LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 3
1.1. Q uan niệm về thương mại điện tử 3
1.1.1 Qúa trình hình thành và phát triển của thương mại điện tử 3
1.1.2. Khái niệm về thương mại điện tử 4
1.2. Các hình thức áp dụng thương mại điện tử 4
1.2.1. Hình thức doanh nghiệp với doanh nghiệp 4
1.2.2. Hình thức doanh nghiệp với khách hàng 5
1.3. Lợi ích của thương mại điện tử 6
1.3.1. Tính kịp thời của thông tin thương mại 6
1.3.2. Giảm được chi phí tiếp thị và giao dịch: 7
1.3.2. Dễ dàng đa dạng hóa dịch vụ 8
1.4. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử 9
1.4.1. Điều kiện về công nghệ 9
1.4.2. Điều kiện về con người: 10
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM 11
2.1. Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp ở Việt Nam 11
2.2.Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở VN 12
2.3. Đánh giá chung 14
2.3.1. Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử 14
2.3.2. Trở ngại cho ứng dụng TMĐT 16
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM 21
3.1. Đối với các doanh nghiệp 21
3.1.1. Tăng cường nguồn nhân lực về thương mại điện tử 21
3.1.2. Xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử tại doanh nghiệp 21
3.1.3. Tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thương mại điện tử 22
3.1.4. Tuân thủ các qui định pháp luật 23
3.2. Đối với cơ quan quản lý nhà nước 24
3.2.1. Tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý về thương mại điện tử 24
3.2.2. Nâng cấp công nghệ Nâng cấp hạ tầng thông tin và truyền thông quốc gia 24
3.2.3. Xúc tiến các chương trình đào tạo và nâng cao nhận thức về thương mại điện tử 25
3.2.4. Bảo vệ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng 27
3.2.5. Thành lập một Website tập hợp tất cả các doanh nghiệp giao nhận tại Việt Nam 27
KẾT LUẬN 29
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
32 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3541 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n giao dịch qua bưu điện; chi phí giao dịch qua Internet chỉ bằng khoảng 5% chi phí giao dịch qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng từ 10% đến 20% cho phí thanh toán theo lối thông thường
Trong những yếu tố cắt giảm, yếu tố thời gian là đáng kể nhất vì việc nhanh chóng làm cho thông tin dịch vụ tiếp cận khách hàng (mà không phải qua trung gian) có ý nghĩa sống còn đối với kinh doanh giao nhận.
Thông thường đối với một nhà sản xuất rất khó có thể thiết lập được một mạng lưới tiêu thụ rộng lớn để trực tiếp cung cấp và liên hệ với những người bán lẻ hay các khách hàng. Song hiện nay nhờ thương mại điện tử mà doanh nghiệp hoàn toàn có thể làm được điều đó. Khi thiết lập một cơ sở kinh doanh trên Internet, doanh nghiệp đã cùng một lúc thiết lập một đại lý phân phối ở nhiều nơi khác nhau, hoàn toàn loại bỏ được kênh phân phối trung gian nhiều cấp. Điều này là có lợi cho cả doanh nghiệp và khách hàng.
1.3.2. Dễ dàng đa dạng hóa dịch vụ
Với Internet doanh nghiệp giao nhận có thể kinh doanh hỗn hợp các dịch vụ khác nhau.Với kiểu giao hàng truyền thống (người giao nhận phải đến trực tiếp địa điểm giao nhận và làm các thủ tục cần thiết cho lô hàng, tốn nhiều thời gian đi lại) rất khó để có thể đa dạng hóa các dịch vụ như dịch vụ kê khai tờ khai thuế, đóng thuế, chuyên chở ... vì điều này đòi hỏi phải trang bị đầu tư rất lớn một lực lượng lao động được đào tạo chuyên ngành cho nhiều vị trí ở các địa điểm khác nhau. Nhưng khi áp dụng thương mại điện tử không quan trọng là hàng hoá giao nhận được đặt như thế nào để ở đâu. Bởi doanh nghiệp giao nhận sẽ dễ dàng theo dõi được nhiều lô hàng ở nhiều nơi và đồng thời thực hiện các nghiệp vụ giao nhận và các dịch vụ khác qua Internet. Điều quan tâm chính của doanh nghiệp là làm thế nào giao nhận hàng hóa tới khách hàng theo phương thức phù hợp hoặc theo phương thức mà khách hàng yêu cầu. Do đó, kể cả khi hàng hoá được để hỗn hợp thì vẫn có thể được sắp xếp và giao nhận theo đúng yêu cầu của khách hàng bất cứ lúc nào.
1.4. Các điều kiện phát triển thương mại điện tử
1.4.1. Điều kiện về công nghệ:
Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng, mà là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa, của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính điện tử. Vì thế, chỉ có thể thực sự có và thực sự tiến hành thương mại điện tử có nội dung và hiệu quả đích thực khi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin vững chắc (bao gồm hai nhánh: tính toán điện tử và truyền thông điện tử).
Hạ tầng cơ sở ấy bao gồm từ các chuẩn của doanh nghiệp, của cả nước và sự liên kết của các chuẩn ấy với các chuẩn quốc tế, với kỹ thuật ứng dụng và thiết bị ứng dụng. Và không chỉ của riêng từng doanh nghiệp, mà phải là một hệ thống quốc gia, với tư cách như một phân hệ của hệ thống công nghệ thông tin khu vực, và toàn cầu (trên nền tảng của Internet hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa là bao gồm các phân mạng, và hệ thống liên lạc viễn thông toàn cầu). Và phải tới được từng cá nhân trong hệ thống thương mại (cho tới từng cá nhân người tiêu thụ).
Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu mà còn hàm nghĩa có tính kinh tế sử dụng ,nghĩa là chi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính, modem v.v.) và chi phí dịch vụ truyền thông (phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập mạng) phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt to lớn đối với các nước đang phát triển, mức sống nói chung còn thấp.
Cũng cần lưu ý thêm rằng hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin chỉ có thể có và hoạt động đáng tin cậy trên nền tảng một nền công nghiệp điện năng vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ, ổn định và với mức giá hợp lý.
Thiết lập và củng cố được một hạ tầng công nghệ trên nền tảng công nghiệp điện năng như vậy đòi hỏi thời gian, hơn nữa phải đầu tư rất lớn, là điều đặc biệt khó khăn đối với các nước đang phát triển.
Theo đà phát triển của thương mại điện tử, nay đang có xu hướng mạnh mẽ ghép cả công nghệ bảo mật và an toàn vào hạ tầng cơ sở công nghệ của thương mại điện tử. Bảo mật và an toàn không chỉ có ý nghĩa đối với các thực thể kinh tế, mà còn có ý nghĩa an ninh quốc gia.
1.4.2. Điều kiện về con người:
Thương mại điện tử là sản phẩm của công nghệ, do vậy muốn vận dụng nó thì phải nắm được công nghệ. Hiện tại ở nước ta nhận thức về công nghệ thông tin còn hạn chế. Hầu hết các trường học, ở tất cả các cấp học nước ta kể cả Đại học tỷ lệ nối mạng Internet là rất ít. Các sinh viên - học sinh tầng lớp trí thức của tương lai còn chưa hiểu sâu Internet là gì, chưa hề có khái niệm về thương mại điện tử. Đối với các doanh nghiệp, những người đóng vai trò chính trong thương mại điện tử cũng còn hạn chế sử dụng Internet, chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng của thương mại điện tử.
Về phía Chính phủ, người thứ ba quan trọng trong thương mại điện tử, các quy chế, các biện pháp quản lý kiểm soát của Nhà nước lại chủ yếu thiên về khía cạnh chính trị, văn hoá, xã hội của Internet (vốn chỉ là những ảnh hưởng phụ, những vấn đề có thể giải quyết bằng giải pháp công nghệ, giáo dục hơn là giải quyết bằng những quy định bằng pháp luật nhằm tạo ra những rào cản cho phát triển thương mại điện tử) mà chưa chú ý tới tính thương mại và lợi ích mà Internet mang lại. Vì vậy cả về phía Nhà nước ta, vấn đề nhận thức vẫn là vấn đề quan trọng hàng đầu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM
2.1. Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp ở Việt Nam
Biểu đồ: Chuyển biến về ứng dụng TMĐT trong doanh nghiệp qua hai năm 2006 - 2007
Nếu hiểu thương mại điện tử là việc sử dụng các phương tiện điện tử để tiến hành hoạt động thương mại, thì doanh nghiệp có thể triển khai thương mại điện tử trên nhiều cấp độ, từ sử dụng email để giao dịch với đối tác, giao kết hợp đồng thông qua điện thoại, fax, email, cho đến xây dựng website riêng của mình hoặc tham gia các sàn giao dịch, v.v...
Kết quả điều tra hai năm qua cho thấy ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp ngày càng mở rộng trên mọi cấp độ, và phát triển nhanh ở những ứng dụng có độ phức tạp cao. Tỷ lệ doanh nghiệp có website tăng từ 31% lên 38%, tỷ lệ tham gia sàn giao dịch tăng từ 8% lên 10%, tỷ lệ kết nối cơ sở dữ liệu với đối tác tăng từ 13% lên 15%. Những số liệu này cho thấy khi các ứng dụng “phổ thông” như email đã đạt đến độ ổn định (với trên 80% đơn vị được khảo sát có sử dụng), doanh nghiệp bắt đầu đi vào khai thác theo chiều sâu những ứng dụng đòi hỏi kỹ năng CNTT và TMĐT cao hơn, đồng thời tiến gần đến giao dịch thương mại điện tử ở hình thái hoàn chỉnh hơn.
Bảng các phương thức nhận đặt hàng qua phương tiện điện tử
Website
Thư điện tử
Fax
Điện thoại
2007
24,4%
64,8%
63,7%
65,3%
2006
22,2%
59,4%
69,2%
64,6%
Mặc dù tỷ lệ đơn vị chấp nhận đặt hàng bằng phương tiện điện tử năm 2007 không có nhiều thay đổi so với năm 2006, tương quan giữa các phương tiện được sử dụng đã có sự chuyển biến khá rõ rệt. Bên cạnh những phương tiện truyền thống như fax và điện thoại, thư điện tử với website đang ngày càng trở nên phổ biến trong giao dịch giữa các đối tác kinh doanh. Đặc biệt, thư điện tử đang dần thay thế fax và vươn lên vị trí thứ hai (sau điện thoại) trong các phương tiện được sử dụng nhiều nhất, với gần 65% doanh nghiệp được khảo sát cho biết “nhận đặt hàng qua thư điện tử”, tăng hơn 5% so với tỷ lệ 59,4% của năm 2006.
Một dấu hiệu đáng mừng nữa về sự phát triển theo chiều sâu của ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp là việc 28,2% đơn vị được khảo sát cho biết đã có dự án hoặc kế hoạch triển khai ứng dụng thương mại điện tử. Phổ biến nhất là các kế hoạch xây dựng website, tham gia sàn giao dịch điện tử, nâng cấp hoặc tăng cường an ninh cho hệ thống TMĐT hiện hành, tin học hóa các quy trình kinh doanh từ trong nội bộ doanh nghiệp, v.v...
2.2.Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa ở VN
Sàn TMĐT hỗ trợ giao dịch doanh nghiệp với người tiêu dùng (B2C) và người tiêu dùng với người tiêu dùng (C2C) 107
Bảng doanh số bán háng trên sàn TMĐT B2C
Phần lớn các sàn B2C hoạt động theo dạng cửa hàng trực tuyến kinh doanh tổng hợp nhiều mặt hàng, trong đó chủ yếu là các mặt hàng có độ tiêu chuẩn hoá cao như hàng điện tử, thiết bị điện, đồ gia dụng, sách báo, văn phòng phẩm, v.v... Với mô hình kinh doanh và chiến lược quảng bá bài bản, nhiều sàn thương mại điện tử B2C bắt đầu tạo nguồn doanh thu ổn định cho doanh nghiệp
Các sàn thương mại điện tử theo mô hình C2C xuất hiện rầm rộ nhất trong hai năm 2004 và 2005, giai đoạn 2006-2007 số lượng sàn tăng chậm hơn nhưng chất lượng tốt hơn. Các sản phẩm được mua bán trên những sàn này tăng nhanh, các tiện ích và tính năng hỗ trợ đa dạng hơn, số người mua người bán cũng như lượng giao dịch thực hiện ngày càng tăng. Tuy giá trị các giao dịch không lớn, nhưng mô hình thương mại điện tử C2C có sức lan toả cao và góp phần đưa ứng dụng thương mại điện tử tới từng người dân, tạo thói quen mua bán hiện đại cho xã hội.
2.3. Đánh giá chung
2.3.1. Hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử
Biêu đồ: Tương quan giữa đầu tư và doanh thu từ hoạt động ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp năm 2007
Tình hình đầu tư và doanh thu cho thấy từng phần của bức tranh ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp.
Nếu lấy các mốc 5% và 15% làm biên độ chuẩn cho tỷ trọng đầu tư cũng như doanh thu liên quan đến thương mại điện tử của doanh nghiệp, biểu đồ trên sẽ cho thấy mối tương quan trái chiều giữa hai yếu tố. Trong khi phân bổ đầu tư có khuynh hướng lệch về cận dưới (50% doanh nghiệp dành dưới 5% tổng chi phí hoạt động thường niên cho các ứng dụng CNTT và TMĐT) thì mức đóng góp cho doanh thu mà những khoản đầu tư này mang về lại tập trung quanh cận trên (37% doanh nghiệp có doanh thu từ thương mại điện tử chiếm trên 15% tổng doanh thu của năm).
Như vậy, tỷ lệ đầu tư và tỷ lệ doanh thu từ thương mại điện tử không nhất thiết có quan hệ thuận biến. Trong khi chỉ 14% doanh nghiệp có tỷ lệ đầu tư cho TMĐT chiếm trên 15% tổng chi phí, thì một con số lớn hơn rất nhiều (37%) cho biết có tỷ lệ doanh thu từ hoạt động bán hàng sử dụng các phương tiện điện tử chiếm trên 15% tổng doanh thu. Ngược lại, 50% doanh nghiệp có mức đầu tư thấp cho thương mại điện tử (dưới 5%) nhưng chỉ một nửa số này cho biết tỷ trọng doanh thu từ thương mại điện tử cũng thấp tương ứng. Như vậy, một nhóm khá lớn doanh nghiệp đã khai thác được các khoản đầu tư của mình để thu về hiệu quả cao hơn so với chi phí bỏ ra cho hoạt động ứng dụng thương mại điện tử.
Mối tương quan giữa đầu tư với doanh thu thương mại điện tử như phân tích ở trên đã cho thấy hiệu suất doanh thu cao mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp cho doanh thu mới chỉ là một trong những tác động của thương mại điện tử đối với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngoài yếu tố định lượng này, còn rất nhiều yếu tố định tính khác để đánh giá hiệu quả ứng dụng thương mại điện tử. Bộ Công Thương đã tiến hành điều tra về đánh giá của doanh nghiệp đối với sáu tiêu chí tác động khác và kết quả điều tra cho các năm từ 2004 đến 2007 được trình bày ở bảng dưới đây.
Bảng đánh giá của doanh nghiệp về các tác động của TMĐT tới hoạt động kinh doanh
Các tác động
Điểm bình quân *
2004
2005
2006
2007
Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có
2,90
3,23
3,03
2,90
Thu hút khách hàng mới
2,60
2,90
3,30
2,81
Xây dựng hình ảnh DN
3,20
3,22
2,23
2,87
Tăng doanh số
1,90
1,94
2,25
2,44
Tăng lợi nhuận & hiệu quả hoạt động
2,00
1,90
2,78
2,52
Giảm chi phí kinh doanh
2,67
2,46
Tăng khả năng cạnh tranh
2,89
2,44
* Tính trên thang điểm 4
Khi được yêu cầu cho điểm những tác động của ứng dụng thương mại điện tử, cụ thể là website, đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp theo thang điểm từ 0 đến 4, trong đó 4 là mức hiệu quả cao nhất, đa số doanh nghiệp cho điểm rất cao tác động “Xây dựng hình ảnh doanh nghiệp” và “Mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có”. Việc hai tiêu chí này đứng đầu bảng xếp hạng trong nhiều năm cho thấy doanh nghiệp tiếp tục đề cao website như một công cụ xúc tiến thương mại hiệu quả. Những lợi ích khác mà ứng dụng thương mại điện tử đem lại như tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động, giảm chi phí kinh doanh, tăng khả năng cạnh tranh, v.v... của hai năm qua tăng mạnh so với giai đoạn 2005 trở về trước. Tuy nhiên, sự thay đổi không đáng kể của các lợi ích này giữa năm 2007 và 2006 cho thấy TMĐT chưa chuyển hẳn sang giai đoạn phát triển mới – giai đoạn mua bán, ký kết hợp đồng và thanh toán trực tuyến.
2.3.2. Trở ngại cho ứng dụng TMĐT
Theo dõi nhận định của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng dụng thương mại điện tử qua kết quả khảo sát hàng năm, có thể thấy sự chuyển biến của từng yếu tố trong tương quan chung về môi trường phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam. Nếu trong những năm trước, vấn đề nhận thức xã hội luôn được coi là trở ngại hàng đầu đối với việc triển khai thương mại điện tử trên diện rộng, thì đến năm 2007 trở ngại này đã được xếp xuống vị trí thứ ba theo đánh giá của doanh nghiệp. Nổi lên vị trí đầu bảng trong danh sách các trở ngại là vấn đề an ninh an toàn giao dịch. Kết quả này phản ánh đúng thực trạng thời gian qua, khi hoạt động của các cơ quan, tổ chức xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng đã giúp nâng cao nhận thức toàn xã hội về thương mại điện tử, nhưng mặt khác việc đưa ứng dụng thương mại điện tử vào từng lĩnh vực của đời sống cũng nhanh chóng làm bộc lộ những nguy cơ tiềm ẩn về an toàn an ninh mà người tiêu dùng và doanh nghiệp chưa có kinh Bảng đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại cho ứng dụng thương mại điện tử
nghiệm xử lý khi gặp phải.
Trong khi đó, những vấn đề về an ninh an toàn của giao dịch trực tuyến, bảo vệ dữ liệu cá nhân, v.v... có thể sẽ nổi lên hàng đầu, tương tự như thực tiễn tại các nước có nền thương mại điện tử phát triển hơn.
2.3.2.1. Hạ tầng cơ sở về nhân lực.
Bên cạnh việc phản ánh thực trạng môi trường ứng dụng thương mại điện tử, đánh giá của doanh nghiệp về các trở ngại đồng thời cũng cho thấy chuyển biến trong nhận thức đối với những vấn đề cần ưu tiên khi triển khai thương mại điện tử. Năm 2007 là năm thứ ba liên tiếp vấn đề thanh toán có mặt ở vị trí thứ2 trong danh sách các trở ngại, cho thấy mức độ quan tâm cũng như nhu cầu của doanh nghiệp về một hạ tầng thanh toán hiện đại phục vụ cho hoạt động thương mại điện tử. Với việc một loạt nhà cung cấp dịch vụ đi vào hoạt động trong năm2007, hi vọng vấn đề thanh toán điện tử sẽ không còn là trở ngại lớn đối với tiến trình phát triển thương mại điện tử tại Việt Nam trong những năm tới.
Thương mại trong khái niệm “thương mại điện tử” động chạm tới mọi con người, từ người tiêu thụ tới người sản xuất phân phối, tới các cơ quan Chính phủ, tới các nhà công nghệ và phát triển. áp dụng thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa tất yếu làm nảy sinh yêu cầu mọi nhân viên trong doanh nghiệp giao nhận phải quen thuộc và có khả năng thành thạo hoạt động trên mạng. Ngoài ra, các nhân viên này phải thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển để phục vụ cho thương mại điện tử và các thông tin về kinh doanh giao nhận của các doanh nghiệp khác để từ đó rút ra những kinh nghiệm cho mình.
Khi sử dụng Internet/Web, thì một yêu cầu tự nhiên nữa của kinh doanh trực tuyến là tất cả những nhân viên giao nhận tham gia đều phải giỏi Anh ngữ, ngôn ngữ chủ yếu được sử dụng trong thương mại nói chung, và thương mại điện tử qua mạng Internet nói riêng, vẫn là tiếng Anh.
Đòi hỏi này của thương mại điện tử sẽ dẫn tới sự thay đổi căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo cuả các quốc gia muốn tham gia đầy đủ vào hệ thống giao dịch thương mại điện tử toàn cầu nói chung và hoạt động kinh doanh giao nhận nói riêng trong tương lai.
2.3.2.2. Hệ thống thanh toán tài chính tự động
Thương mại điện tử chỉ có thể thực hiện khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính (financial payment) phát triển cho phép thực hiện thanh toán tự động. Như vậy cần phải xây dựng một hệ thống mạng thanh toán liên ngân hàng. Để đảm bảo an ninh, mạng liên ngân hàng là mạng riêng, không kết nối với Internet và không xây dựng trên chuẩn TCP/CP (giao thức chuẩn quốc tế). Với việc thiết lập một mạng nghiệp vụ tài chính ngân hàng toàn cầu đã cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong đó thông tin trao đổi đã được chuẩn hóa như dịch vụ mở tín dụng thư, dịch vụ chuyển tiền. Ngoài ra, hệ thống thương mại điện tử cung cấp dịch vụ thanh toán cho Internet user (người sử dụng Internet) từ Internet thanh toán vào mạng riêng của ngân hàng. Hệ thống thương mại điện tử sẽ đóng vai trò như một cổng (Gateway) giữa Internet và mạng ngân hàng. Khi chưa có hệ thống này thì doanh nghiệp giao nhận chỉ ứng dụng được phần trao đổi thông tin, thanh toán vẫn phải kết thúc bằng các phương tiện thanh toán truyền thống, khi ấy hiệu quả của kinh doanh giao nhận trong thương mại điện tử bị giảm thấp và có thể không đủ để bù lại các chi phí trang bị công nghệ đã bỏ ra. Để hoạt động kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp giao nhận phải có sự hội nhập và thiết lập một hệ thống thanh toán tài chính hoàn thiện trên nền tảng của thương mại điện tử.
2.3.2.3. Hạ tầng cơ sở về kinh tế và pháp lý
Môi trường kinh tế, pháp lý của mỗi doanh nghiệp giao nhận phải hòa nhập được với môi trường kinh tế, pháp lý quốc gia và quốc tế bởi vì, ngay trong bản thân của nền kinh tế tri thức và thương mại điện tử mang tính toàn cầu hóa rất cao. Một số vấn đề sẽ bị thay đổi có tính đảo lộn so với truyền thống kinh doanh trước đây, thí dụ, đánh thuế trong thương mại điện tử áp dụng trong giao nhận hàng hóa như thế nào? Đánh thuế các dung liệu (hàng hóa phi vật thể: Âm nhạc, phần mềm, ...)? Những hàng hóa, dịch vụ truyền qua mạng mang tính không biên giới và không qua hải quan như vậy thì ta phải xây dựng tính pháp lý trong thương mại điện tử như thế nào? Tuy nhiên về mặt pháp lý, cần phải giải quyết được một số vấn đề:
Thừa nhận tính pháp lý của giao dịch thương mại điện tử.
Bảo vệ pháp lý đối với các hoạt động thương mại điện tử.
Thừa nhận tính pháp lý của chữ ký điện tử, chữ ký số hóa.
Xây dựng các thiết chế pháp lý, các cơ quan pháp lý thích hợp cho việc xác thực/chứng nhận hay chứng thực (Authentication/Certification) chữ ký điện tử và chữ ký số hóa.
Vì những lý do tương tự như trên, giao nhận hàng hóa trong thương mại điện tử đang được các nước xem xét một cách chiến lược và thận trọng.
2.3.2.4. Hạ tầng về cơ sở công nghệ
Thương mại điện tử không phải là một sáng kiến ngẫu hứng mà là hệ qủa tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa của công nghệ thông tin, mà trước hết là kỹ thuật máy tính. Vì thế chỉ có thể thực sự tiến hành thương mại điện tử có hiệu quả khi các doanh nghiệp kinh doanh giao nhận đã có một mạng lưới máy tính được nối mạng hoàn thiện.
Hạ tầng cơ sở công nghệ không chỉ có nghĩa là tính hiện hữu (availability); mà còn hàm nghĩa có tính kinh tế sử dụng (affordability), nghĩa là chi phí trang bị các phương tiện công nghệ thông tin (điện thoại, máy tính, modem v.v.) và chi phí dịch vụ truyền thông (phí điện thoại, phí nối mạng và truy cập mạng) phải đủ rẻ để đông đảo người sử dụng có thể tiếp cận được. Điều này các doanh nghiệp giao nhận cần có sự hỗ trợ của Nhà nước.
2.3.2.5. An toàn và bảo mật
Giao dịch thương mại điện tử trong giao nhận hàng hóa đòi hỏi rất cao về bảo mật và an toàn, nhất là khi hoạt động trên Internet/Web:
Bản thân mạng viễn thông phải đảm bảo an toàn và tin cậy; Phải có các công cụ hữu hiệu để bảo vệ các hệ thống thông tin kết nối tới các mạng viễn thông đó; Phải có những biện pháp hữu hiệu để xác nhận và bảo đảm tính bảo mật của dữ liệu điện tử tránh được những truy nhập trái phép.
Trong lĩnh vực giao nhận, người giao hàng thì lo người nhận hàng không thanh toán cho các hợp đồng đã được ký kết theo kiểu điện tử qua Web, người nhận hàng thì lo các chi tiết của thẻ tín dụng của mình bị lộ, kẻ xấu sẽ lợi dụng mà rút tiền.
Kỹ thuật mã hóa (cryptography) hiện đại (trong đó có kỹ thuật “Mã hóa công khai/bí mật”), với khóa dài tối thiểu tới 1024, 2048 bit, cùng với các công nghệ SSL (Secure Sockets Layer), SET (Secure Electronic Transaction) đang giúp giải quyết vấn đề này, trong đó có vấn đề “chữ ký điện tử” (electronic signature), “chữ kỹ số hóa” (digital signature) (là chữ ký biểu diễn bằng các bit điện tử, và được xác thực thông qua giải mã).
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG GIAO NHẬN HÀNG HOÁ Ở VIỆT NAM
3.1. Đối với các doanh nghiệp
3.1.1. Tăng cường nguồn nhân lực về thương mại điện tử
Kết quả điều tra ứng dụng thương mại điện tử năm 2007 cho thấy sự quan tâm đầu tư nhiều hơn cho phát triển nguồn nhân lực trực tiếp ứng dụng và triển khai thương mại điện tử đã góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp muốn chuyển sang mức ứng dụng cao hơn thì phải đầu tư nhiều hơn nữa cho việc phát triển nguồn nhân lực.
Các doanh nghiệp có thể cử cán bộ tham gia các chương trình đào tạo về thương mại điện tử tại các trường đại học hoặc các khóa tập huấn về thương mại điện tử do các cơ quan quản lý nhà nước tổ chức. Các doanh nghiệp cũng có thể khai thác nhiều tài liệu hướng dẫn về thương mại điện tử trực tuyến, học tập kinh nghiệm triển khai thương mại điện tử thành công của các doanh nghiệp khác, v.v...
3.1.2. Xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử tại doanh nghiệp
Song song với việc phát triển nguồn nhân lực về thương mại điện tử, các doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử trên cơ sở gắn chặt chiến lược này với chiến lược kinh doanh dài hạn của mình. Khi xây dựng chiến lược phát triển thương mại điện tử các doanh nghiệp cần xác định rõ sự phát triển hết sức mau lẹ của công nghệ thông tin và truyền thông tác động một cách cực kỳ sâu sắc và mau lẹ tới mọi mặt của kinh tế xã hội toàn thế giới, có thể làm thay đổi cấu trúc các ngành kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp
Đồng thời, chiến lược ứng dụng thương mại điện tử của doanh nghiệp cũng cần phù hợp với mức phát triển chung của chính phủ điện tử và hạ tầng công nghệ thông tin và Internet trên phạm vi toàn quốc và tại địa phương. Các doanh nghiệp cần bám sát các chiến lược, kế hoạch, chương trình phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử của cơ quan quản lý nhà nước các cấp khi xây dựng chiến lược ứng dụng thương mại điện tử của mình, tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung chiến lược cho phù hợp với tình hình mới.
3.1.3. Tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thương mại điện tử
Vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp ngày càng tăng trong xã hội hiện đại, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh. Tham gia các tổ chức xã hội nghề nghiệp về thương mại điện tử các doanh nghiệp có cơ hội hỗ trợ nhau tốt hơn trong hoạt động kinh doanh trực tuyến, chia sẻ chi phí triển khai các ứng dụng và hạ tầng công nghệ, bảo vệ nhau trước các tranh chấp phát sinh trong môi trường kinh doanh mới, tăng cường sức mạnh nhờ có tiếng nói chung, v.v...
Nhiều doanh nghiệp năng động trong lĩnh vực thương mại điện tử đã cùng nhau thành lập Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam (Vecom) vào giữa năm 2007. Một mặt, cần có kế hoạch hợp lý để triển khai nhiều hoạt động mang lại lợi ích cụ thể cho các thành viên, đồng thời chú trọng tới công tác phát triển hội viên trên phạm vi cả nước. Mặt khác, các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực kinh doanh nên chủ động tìm hiểu tôn chỉ của Vecom và chung sức đóng góp cho Vecom lớn mạnh. Các cơ quan quản lý nhà nước về hội và thương mại điện tử có trách nhiệm hỗ trợ Vecom hoạt động hiệu quả và thông qua Vecom để phổ biến, tuyên truyền về thương mại điện tử và các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Các doanh nghiệp cũng cần tìm hiểu và tham gia các tổ chức thương mại điện tử thế giới và khu vực. Chẳng hạn, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng liên quan tới trao đổi dữ liệu điện tử có thể tìm hiểu và tham gia Liên minh các doanh nghiệp thương mại điện tử châu Á (Pacific Asia Ecommerce Aliance – PAA), các doanh nghiệp quan tâm tới hoạt động bảo vệ dữ liệu cá nhân và dán nhãn tín nhiệm website nên tham gia các hoạt động của Liên minh các nhà dán nhãn tín nhiệm châu Á – Thái Bình Dương (Asia Trustmark Aliance – ATA), v.v...
3.1.4. Tuân thủ các qui định pháp luật
Thương mại điện tử là lĩnh vực khá mới mẻ ở Việt Nam và đang trên đà phát triển nhanh. Hệ thống pháp luật liên quan tới thương mại điện tử đã hình thành nhưng chưa hoàn thiện và có thể được bổ sung liên tục. Các doanh nghiệp cần thường xuyên tìm hiểu các quy định pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh trực tuyến, bao gồm các quy định về chứng từ điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng, thương hiệu và tên miền, xử phạt hành chính, bảo vệ dữ liệu cá nhân, giải quyết tranh chấp, v.v..
Đồng thời, các doanh nghiệp cũng cần chủ động phát huy quyền lợi của mình trong việc yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước đăng tải công khai và trực tuyến các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới thương mại điện tử, đóng góp ý kiến một c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6049.doc