MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ 3
1.1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá 3
1.1.1. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá 3
1.1.2. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá 3
1.1.3. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất 7
1.2. Giới thiệu hiệp định chống bán phá giá của WTO 8
1.2.1. Xác định việc bán phá giá 8
1.2.2. Xác định thiệt hại 11
1.2.3. Ngành sản xuất trong nước 12
1.2.4. Nộp đơn yêu cầu tiến hành điều tra chống phá giá 12
1.2.5. Thu thập thông tin 14
1.2.6. Áp dụng biện pháp tạm thời 15
1.2.7. Cam kết giá 16
1.2.8. Áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá 17
1.2.9. Truy thu thuế 18
1.2.10. Rà soát 19
1.2.11. Thông báo công khai và giải thích các kết luận 20
1.2.12. Cơ chế khiếu kiện độc lập 21
1.2.13. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba 21
1.2.14. Thành viên đang phát triển 21
1.2.15. Ủy ban chống bán phá giá 22
1.2.16. Trao đổi và giải quyết tranh chấp 22
1.2.17. Điều khoản cuối cùng 22
1.3. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 22
1.3.1. Cam kết trong ASEAN 24
1.3.2. Cam kết trong APEC 24
1.3.3. Cam kết với IMF/World Bank 25
1.3.4. Đàm phán gia nhập WTO 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM 27
2.1. Tổng quan về tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới 27
2.1.1. Tổng quan 27
2.1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển 28
2.1.3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển 29
2.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30
2.2.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ 30
2.2.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá 30
2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu 32
2.2.4. Áp dụng thuế chống bán phá giá 33
2.2.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ 34
2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trong EU 34
2.3.1. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu Âu 34
2.3.2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra 35
CHƯƠNG 3: CÁC KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP LIÊN QUAN TỚI VIỆC ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TẠI VIỆT NAM 46
3.1. Đánh giá về khó khăn của Việt Nam khi phải đối mặt với tranh chấp bán phá giá 46
3.2. Khả năng áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt Nam 49
3.2.1. Các qui định hiện tại của Việt Nam liên quan đến thuế chống bán phá giá 49
3.2.2.Tác động bảo hộ của việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản xuất trong nước 50
3.2.3. Dự kiến tình hình phát triển kinh tế Việt nam khi áp dụng thuế chống bán phá giá 51
3.2.4. Một số vấn đề liên quan tới áp dụng thuế chống bán phá giá ở Việt nam 52
3.3. Kiến nghị về việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 54
3.4. Giải pháp liên quan tới việc áp dụng thuế chống bán phá giá tại Việt Nam 55
3.4.1.Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về áp dụng thuế chống bán phá giá 56
3.4.2. Tổ chức bộ máy thực thi thuế chống bán phá giá 56
3.4.3. Nâng cao nhận thức cho các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp 57
KẾT LUẬN 58
69 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1134 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng thuế chống bán phá giá trong thương mại quốc tế - Kinh nghiệm các nước và bài học đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá.
Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí, v.v
Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình.
Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây:
Đồ thị 2.1. Xu hướng áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển và đang phát triển
(Nguồn: báo cáo của Ban Thư ký WTO và Uỷ ban chống bán phá giá WTO)
Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển.
2.1.2. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước phát triển
Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
Trong số các nước phát triển, Hoa Kỳ và EU luôn đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Hoa Kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương Hoa Kỳ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
Hàn quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống phá giá và 70 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Nhật Bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
2.1.3. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá của các nước đang phát triển
Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát triển đã tiến hành 946 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng thuế chống bán phá giá.
Cũng trong thời gian đó, hàng hóa xuất khẩu của 60 nước đang phát triển là đối tượng của 1100 cuộc điều tra chống bán phá giá và 736 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu.
Ấn Độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, đã tiến hành 248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, Ấn Độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng nhiều lần áp dụng thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá.
Trung Quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá giá lần nào nhưng bị áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể được coi là quốc gia "đi đầu" trong việc bán phá giá hàng hóa sang các nước khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là kinh tế thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù trên thực tế có thể không phải như vậy.
2.2. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ
2.2.1. Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Chính sách chống phá giá của Hoa Kỳ được thể hiện thông qua Luật chống bán phá giá năm 1921. Kho bạc Nhà nước Hoa Kỳ lúc đó được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá và ấn định mức thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ Thương mại Hoa Kỳ đảm nhận sau khi Nghị viện Hoa kỳ thông qua một đạo luật mới về thực thi hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan đến việc điều tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979.
Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Uruguay vào năm 1995, các quy định của Hoa Kỳ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Hoa Kỳ đã ban hành Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá.
2.2.2. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá
Hoa Kỳ quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải dựa vào kết quả của quá trình điều tra xem việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ có gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước hay không. Không thể tùy tiện áp dụng thuế chống bán phá giá khi chưa có điều tra và việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ phải tuân thủ quy định của WTO.
a. Cơ sở tiến hành điều tra
Việc tiến hành điều tra chống phá giá thường bắt đầu trên cơ sở tổ chức hoặc cá nhân đại diện cho ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước nộp đơn đề nghị điều tra phá đối với một mặt hàng nhập khẩu. Đơn này được coi là hợp lệ nếu sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn chiếm ít nhất 25% tổng sản lượng của toàn ngành sản xuất mặt hàng liên quan trong nước và lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn.
Đơn đề nghị điều tra phá giá sẽ được gửi đồng thời đến hai cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra chống bán phá giá của Hoa Kỳ là Bộ Thương mại (Department of Commerce - DOC) và Hội đồng Thương mại Quốc tế (International Trade Commission - ITC).
Trong trường hợp không có đơn của tổ chức hoặc cá nhân trong nước, DOC và ITC vẫn có thể tiến hành điều tra nếu như có bằng chứng rõ ràng chứng minh được hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Hoa Kỳ gây ra thiệt hại vật chất cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm khi xảy ra.
b. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá
Sau 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị điều tra phá giá, DOC sẽ ra quyết định nêu rõ có tiến hành điều tra hay không và lý do cụ thể dẫn tới quyết định này. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn ra quyết định trên có thể là 40 ngày kể từ ngày nhận được đơn.
Hoa Kỳ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành điều tra về việc bán phá giá. Còn ITC chịu trách nhiệm điều tra về mức độ thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá với thiệt hại hoặc nguy cơ xảy ra thiệt hại.
Sau 45 ngày (hoặc trong trường hợp đặc biệt là 65 ngày) kể từ ngày nhận được đơn, ITC sẽ có đánh giá sơ bộ (preliminary determination) về thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước theo như những thông tin được cung cấp trong đơn. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy không có thiệt hại hay nguy cơ thiệt hại thì ITC sẽ không tiếp tục tiến hành điều tra nữa.
Sau 115 ngày kể từ ngày ITC có đánh giá sơ bộ trên, DOC cũng sẽ có đánh giá sơ bộ về việc có hành vi bán phá giá hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra theo đề nghị trong đơn hay không. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá thì DOC có thể áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hóa thuộc đối tượng điều tra để hạn chế thiệt hại xảy ra cho ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp đánh giá sơ bộ cho thấy không có hành vi bán phá giá thì DOC có thể ra quyết định chấm dứt điều tra.
Việc đánh giá sơ bộ của DOC và ITC tiếp tục được làm sáng tỏ thông qua các buổi tham vấn giữa các bên liên quan đến quá trình điều tra do hai cơ quan trên tổ chức. Các buổi tham vấn được tổ chức nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên tham gia và có liên quan đến quá trình điều tra. Các bên có quyền đưa ra và bảo vệ ý kiến của mình nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại trong nước có thể xảy ra khi có hành vi bán phá giá hay thiệt hại của phía nước ngoài do bị áp dụng thuế chống bán phá giá gây ra.
Sau 235 ngày kể từ ngày có hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra, DOC sẽ có đánh giá cuối cùng (final determination) khẳng định việc bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra và chỉ rõ biên độ phá giá (dumping margin) cùng các số liệu liên quan như giá trị thông thường (GTTT), giá xuất khẩu (GXK), v.v
Sau 280 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị điều tra phá giá, ITC sẽ có đánh giá cuối cùng khẳng định có thiệt hại hay nguy cơ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước do bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra gây ra hay không.
c. Kết thúc điều tra
Để kết thúc quá trình điều tra phá giá, sau khi cân nhắc đánh giá cuối cùng của DOC, ITC sẽ ra một trong hai quyết định như sau:
áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra với một mức thuế suất cụ thể; hoặc
không áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra.
Các bản đánh giá cuối cùng của hai cơ quan DOC và ITC và quyết định trên của ITC sẽ được công bố công khai cho tất cả các bên liên quan được biết.
2.2.3. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu
Trên thực tế, không thể phủ nhận vai trò đề xuất chính của Hoa Kỳ trong quá trình đàm phán đa phương xây dựng các qui định về chống bán phá giá, mà cụ thể ở đây là Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Do vậy, việc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu của Hoa Kỳ cũng phù hợp theo quy định của WTO.
2.2.4. Áp dụng thuế chống bán phá giá
a. Thuế tạm thời
Trên cơ sở đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra, DOC sẽ áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra như thuế tạm thời hay ký quỹ một khoản tiền nhất định đủ để đảm bảo triệt tiêu việc bán phá giá, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh với nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp.
Thời hạn áp dụng các biện pháp tạm thời không được vượt quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài thời hạn áp dụng trên nhưng tổng thời gian áp dụng không được vượt quá 6 tháng.
Trong trường hợp đã áp dụng mức thuế tạm thời cao hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra, phần chênh lệch thuế đó sẽ được hoàn trả lại cho nhà nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng thuế chống bán phá giá này. Đôi khi, thuế tạm thời có thể được hoàn trả lại toàn bộ nếu cơ quan điều tra ra kết luận không áp dụng thuế chống bán phá giá.
Tuy nhiên, việc truy thu thuế sẽ không được phép nếu mức thuế tạm thời được áp dụng thấp hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra.
b. Tính thuế và thu thuế chống bán phá giá
Quy định của Hoa Kỳ về vấn đề này đều tuân thủ theo quy định của WTO.
c. Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá
Hoa Kỳ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi đã áp dụng được 5 năm với trình tự thủ tục được quy định như áp dụng thuế chống bán phá giá ban đầu. Nội dung của việc rà soát này là xem xét hiệu quả của việc áp dụng thuế chống bán phá giá để có thể đưa ra một trong ba quyết định như sau:
(i) Giữ nguyên mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng;
(ii) Giảm mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng;
(iii) Bãi bỏ thuế chống bán phá giá đã áp dụng.
Trong trường hợp vẫn tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá, DOC sẽ tiếp tục tiến hành rà soát trong 5 năm tiếp theo.
2.2.5. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Các cuộc điều tra phá giá hàng năm của Hoa Kỳ ngày càng giảm từ khi Hiệp định chống bán phá giá của WTO có hiệu lực vào năm 1995, từ cao nhất là 84 cuộc điều tra trong năm 1992 còn 14 (1995), 21(1996) và 15(1997). Theo con số thống kê chính thức từ Bộ Thương mại Hoa Kỳ, đã có 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998. Trong năm 1998, sức ép của ngành công nghiệp trong nước và cạnh tranh nước ngoài, đặc biệt là về sắt thép đã làm số cuộc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá tăng lên thành 36 cuộc, gấp đôi so với hai năm trước gộp lại.
Việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ thường tập trung vào mặt hàng chính là sắt thép. Trong số 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998 có đến 39 cuộc (chiếm 54%) về sản phầm sắt thép nhưng chỉ chú trọng vào một số mặt hàng sắt thép quan trọng, mang tính chiến lược cao như thép carbon cán nóng và cán mỏng. Từ năm 1999, Hoa Kỳ đang áp dụng mức thuế chống phá giá khoảng 25% đến 67,5% đối với sản phẩm sắt thép cán nóng nhập khẩu từ Nhật bản, và đối với Brazil là 50,7% đến 71%. Đối với Liên bang Nga, Hoa Kỳ thực hiện theo Chương trình hành động áp dụng cho ngành sắt thép, thoả thuận theo các yêu cầu liên quan đến nhập khẩu sản phẩm sắt thép và hạn chế chỉ nhập khẩu 16 mặt hàng sắt thép với số lượng nhất định.
Tổng kết trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, Hoa Kỳ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ là đối tượng chịu 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Như vậy từ năm 1999 cho đến 2001, việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Hoa Kỳ đã tăng lên khá nhanh.
2.3. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá trong EU
2.3.1. Tình hình áp dụng thuế chống bán phá giá trong liên minh châu Âu
Thị trường EU bao gồm thị trường 27 nước thành viên. Từ năm 2004 -- 2008 EU đã tiến hành điều tra phá giá và trợ cấp trong các ngành sản xuất sau:
Bảng 2.1. Số vụ điều tra phá giá và trợ cấp trong các ngành sản xuất ở EU (2004 – 2008)
Sản phẩm
2004
2005
2006
2007
2008
Hóa chất
8
3
13
2
2
Hàng dệt
4
1
2
-
-
Gỗ và giấy
-
-
-
-
-
Điện tử
-
7
5
-
-
Cơ khí
2
2
2
-
1
Sắt thép
13
4
-
6
11
Kim loại khác
-
-
9
-
3
Sản phẩm khác
2
9
5
1
3
Tổng số
29
26
36
9
20
Số vụ điều tra phá giá
29
24
35
9
18
điều tra trợ cấp
0
2
1
0
2
(Nguồn: Uỷ ban hợp tác quốc gia về kinh tế quốc tế)
Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá ở EU:
Hàng nhập khẩu bị bán với giá thấp hơn giá trị thông thường (phá giá);
Ngành sản xuất sản phẩm tương tự của EU bị thiệt hại về vật chất do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra;
Việc đánh thuế chống bán phá giá là cần thiết cho lợi ích của EU.
Không giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, điều kiện thứ ba tính đến cả lợi ích của người tiêu dùng và của ngành sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào. Tóm lại quyết định đánh thuế chống bán phá giá của EU được dựa trên toàn bộ lợi ích của cả cộng đồng.
2.3.2. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra
Thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của EU được qui định ở Qui chế 384/96 ngày 22/12/1995 của Hội đồng Bộ trưởng EU, sau đây gọi là tắt là “Qui chế chống bán phá giá”.
a. Các cơ quan chức năng
Ủy ban
Ủy ban châu Âu đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thi hành luật chống bán phá giá của EU, là cơ quan có trách nhiệm nhận đơn đề nghị điều tra phá giá, quyết định mở cuộc điều tra, tiến hành điều tra, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời, quyết định chấp nhận cam kết giá bởi các nhà xuất khẩu nước ngoài và kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng việc áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức. Ủy ban còn có quyền kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng phê chuẩn sửa đổi Qui chế chống bán phá giá và ban hành các luật mới về thương mại. Trong nội bộ Ủy ban, việc thực thi luật chống bán phá giá được giao cho Tổng Vụ Thương mại, bộ phận này gồm khoảng 100 nhân viên chuyên tham gia các vụ điều tra phá giá và các biện pháp đền bù thương mại khác.
Hội đồng Bộ trưởng
Hội đồng Bộ trưởng có thẩm quyền phê chuẩn việc áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức khi có kiến nghị từ Ủy ban. Hội đồng Bộ trưởng có quyền phê chuẩn việc ban hành hay sửa đổi các luật liên quan đến thương mại do Ủy ban trình lên.
Các nước thành viên
Các nước thành viên tham gia quá trình thi hành luật chống phá giá thông qua Hội đồng Tư vấn (hay còn gọi là “Hội đồng chống bán phá giá”) bao gồm đại diện của từng nước thành viên và do một quan chức của Ủy ban làm chủ tịch. Ủy ban tham vấn Hội đồng Tư vấn trong mọi tiến trình thi hành luật. Quyết định của Ủy ban sẽ không có hiệu lực khi có một nước thành viên phản đối. Các nước thành viên sẽ chịu trách nhiệm thu thuế chống bán phá giá thông qua cơ quan hải quan nước mình.
Tòa án
Tòa án có quyền giám định tính hợp pháp của quyết định áp dụng biện pháp chống phá giá do Ủy ban hoặc Hội đồng đưa ra trên phương diện là kiểm tra xem quá trình ra quyết định của các cơ quan chức năng có đúng thủ tục không chứ không kiểm tra kết quả tính toán biên độ phá giá. Trên thực tế Tòa án của EU đã xử lý một vụ kiện về chống bán phá giá từ năm 1998 nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì vậy có thể thấy khâu giám định của tòa trong cơ chế chống bán phá giá của EU rất hạn chế.
b. Thủ tục điều tra
Nộp đơn đề nghị điều tra phá giá
Thường đơn đề nghị điều tra phá giá được ngành sản xuất của EU nộp cho Ủy ban, rất ít khi Ủy ban tự quyết định điều tra phá giá. Ngành sản xuất của EU thường trao đổi không chính thức với nhân viên của Ủy ban xem có đủ bằng chứng để tiến hành một cuộc điều tra không. Người nộp đơn thường đưa dự thảo đơn cho Ủy ban trước để tham khảo ý kiến.
Ngành sản xuất của EU
Trên thực tế thường là hiệp hội đại diện cho ngành sản xuất của EU nộp đơn xin điều tra. Các công ty cũng có thể nộp đơn riêng nếu họ có sản lượng đủ lớn trong toàn ngành sản xuất của EU. Như qui định trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO, EU qui định khái niệm đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU khi sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn và chiếm không dưới 25% tổng sản lượng của toàn bộ các nhà sản xuất ở EU. Để xác định xem đơn có được coi là đại diện cho ngành sản xuất của EU không thì thông thường Ủy ban gửi bảng câu hỏi cho tất cả các nhà sản xuất để hỏi thông tin về sản lượng và ý kiến của họ về việc đồng ý hay phản đối đơn.
Quá trình xét đơn
Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau:
Khối lượng và giá trị sản phẩm liên quan được sản xuất trong EU, khi đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU thì đơn phải nêu tên tất cả các nhà sản xuất của EU và giá trị, sản lượng của từng nhà sản xuất;
Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, tên nước xuất xứ, tên các nhà xuất khẩu ở nước đó và tên các nhà nhập khẩu;
Bằng chứng về việc bán phá giá;
Thông tin về thiệt hại do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất của EU.
Sau khi nhận được đơn, Ủy ban có trách nhiệm kiểm tra xem có đầy đủ bằng chứng về phá giá và thiệt hại để tiến hành điều tra không nhưng thường là Ủy ban tiến hành điều tra trước, sau đó nếu thấy không có dấu hiệu phá giá hoặc thiệt hại thì sẽ chấm dứt vụ việc. Trong vòng 45 ngày kể từ khi chính thức nhận được đơn, Ủy ban phải ra quyết định về việc có tiến hành điều tra hay không, đồng thời phải thông báo quyết định điều tra trên Công báo.
Thường một cuộc điều tra được tiến hành trong vòng 1 năm và tối đa là 15 tháng.
Bảng câu hỏi
Ngay sau khi ra thông báo về việc tiến hành điều tra, Ủy ban sẽ gửi bảng câu hỏi cho tất cả các bên quan tâm, gồm người nộp đơn, các nhà nhập khẩu, xuất khẩu và đại diện của họ, tổ chức người tiêu dùng. Các nhà xuất khẩu phải trả lời trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận được bảng câu hỏi, đồng thời phải thông báo cho Ủy ban đánh giá của họ về thiệt hại đối với ngành sản xuất của EU. Nếu bảng câu hỏi không được trả lời đầy đủ và chính xác thì Ủy ban sẽ ra quyết định dựa vào các số liệu họ có sẵn (facts available), thường là số liệu do người nộp đơn đưa ra.
Tiếp cận thông tin
Tất cả các bên quan tâm đều có thể kiểm tra các thông tin không bí mật do một bên nộp cho Ủy ban.
Kiểm tra tại chỗ
Sau khi nhận được trả lời bảng câu hỏi, Uỷ ban sẽ cử cán bộ đi kiểm tra tại trụ sở nhà nhập khẩu và các nhà sản xuất ở EU, sau đó kiểm tra tại trụ sở các nhà xuất khẩu ở nước xuất khẩu để xác định xem số liệu cung cấp có tương ứng với thủ tục kế toán thông thường không. Việc kiểm tra tại chỗ nhằm đảm bảo các thông tin trả lời trong bảng câu hỏi là chính xác.
Giới hạn điều tra
Trong trường hợp số nhà sản xuất, xuất khẩu quá lớn hoặc loại sản phẩm quá đa dạng đến nỗi không thể hoàn thành điều tra trong thời hạn qui định thì Ủy ban sẽ giới hạn điều tra ở một nhóm các nhà sản xuất/xuất khẩu (các công ty đại diện) theo phương pháp lấy mẫu thống kê. Ủy ban sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng công ty đại diện và áp dụng biên độ phá giá bình quân gia quyền của các công ty đại diện cho tất cả các nhà xuất khẩu không phải công ty đại diện.
Các nhà xuất khẩu có thể trình bày quan điểm của mình về mọi khía cạnh của cuộc điều tra nhưng điều quan trọng là phải đúng lúc vì nếu sớm quá thì không có tác dụng, muộn quá thì Ủy ban đã ra quyết định rồi.
Vận động
Hội đồng Tư vấn không có thẩm quyền ra quyết định nhưng có thể thông báo cho Ủy ban về việc thành viên nào phản đối hoặc ủng hộ áp dụng biện pháp chống bán phá giá. Thông qua Hội đồng Tư vấn, các nước thành viên EU có thể bày tỏ áp lực chính trị lên Ủy ban.
Quyết định sơ bộ
Quyết định sơ bộ của cuộc điều tra được tóm tắt thành một văn bản để gửi cho các nước thành viên và được trao đổi ở Hội đồng Tư vấn. Nếu Ủy ban xác định là có bán phá giá và thiệt hại cho ngành sản xuất của EU thì thuế tạm thời sẽ được áp dụng. Nếu Ủy ban xác định là không có phá giá hoặc thiệt hại thì sẽ chấm dứt điều tra.
2.3.3. Xác định phá giá và thiệt hại
a. Xác định giá trị thông thường
Ủy ban sẽ xác định giá trị thông thường (GTTT) bằng cách tính bình quân gia quyền giá thị trường nội địa trong suốt thời gian điều tra, thường ít nhất là 6 tháng, tối đa 12 tháng ngay trước khi bắt đầu tiến hành điều tra.
Ủy ban sẽ tính GTTT riêng cho từng nhà xuất khẩu nếu họ có bán hàng ở thị trường trong nước. Nếu nhà xuất khẩu không sản xuất hoặc không bán hàng trong nước thì Ủy ban sẽ lấy giá bán trong nước của các nhà xuất khẩu khác.
Trường hợp số lượng nhà xuất khẩu quá lớn thì Ủy ban sẽ thỏa thuận với các nhà xuất khẩu để giới hạn chỉ điều tra một nhóm các nhà xuất khẩu.
Trường hợp nhà xuất khẩu bán hàng cho công ty liên kết ở thị trường trong nước thì Ủy ban sẽ tính GTTT trên cơ sở giá mà công ty liên kết bán hàng cho khách hàng trên thị trường nội địa.
b. Xác định giá xuất khẩu
EU qui định giá xuất khẩu (GXK) là giá bán thực tế của sản phẩm khi xuất khẩu vào EU. Cơ quan điều tra thường trừ bớt các chi phí để lấy GXK là mức giá xuất xưởng ở nước xuất khẩu. Khi nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm cho một công ty thương mại hoặc công ty môi giới không có mối liên kết với nhau thì GXK sẽ là giá mà công ty thương mại hoặc công ty môi giới trả cho nhà sản xuất.
Giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định rằng GXK có thể tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại cho người mua độc lập đầu tiên sau khi đã điều chỉnh các chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lại trong những trường hợp sau:
không có giá xuất khẩu; hoặc
có một mối liên kết hoặc thỏa thuận đền bù giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba; hoặc
giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì một lý do nào đó.
Qui chế chống bán phá giá cũng qui định việc lấy giá xuất khẩu và giá trị thông thường ở cùng thời điểm để so sánh và cần điều chỉnh ở một mức độ nhất định khi so sánh hai loại giá này để đảm bảo kết quả so sánh phản ánh trung thực biên độ phá giá.
c. Biên độ phá giá
Cơ quan điều tra của EU xác định biên độ phá giá (BĐPG) như sau:
BĐPG = GTTT (bình quân gia quyền) - GXK (từng giao dịch)
Trước đây EU cũng tính bình quân gia quyền GXK để so sánh nhưng đến năm 1987 đã chuyển sang tính GXK của từng giao dịch.
d. Xác định thiệt hại
Giống như Hiệp định chống bán phá giá, Qui chế chống bán phá giá của EU qui định 3 yếu tố sau để xác định "thiệt hại về vật chất":
thiệt hại về vật chất thực tế;
nguy cơ gây thiệt hại về vật chất;
gây trì trệ cho sự phát triển một ngành sản xuất của EU
Tuy nhiên Qui chế của EU lại không qui định thế nào là "thiệt hại về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7350.doc