiến. Trong giai đoạn hiện nay, việc sửdụng hình thức mệnh lệnh này

không còn phổbiến nhưng trong một sốtrường hợp do điều kiện thực tếkhông

cho phép hoặc không cần ban hành văn bản áp dụng pháp luật thì phải sửsử

dụng nó. Chẳng hạn, người chỉhuy các tàu chiến hoặc máy bay chiến đấu đưa

ra quyết định trong trường hợp khẩn cấp

pdf276 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15750 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp luật qui định những yêu cầu cụ thể về nội dung, hình thức cũng như qui trình thủ tục ban hành cho từng loại văn bản áp dụng pháp luật. Điều này là hết sức cần thiết bởi nếu không có sự thống nhất về hình thức, qui trình thì có thể dẫn đến những vướng mắc, xung đột về nội dung, thẩm quyền áp dụng. Qui trình thủ tục của áp dụng pháp luật có thể đầy đủ hoặc rút gọn tùy thuộc vào qui định pháp luật cho từng lĩnh vực và điều kiện hoàn cảnh thực tế về nội dung của sự việc được áp dụng. - Văn bản áp dụng pháp luật chứa đựng các mệnh lệnh pháp lý cá biệt, cụ thể hoặc xác định rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể hoặc các hình thức khen thưởng cụ thể hoặc các biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể đối với các chủ thể cụ thể. Ví dụ quyết định lên lương, quyết định khen thưởng, quyết định, bản án của toà án... Đây là đặc điểm làm cho văn bản áp dụng pháp luật có nội dung hoàn toàn khác với văn bàn qui phạm pháp luật. Các mệnh lệnh pháp lý cá biệt thường nêu lên giới hạn về mức độ của hành vi mà các chủ thể được phép tiến hành, phải tiến hành hoặc những biện pháp cấm đoán, tặng thưởng hoặc hạn chế những lợi ích vật chất hoặc tinh thần đối với chủ thể vì những lý do được pháp luật qui định. - Văn bản áp dụng pháp luật được thực hiện một lần đối với chủ thể có liên quan. Đây là đặc điểm cơ bản của văn bản áp dụng pháp luật để phân biệt với văn bản qui phạm pháp luật. Trên thực tế, văn bản áp dụng pháp luật được ban hành nhằm cá thể hóa quyền, nghĩa vụ pháp lý hoặc cá biệt hóa chế tài pháp luật nên không thể vì một văn bản, quyết định áp dụng pháp luật mà chủ thể được hoặc phải thực hiện nhiều lần trong đời sống pháp lý. - Văn bản áp dụng pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp nhà nước. Đảm bảo bằng biện pháp nhà nước là đìều kiện để các văn bản, quyết định áp dụng pháp luật có đủ khả năng được thực thi trên thực tế một cách nghiêm minh và hiệu quả. Đối với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo yêu cầu được nêu ra trong văn bản, quyết định áp dụng pháp luật thì nhà nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc thực hiện. 3.4. Tổ chức thực hiện trên thực tế quyết định áp dụng pháp luật đã được ban hành và đã có hiệu lực pháp lý. Trước hết có thể nói, hiện nay trong khoa học và thực tiễn pháp lý nước ta còn có ý kiến khác nhau đối với giai đoạn này. 134 Có ý kiến khẳng định, đây không phải là một giai đoạn trong qui trình áp dụng pháp luật. Qui trình áp dụng pháp luật có kết quả cuối cùng là đưa ra quyết định áp dụng pháp luật. Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng là hoạt động có tính liên tục được thực hiện ở cùng chủ thể đưa ra quyết định đó. Chẳng hạn, toà án xét xử vụ án dân sự và ban hành ra bản án hoặc quyết định về vụ án đó nhưng việc tổ chức thi hành án lại do cơ quan thi hành án dân sự thực hiện. Tuy nhiên cũng có quan điểm khác cho rằng, tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cần phải coi là một giai đoạn của qui trình áp dụng pháp luật. Mặc dù không phải lúc nào chủ thể đưa ra quyết định áp dụng pháp luật cũng đồng thời tổ chức thực hiện quyết định đó. Xét theo quan điểm toàn diện cho thấy, về mặt nội dụng, mục đích của việc áp dụng pháp luật phải được cụ thể hoá trên thực tế. Đó là một qui trình thống nhất và toàn vẹn của nhiều yếu tố liên thông, là kết quả của việc chuyển hoá cái chung của qui định của pháp luật thành cái riêng, cụ thể vào đời sống thực tiễn. Áp dụng pháp luật chỉ có giá trị thực và hiệu lực khi nội dung quyết định cá biệt được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện. Như vậy, việc chủ thể tiến hành áp dụng pháp luật không tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật của mình đưa ra hoàn toàn không phủ nhận đó là một giai đoạn cuối cùng của áp dụng pháp luật. Việc bảo đảm cho các quyết định áp dụng pháp luật có hiệu lực thực thi trên thực tế có ý nghĩa quan trọng bởi mục đích điều chỉnh của pháp luật mới đạt được trên thực tế. Để các quyết định áp dụng pháp luật được các chủ thể có liên quan tôn trọng thực hiện cần chuẩn bị tốt các điều kiện thiết yếu để các chủ thể đó có khả năng thực hiện quyền, nghĩa vụ pháp lý cũng như trách nhiệm và trách nhiệm pháp lý của họ như: các điều kiện về kỹ thuật, pháp lý, tổ chức, xã hội và tư tưởng…v.v. Cần tiến hành các hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực thi các quyết định áp dụng pháp luật đối với các chủ thể có liên quan để đảm bảo hiệu lực và hiệu quả của nó trên thực tế. 4. Một số điểm về qui trình áp dụng pháp luật ở nước ta hiện nay Cùng với quá trình đổi mới một cách toàn diện về kinh tế xã hội và cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, trong thời gian qua, qui trình áp dụng pháp luật cũng đã có bước thay đổi tích cực nhất định. Có thể khái quát một số điểm cơ bản sau: - Các qui định pháp luật về qui trình áp dụng pháp luật có tính thống nhất đồng bộ hơn Tuy nhiên, trong không ít lĩnh vực các qui định pháp luật vẫn còn tình trạng có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến khó khăn cho quá trình áp dụng pháp luật nói chung và trực tiếp ảnh hưởng đến quy trình áp dụng pháp luật nói riêng. Chẳng hạn, theo khoản 1 Điều 9 Nghị định số 35/2005/NĐ - CP ngày 17/3/2005 của Chính phủ về việc xử lý cán bộ, công chức thì “thời hiệu xử lý kỷ luật là khoảng thời gian qui định phải tiến hành xem xét kỷ luật cán bộ, công chức và được tính từ thời điểm cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật xác định cán bộ, công chức có hành vi vi phạm kỷ luật cho đến thời điểm Hội đồng kỷ luật họp”. Theo đó, thời điểm bắt đầu của thời hiệu xử lý kỷ 135 luật là thời điểm cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật xác định cán bộ, công chức có hành vi vi phạm kỷ luật. Tuy nhiên, thời điểm cụ thể để bắt đầu tính thời hiệu xử lý kỷ luật là khi nào? Đó không phải là thời điểm hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trên thực tế bởi lẽ không ít hành vi vi phạm pháp luật xảy ra nhưng các cơ quan, tổ chức, đơn vị hoàn toàn không hay biết Nhưng, cũng không thể tính từ thời điểm cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền biết được có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trên thực tế vì không thể có cơ sở nào để khẳng định đó đúng là thời điểm các chủ thể này chính thức biết được hành vi vi phạm pháp luật. Và, với qui định thời hiệu xử lý kỷ luật là 03 tháng trong khi sự khác biệt về xác định thời điểm tính thời hiệu không rõ ràng liệu có bị lợi dụng để phục vụ cho nhưng toan tính khác hay không. - Qui trình thủ tục áp dụng pháp luật từng bước có tính đơn giản, hiệu quả nhằm giảm thiểu những phiền hà, lãng phí. Đây có thể nói là một điểm tích cực đáng kể được biểu hiện một cách rõ nét trong quá trình cải cách thủ tục hành chính ở nước ta thời gian qua. Trước hết nhìn từ chính sách một cửa trong thủ tục hành chính nhằm giải quyết các loại giấy tờ vốn dĩ trước đây mất thời gian khá lâu như về chuyển nhượng đất đai, cấp sổ đỏ (sổ hồng) cho các chủ hộ gia đình hoặc tổ chức kinh doanh bất động sản. Trong lĩnh vực hoạt động của ngành Hải quan cũng đã thực hiện việc kê khai hàng hoá xuất nhập khẩu được thông quan bằng điện tử. Điều này cũng đã được ngành công an áp dụng trong lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh bằng việc thực hiện kê khai qua mạng Internet để làm thủ tục cấp hộ chiếu. Lợi ích của cải cách thủ tục hành chính qua đó đã cho thấy đã giảm thiểu đáng kể thời gian chờ đợi, ùn tắc công việc cũng như hạn chế được các phức tạp, tiêu cực và tiết kiệm được nhiều loại chi phí khác. Trong lĩnh vực tư pháp, lộ trình cải cách tổ chức bộ máy cơ quan toà án, viện kiểm sát cũng đã đem lại những biến chuyển tích cực cả về qui trình tố tụng. Với việc tăng thẩm quyền xét xử của toà án cấp quận, huyện và thị xã cũng đã giảm áp lực công tác xét xử cho các toà án cấp tỉnh, thành phố. Hơn nữa, nếu như trước đây thủ tục thẩm vấn được sử dụng trong các phiên toà xét xử các vụ án thì hiện nay, hình thức này đã được thay bằng thủ tục tranh tụng nhằm bảo đảm sự tôn trọng đối với quyền của các bên tham gia tố tụng theo qui định của pháp luật. Riêng đối với cơ quan viện kiểm sát, chức năng kiểm sát xét xử các vụ án dân sự cũng đã sửa đổi theo hướng nếu thấy cần thiết thì Viện kiểm sát có thể dự phiên toà nhưng đó không còn là nghĩa vụ tố tụng bắt buộc như trước đây nữa. - Qui trình áp dụng pháp luật đã cho thấy bước đầu của việc đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền trong thực thi công vụ đã có tính hợp lý, hiệu quả nhất định. Áp dụng pháp luật là hoạt động không thể thiếu được sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Phân cấp quản lý đối với các loại cơ quan nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp đến qui trình thủ tục áp dụng pháp luật đối với từng loại cơ quan nhà nước trong thi hành công vụ. Điều này đã được thực hiện trong việc phân cấp cấp giấy phép đầu tư cho các doanh nghiệp. Nếu như trước đây, mọi giấy phép đầu tư chỉ được cấp từ Bộ kế hoạch đầu tư thì nay đã có sự 136 phân cấp thẩm quyền cho Uỷ ban nhân dân các địa phương theo những mức độ khác nhau. Hiện tại chúng ta đang thí điểm về việc không thành lập Hội đồng nhân dân cấp xã, phường và quận. Như vậy, điều này cũng sẽ có sự đổi mới về qui trình bổ nhiệm chức vụ chủ tịch Uỷ ban nhân dân và bầu các thành viên Uỷ ban nhân dân các cấp tương ứng. Theo qui định thí điểm, chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp trên sẽ bổ nhiệm chức danh chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp dưới. Ngoài ra, với việc trao lại thẩm quyền chứng thực cho Uỷ ban nhân dân cấp xã phường và thành lập phòng công chứng tư đã đem lại kết quả rõ rệt đó là giải phóng được phần ùn tắc trong công tác chứng thực, công chứng cho nhân dân. Thuận lợi cơ bản khi phục hồi thẩm quyền chứng thực cho Uỷ ban nhân dân xã, phường là cơ quan này từ trước đã thực hiện nhiệm vụ này nên không còn lúng túng và hơn nữa đó là đơn vị hành chính cấp cơ sở có khả năng nắm bắt các thông tin đầy đủ nhất phục vụ cho hoạt động chứng thực. Riêng đối với các phòng công chứng tư chủ yếu công chứng các hợp đồng cho khách hàng. Đây là một mô hình mang tính sự nghiệp có thu mà trên thực tế các nước khác cũng đã làm phổ biến từ lâu. Tuy nhiên, đối với nước ta cũng cần phải xem lại về thiết chế lưỡng tính này. Rõ ràng các phòng công chứng tư được thành lập có tư cách pháp nhân, chịu trách nhiệm về hoạt động của mình và thu phí xác nhận công chứng theo qui định pháp luật. Nhưng một vấn đề đặt ra là hoạt động đó nếu có sai sót gây hậu quả nghiêm trọng thì trách nhiệm khắc phục như thế nào khi nó không phải là doanh nghiệp, không có vốn theo điều lệ bảo đảm cho các rủi ro trong hoạt động của mình như vốn đảm bảo kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, để đảm bảo cho các phòng công chứng tư hoạt động có hiệu quả và hạn chế các hậu quả tiêu cực có thể xảy ra thiết nghĩ, Bộ tư pháp cần có qui định cụ thể về chế độ trách nhiệm (đặc biệt trách nhiệm vật chất) theo hướng điều kiện thành lập phòng công chứng tư phải có một tài khoản bắt buộc để bảo đảm hoạt động của chủ thể này. 137 Chuyên đề 5 QUYẾT ĐỊNH ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Ths. Bùi Thị Đào Khoa Hành chính – Nhà nước 1. Khái niệm Với tính cách là phương tiện quan trọng để quản lí xã hội, pháp luật được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên thực tế. Mức độ đạt được các mục tiêu quản lí của nhà nước phụ thuộc phần lớn vào mức độ hiện thực hóa các quy phạm pháp luật. Thông thường pháp luật được thực hiện bằng các hình thức: tuân thủ (hay tuân theo) pháp luật, thi hành (hay chấp hành) pháp luật, sử dụng pháp luật và áp dụng pháp luật. Trong đó, áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật tương đối đặc biệt, đó không chỉ là việc chủ thể thực hiện pháp luật tự mình thực hiện những quyền và nghĩa vụ pháp luật quy định mà còn là việc tổ chức cho các chủ thể khác thực hiện pháp luật, hoặc trong một số trường hợp, áp dụng pháp luật là hoạt động xác nhận một sự kiện, tình trạng nào đó của những chủ thể nhất định mà trên cơ sở đó các chủ thể này có thể thực hiện những quyền và nghĩa vụ hay tiến hành những hoạt động tương ứng. Do vậy, kết quả của áp dụng pháp luật được thể hiện qua quyết định áp dụng pháp luật, các quyết định này có thể được thể hiện bằng lời nói hoặc bằng văn bản và phổ biến là dưới dạng văn bản. Với các quyết định được thể hiện bằng văn bản thì có tên là văn bản áp dụng pháp luật. Các văn bản này có hình thức thể hiện khác nhau như giấy phép (giấy phép kinh doanh), đăng kí (đăng kí kết hôn), lệnh (lệnh truy nã), quyết định, bản án… Tất cả các văn bản đó đều là sản phẩm của hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nhưng chuyên đề này chỉ tập trung xem xét quyết định áp dụng pháp luật được thể hiện dưới dạng văn bản có chứa đựng những “điều định ra, đề ra của cấp trên phải thực hiện”102, còn các văn bản thuần túy xác nhận một tình trạng, một sự kiện pháp lí hay một loại quyền nào đó của các đối tượng có liên quan như giấy phép, đăng kí, giấy khai sinh… sẽ không được đề cập đến. Đồng thời quyết định áp dụng pháp luật được đề cập ở đây không đồng nghĩa với loại văn bản mang tên quyết định được ban hành để áp dụng pháp luật như quyết định tuyển dụng, quyết định bổ nhiệm công chức, quyết định giải quyết khiếu nại… Mặc dù các quyết định nói trên cũng là quyết định áp dụng pháp luật nhưng đó chỉ là một hình thức biểu hiện trong khi quyết định áp dụng pháp luật được biểu hiện bằng nhiều hình thức khác nữa như nghị quyết (nghị quyết áp dụng pháp luật của Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân), lệnh (của Chủ tịch nước, của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự), nghị định, bản án… Với phạm vi xem xét như vậy, quyết định áp dụng pháp luật được hiểu là loại quyết định do cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật ban hành theo hình thức, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm cụ thể hóa các quy phạm pháp luật thành mệnh lệnh pháp luật 102 Như Ý chủ biên, Nxb Giáo dục, Hà Nội 1995, tr. 908. 138 áp dụng đối với đối tượng xác định trong trường hợp cụ thể và được nhà nước bảo đảm thực hiện. 2. Đặc điểm Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành bởi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng pháp luật. Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Áp dụng pháp luật thực chất là việc cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân thực hiện thẩm quyền do pháp luật quy định để giải quyết các công việc phát sinh trong quá trình hoạt động của các chủ thể đó. Để đảm bảo hài hòa và hoạt động có hiệu quả, theo nguyên tắc phân công, phối hợp hoạt động, mỗi cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được giao thực hiện những thẩm quyền nhất định thể hiện cụ thể ở việc chủ thể đó được giao giải quyết những loại công việc nhất định, với tính chất và mức độ nhất định. Vì vậy, pháp luật luôn quy định mỗi loại việc chỉ được giải quyết bởi hay chủ yếu bởi một loại cơ quan, tổ chức nhất định và mỗi loại việc lại tùy theo mức độ phức tạp hay đơn giản, quan trọng hay ít quan trọng mà được giải quyết bởi các cơ quan, tổ chức ở các cấp khác nhau bằng loại quyết định phù hợp. Chẳng hạn, theo Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật hình sự, chỉ có tòa án mới có quyền ban hành bản án để kết án một người nào đó; tòa án cấp huyện có quyền ban hành bản án để kết án về tội phạm mà hình phạt cao nhất được pháp luật quy định là 15 năm tù giam (trừ một số loại tội phạm được pháp luật quy định); tòa án cấp tình có quyền ban hành bản án để kết án người phạm tội trong các trường hợp còn lại103. Vì vậy, không có cơ quan nào ngoài toà án có quyền ban hành quyết định áp dụng pháp luật đề tuyên một người nào đó là có tội hay không, hoặc tòa án cấp huyện thì không có quyền ban hành bản án để kết án một người về một tội danh có mức phạt cao nhất trên 15 năm tù giam… Theo Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung), chỉ có Bộ trưởng Bộ Công an, Cục trưởng Cục quản lí xuất cảnh, nhập cảnh, Giám đốc công an tỉnh mới có quyền áp dụng hình thức phạt trục xuất, nhưng Bộ trưởng Bộ Công an lại không có quyền áp dụng các hình thức xử phạt khác như cảnh cáo, phạt tiền. Do đó, Bộ trưởng Bộ Công an không có thẩm quyền ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền và không cá nhân nào ngoài Bộ trưởng Bộ Công an, Cục trưởng Cục quản lí xuất cảnh, nhập cảnh, Giám đốc công an tỉnh được ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt trục xuất104. Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành không đúng thẩm quyền thì không có giá trị pháp lý. Chủ thể ban hành quyết định áp dụng pháp luật chủ yếu là các cơ quan, tổ chức nhà nước, song cũng có thể là cơ quan, tổ chức được nhà nước trao quyền hoặc uỷ quyền. Ví dụ, tất cả các trường đại học, dù là công lập hay dân lập cũng đều có quyền ban hành ra quyết định áp dụng pháp luật để công nhận tốt nghiệp 103 Xem Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 8 Bộ luật hình sự 104 Xem Điều 31 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung ngày 2/4/2008 139 cho những sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp theo quy định của Bộ Giáo dục và đào tạo. Quyết định áp dụng pháp luật được ban hành theo hình thức, thủ tục pháp luật quy định Quyết định áp dụng pháp luật thường trực tiếp làm phát sinh những quyền và nghĩa vụ của các đối tượng có liên quan. Vì vậy, quyết định áp dụng pháp luật nếu được ban hành kịp thời, đúng đắn thì sẽ bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích chính đáng đã, đang bị xâm hại hoặc đang bị đe dọa xâm hại, hay tạo điều kiện đầy đủ cho các đối tượng tác động của quyết định thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Ngược lại, quyết định áp dụng pháp luật sai trái cũng có khả năng gây tổn hại các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và cộng đồng. Chính vì vậy, Nhà nước đưa ra nhiều yêu cầu nhằm đảm bảo chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật trong đó có yêu cầu đúng hình thức, thủ tục pháp luật quy định. Tùy theo loại việc và tính chất, mức độ của công việc cần ban hành quyết định áp dụng pháp luật để giải quyết, pháp luật quy định những loại quyết định được sử dụng và thủ tục ban hành các quyết định đó. Chẳng hạn, để áp dụng hình phạt tù giam đối với một cá nhân thì quyết định cần ban hành là bản án và bản án này phải được ban hành theo thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự; để quyết định thanh tra việc thực hiện pháp luật của một đơn vị thì quyết định cần ban hành là quyết định thanh tra và quyết định này được ban hành theo thủ tục quy định trong Luật thanh tra… Những trường hợp quyết định áp dụng pháp luật ban hành không đúng hình thức có thể gây hiểu lầm về nội dung, tính chất vụ việc, ban hành không đúng thủ tục có thể làm cho nội dung quyết định không chính xác, thiếu khách quan nên không ít trường hợp quyết định áp dụng pháp luật được ban hành không đúng thủ tục, không có hiệu lực pháp lí. Quyết định áp dụng pháp luật có nội dung là các mệnh lệnh cụ thể hóa quy phạm pháp luật vào những trường hợp cụ thể, áp dụng đối với đối tượng xác định Quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu hành vi cho dù có mức độ cụ thể nhất định nhưng không tránh khỏi tính phổ quát để có thể thích ứng với những điều kiện thực tiễn phức tạp và thường xuyên thay đổi. Áp dụng pháp luật chính là hoạt động lấy cái chung để áp dụng vào cái riêng biệt, cái cụ thể. Giá trị của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ vụ việc được giải quyết hoàn toàn phù hợp với những đặc điểm, điều kiện cụ thể của nó trong giới hạn chung mà pháp luật quy định. Hoạt động áp dụng pháp luật mang tính sáng tạo rõ rệt, nhưng là sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Nội dung quyết định áp dụng pháp luật không được vượt quá phạm vi các quy phạm pháp luật được chọn để áp dụng. Vì vậy, một vụ việc xảy ra ở những thời điểm khác nhau, đối với các đối tượng khác nhau thì nội dung quyết định áp dụng có thể khác nhau. Chẳng hạn, hai người đều thực hiện hành vi vi phạm hành chính cùng loại nhưng một người thực hiện hành vi với một số tình tiết tăng nặng và một người thực hiện hành vi không có tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ thì mức phạt tiền dành cho hai người sẽ khác nhau. Do nội dung quyết định phải phù hợp với 140 những tình tiết cụ thể của vụ việc được áp dụng nên mỗi quyết định chỉ được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng nhất định trong một trường hợp nhất định mà thôi. Quyết định áp dụng pháp luật là cơ sở pháp lí để tổ chức thực hiện pháp luật, là căn cứ để đánh giá năng lực của cơ quan, tổ chức, cá nhân ban hành quyết định, để kiểm tra, giám sát sự tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan Đối với các cá nhân, tổ chức không sử dụng quyền lực nhà nước, mặc dù có tới ba hình thức thực hiện pháp luật (chỉ trừ hình thức áp dụng pháp luật) như đã nói ở trên nhưng trong nhiều trường hợp các cá nhân, tổ chức không thể trực tiếp thực hiện pháp luật được mà cần đến sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong trường hợp này, các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng pháp luật đóng vai trò người tổ chức cho các cá nhân, tổ chức đó thực hiện pháp luật. Trong một số trường hợp khác, cơ quan, người có thẩm quyền phải áp dụng pháp luật để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp hay giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân, tổ chức, cơ quan. Bằng việc ban hành quyết định áp dụng pháp luật, cơ quan, người áp dụng pháp luật quy định các cá nhân, tổ chức có liên quan có những quyền và nghĩa vụ gì, thời hạn và cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó, hậu quả của việc không thực hiện các nghĩa vụ đã được xác định là gì, phương thức bảo vệ các quyền và lợi ích liên quan đến nội dung quyết định áp dụng pháp luật. Ví dụ, nội dung bản án dân sự gồm các quyết định của tòa án về từng vấn đề phải giải quyết trong vụ án, về án phí và quyền kháng cáo đối với bản án105; nội dung quyết định xử phạt vi phạm hành chính phải ghi rõ hình thức xử phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung (nếu có), thời hạn, nơi thi hành quyết định xử phạt, quyền khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định xử phạt hành chính, quyết định cũng ghi rõ cá nhân, tổ chức bị xử phạt nếu không tự nguyện chấp hành thì bị cưỡng chế thi hành106. Như vậy, quyết định áp dụng pháp luật là cơ sở để các cá nhân, tổ chức thực hiện nhiều quy định của pháp luật mà nếu không có các quyết định áp dụng này thì họ không thể thực hiện được. Cũng chính vì thế, quyết định áp dụng pháp luật là căn cứ để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng có liên quan. Chẳng hạn, căn cứ quyết định thanh tra, cơ quan có thẩm quyền có thể xác định được cơ quan thanh tra đã tiến hành hoạt động thanh tra đúng thủ tục, đúng thời hạn, đúng phạm vi thanh tra hay không; căn cứ quyết định giải quyết khiếu nại, cơ quan có thẩm quyền có thể kiểm tra, giám sát được hoạt động khôi phục các quyền và lợi ích chính đáng của người khiếu nại đã bị xâm hại bởi quyết định hành chính bị khiếu nại hay kiểm tra, giám sát hoạt động giải quyết khiếu nại lần hai, kiểm tra hoạt động xét xử vụ án hành chính trong trường hợp người khiếu nại khiếu nại tiếp hay kiện ra tòa hành chính. Bên cạnh đó, thông qua quyết định áp dụng pháp luật cũng có thể đánh giá phần nào năng lực hoạt động của cơ quan, người có thẩm quyền như đánh giá về tinh thần trách nhiệm trong việc tuân thủ các thời hạn trong khi 105 Xem Khoản 5 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự 106 Khoản 3 Điều 56 Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính 141 áp dụng pháp luật, về khả năng nhìn nhận, đánh giá, giải quyết vụ việc trên cơ sở các tình huống thực tế và các quy định của pháp luật. Từ đó có thể tìm ra các giải pháp hợp lí nâng cao năng lực hoạt động của cơ quan nhà nước và chất lượng của quyết định áp dụng pháp luật. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc ban hành, đến chất lượng quyết định áp dụng pháp luật Quyết định áp dụng pháp luật suy cho cùng là do những con người cụ thể xây dựng, dựa trên các quy định của pháp luật, căn cứ vào những điều kiện xã hội cụ thể liên quan đến vụ việc cần áp dụng nên chất lượng quyết định áp dụng pháp luật đồng thời chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau như yếu tố pháp lí, yếu tố xã hội, yếu tố nhận thức. Một là, yếu tố pháp lí. Yếu tố pháp lí bao gồm chất lượng của các quy phạm pháp luật mà người ban hành quyết định áp dụng pháp luật phải cụ thể hóa thành nội dung quyết định; các quy định về thẩm quyền ban hành, hình thức, thủ tục ban hành quyết định áp dụng pháp luật; vấn đề bảo đảm chất lượng quyết định… Chất lượng quyết định áp dụng pháp luật trước hết phụ thuộc vào độ hợp lí của các quy phạm pháp luật, vào tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Nếu các quy phạm pháp luật là căn cứ để đưa ra nội dung quyết định áp dụng pháp luật không hợp lí hoặc mâu thuẫn với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfÁp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay.pdf
Tài liệu liên quan