Lời mở đầu 1
Chương I: Tổng quan về bán phá giá và chống bán phá giá trong thương mại quốc tế 2
1. Cơ sở lý luận của bán phá giá 2
1.1 Khái niệm bán phá giá 2
1.2 Giá trị thông thường, giá trị xuất khẩu và biên độ phá giá 2
2. Cơ sở lý luận của chống bán phá giá 4
2.1 Mục đích của chống bán phá giá 4
2.2 Thuế chống bán phá giá và các điều kiện áp dụng 7
2.3 Các biện pháp lựa chọn khi giải quyết các vụ kiện CBPG 7
3. Khuynh hướng phát triển của các biện pháp chống bán phá giá 8
Chương II: Thực trạng và kinh nghiệm ứng phó với các vụ kiện chống bán phá giá của Trung Quốc 10
1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc 10
2. Nguyên nhân của các vụ kiện 13
2.1 Nguyên nhân khách quan 13
2.2 Nguyên nhân chủ quan 14
3. Một số đối sách của Trung Quốc với các vụ kiện chống bán phá giá 15
3.1 Dưới góc độ chính phủ 15
3.2 Dưới góc độ doanh nghiệp 16
4. Vụ việc tiêu biểu : Cộng đồng Châu Âu điều tra chống bán phá giá với chất para-cresol của Trung Quốc 18
4.1 Diễn biến vụ kiện và các vấn đề liên quan 18
4.2 Nhận xét 20
Chương III: Bài học kinh nghiệm với Việt Nam 22
1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam 22
2. Những khó khăn của Việt Nam trong giải quyết tranh chấp về bán phá giá 23
3. Một số bài học kinh nghiệm để ứng phó thành công trong các tranh chấp về bán phá giá 24
3.1 Dưới góc độ chính phủ 24
Kết luận 25
Danh mục tài liệu tham khảo 25
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bài học kinh nghiệm của Trung Quốc về vấn đề tranh chấp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thẩm quyền quyết định như vậy. Nếu việc điều tra tiếp tục mà kết luận là không có bán phá giá thì cam kết giá tự động hết hiệu lực và ngược lại nó được thực hiện bình thường.
Theo luật pháp chống bán phá giá của Hoa Kỳ, để thay thế cho việc áp thuế CBPG có thể sử dụng biện pháp thỏa thuận đình chỉ. Đây là thỏa thuận do Bộ Thương mại Hoa Kỳ đàm phán với chính phủ hoặc các nhà sản xuất nước xuất khẩu để đình chỉ cuộc điều tra bán phá giá đổi lấy những cam kết nhất định liên quan tới giá hoặc số lượng hàng hóa xuất khẩu tới Hoa Kỳ : có thể thỏa thuận để hạn chế số lượng nhập khẩu, thỏa thuận để loại trừ hoàn toàn việc bán hàng dưới giá trị hợp lý, thỏa thuận loại trừ các ảnh hưởng gây thiệt hại.
3. Khuynh hướng phát triển của các biện pháp chống bán phá giá
Chống bán phá giá có hơn 100 năm lịch sử phát triển và đến nay đã là một trong những hiện tượng cơ bản của thương mại quốc tế. Các nước không ngừng sử dụng rộng rãi chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ chính thức khi các rào cản truyền thống như thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu ngày càng giảm đi. Các quy tắc chống bán phá giá có xu hướng ngày càng chặt chẽ, đồng bộ hơn giữa luật pháp của các nước và quy định chung của quốc tế. Mọi nước thành viên WTO định kì đều chịu sự thẩm tra tính minh bạch của các chính sách thương mại, qua đó tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, giảm bớt tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Sau các vụ kiện về bán phá giá, các nhà xuất khẩu đã sử dụng một số biện pháp nhằm giảm bớt hoặc tránh được thuế chống bán phá giá. Tiêu biểu như biện pháp xuất khẩu linh kiện của hàng hóa bị đánh thuế vào nước nhập khẩu rồi mới lắp ráp và bán thành phẩm tại nước nhập khẩu. Do sự khác biệt về chính sách thuế đối với linh kiện và thành phẩm nên các nhà xuất khẩu có thể tránh được thuế chống bán phá giá. Hoặc sử dụng biện pháp lắp ráp tại nước thứ ba rồi mới xuất khẩu vào thị trường nước nhập khẩu, thì hàng hóa sẽ mang xuất xứ từ nước thứ ba từ đó cũng tránh được thuế chống bán phá giá. Các nhà xuất khẩu còn có thể thay đổi một số đặc tính bên ngoài hoặc cải tạo sản phẩm thành sản phẩm mới, làm cho sản phẩm khác biệt với miêu tả về hàng hóa bị áp thuế CBPG thì vẫn tránh được việc phải nộp thuế. Để đối phó với các hiện tượng này, các biện pháp chống bán phá giá đã không ngừng được hoàn thiện và phát triển mới. Mỹ và EU là 2 khu vực đi đầu trong việc tăng cường, bổ sung liên tục các quy định này. Ngay trong luật cạnh tranh và thương mại tổng hợp của Mỹ từ năm 1988, đối với những trường hợp lắp ráp tại Mỹ để trốn thuế thì giá trị thành phẩm và giá trị NVL sẽ bị so sánh, khi chênh lệch nhỏ thì thuế chống bán phá giá vẫn sẽ được áp dụng. Hay đối với hàng hóa lắp ráp tại nước thứ ba vẫn có những quy định và kiểm tra để áp thuế CBPG với sản phẩm từ các nước thứ ba này. Ngoài ra bộ luật cũng quy định điều kiện thay đổi kĩ thuật của sản phẩm mà vẫn phải chịu thuế CBPG. Luật chống bán phá giá đã mở rộng phạm vi áp dụng, không chỉ trong lĩnh vực lưu thông mà còn liên quan đến đầu tư và sản xuất. Đối tượng bị áp thuế không chỉ là thành phẩm mà còn bao gồm cả linh kiện, phụ kiện, phạm vi áp thuế mở rộng đến cả lãnh thổ nước thứ ba. Công cụ chống bán phá giá đang phát triển ngày càng tinh vi, hiện đại hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo hộ nền sản xuất trong nước.
Chương II
Thực trạng và kinh nghiệm ứng phó với các vụ kiện
chống bán phá giá của Trung Quốc
1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc
Theo số liệu thống kê thì từ năm 1995 đến 2005, Trung Quốc đứng đầu danh sách các quốc gia bị kiện chống bán phá giá với 469 vụ kiện (chiếm 28,13% tổng số vụ). Số quốc gia thi hành các biện pháp CBPG với Trung Quốc tăng dần theo thời gian. Những năm 70, 80 chỉ có gần 10 nước và khu vực thi hành biện pháp này với Trung Quốc trong đó EU là một trong những khu vực đầu tiên. Đến những năm 1990 và 2000 con số các quốc gia này đã lên tới 28 quốc gia. Trong đó các thị trường lớn của Trung Quốc như EU đến năm 2000 đã kiện TQ 90 vụ, Hoa Kỳ 77 vụ, Hàn Quốc 14 vụ, Ấn Độ 37 vụ Có thể thấy không chỉ các nước phát triển tiến hành các biện pháp với hàng xuất khẩu Trung Quốc mà ngay cả những quốc gia đang phát triển như Ấn Độ, Peru, Chile... cũng có số lượng lớn các vụ kiện hàng hóa Trung Quốc khi thâm nhập vào thị trường các nước này. Hàng hóa Trung Quốc bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá không chỉ tăng lên về số vụ, số nước khởi kiện mà phạm vi sản phẩm bị kiện và tổn thất cũng ngày càng lớn. Trung bình trong giai đoạn 1995-2000 mỗi năm Trung Quốc phải chịu 34,5 vụ kiện và sau hơn 5 năm gia nhập WTO đã lên tới 51,2 vụ/ năm. Các ngành hàng bị áp dụng chủ yếu vẫn là các hàng công nghiệp nhẹ, mang lợi thế cạnh tranh cao như hóa chất, dệt may, giầy da, kim loại cơ bản Đa số các vụ kiện hàng hóa Trung Quốc đều có kết quả là áp dụng các biện pháp CBPG, trong đó chủ yếu là đánh thuế chống bán phá giá, yêu cầu cam kết về giá cả, chủ động phân bổ hạn ngạch. Thời gian thi hành các biện pháp này là 5 năm hoặc lâu hơn. Các biện pháp được áp dụng với Trung Quốc đã gây thiệt hại trực tiếp cho Trung Quốc 10 tỷ đồng. Riêng các nước EU đã chiếm tới 3 tỷ USD, với 9 vụ trị giá 100 triệu USD/vụ, 32 vụ trị giá 10 triệu USD/vụ.
Một số vụ kiện bán phá giá của hàng hóa TQ có giá trị kim ngạch cao
Nguồn : Tạp chí kinh tế đối ngoại Trung Quốc
Nước khởi kiện
Năm
Tên sản phẩm
Kim ngạch (trăm triệu ECU)
EU
1991
Xe đạp và phụ kiện
165
1995
Giày
342
1996
Túi du lịch
646
1996
Túi xách tay
274
1997
Đĩa hát
303
1999
Than cốc
230
Mỹ
1990
Quạt điện
200
1995
Xe đạp
200
1996
Thép cacbon
150
Tuy là quốc gia bị áp dụng các biện pháp CBPG nhiều nhất trên thế giới song so với kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc thì giá trị hàng hóa bị kiện CBPG vẫn chưa đáng kể. Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc là 438,37 tỉ USD thì khối lượng hàng hóa xuất khẩu bị kiện bán phá giá chỉ có 2,2 tỉ USD, chiếm khoảng 0,51% so với tổng kim ngạch xuất khẩu. Là một trong những quốc gia có kim ngạch xuất khẩu lớn trên thế giới, hàng hóa phong phú có sức cạnh tranh cao, nguy cơ bị kiện CBPG với hàng hóa Trung Quốc vẫn tiếp tục gia tăng.
Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá trên thế giới có thể thấy qua các bảng sau
Các quốc gia bị kiện bán phá giá (1995-2005)
Quốc gia
Số vụ bị kiện
Tỷ lệ
Trung Quốc
469
28,13%
Hàn Quốc
218
13,08%
Hoa Kỳ
162
9,72%
Đài Loan
160
9,60%
Nhật Bản
125
7,50%
Indonesia
121
7,26%
Ấn Độ
120
7,20%
Thái Lan
111
6,60%
Nga
97
5,82%
Brazil
84
5.03%
Các quốc gia tiến hành các vụ kiện CBPG (1995-2005)
Quốc gia
Số vụ kiện
Tỷ lệ
Ấn Độ
425
19,51%
Hoa Kỳ
366
16,80%
EU
327
15,01%
Argentina
204
9,37%
Nam Phi
197
9,04%
Úc
179
8,22%
Canada
134
6,15%
Trung Quốc
123
5,65%
Brazil
122
5,60%
Thổ Nhĩ Kì
101
4,64%
Theo số liệu trong bàng, Trung Quốc đứng đầu danh sách với số vụ bị kiện nhiều nhất (469 vụ) và Brazil là nước có số lần bị kiện thấp nhất (84 vụ). Đa số các nước bị kiện vẫn là các nước đang phát triển, tuy nhiên riêng Hoa Kỳ và Nhật Bản dù là nước phát triển song vẫn thuộc 10 nước có số vụ bị kiện cao nhất. Về phía các nước khởi kiện, Ấn Độ tuy là một quốc gia đang phát triển nhưng lại đứng đầu về số vụ khởi kiện (425 vụ). Hoa Kỳ và EU chỉ đứng thứ 2 và 3 với số vụ lần lượt là 366 và 327. Có thể thấy, chống bán phá giá không chỉ là công cụ bảo hộ của các nước phát triển mà giờ đây cũng được các nước đang phát triển sử dụng ngày càng nhiều.
2. Nguyên nhân của các vụ kiện
2.1 Nguyên nhân khách quan
Chống bán phá giá trở thành công cụ bảo hộ hợp pháp đang được sử dụng ngày càng nhiều trong quan hệ thương mại quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại ngày càng phát triển khiến cạnh tranh trở nên gay gắt, quyết liệt hơn. Các biện pháp bảo hộ truyền thống như thuế quan, hạn ngạch dần dần bị vô hiệu hóa với sự ra đời của GATT, WTO. Song chống bán phá giá lại được WTO cho phép sử dụng để bảo vệ môi trường cạnh tranh và sản xuất trong nước nên chính quyền các nước nhập khẩu đã tận dụng triệt để công cụ hợp pháp này. Thông qua kiện bán phá giá có thể thu hẹp thị phần của hàng nhập khẩu, tăng giá hoặc giảm sức cạnh tranh của hàng nhập khẩu, nếu áp dụng thuế còn có thể tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Như vậy, chống bán phá giá đã trở thành biện pháp vô cùng hữu hiệu để bảo vệ sản xuất trong nước.
Các nước thực thi chính sách phân biệt đối xử với hàng hóa Trung Quốc. Kinh tế Trung Quốc liên tục tăng trưởng cao trong nhiều năm. Không chỉ trờ thành một trong những thị trường tiềm năng của các nhà xuất khẩu hướng tới mà các doanh nghiệp của Trung Quốc cũng thâm nhập sâu vào thị trường các nước khác. Ngân hàng thế giới dự báo năm 2020 tỉ lệ kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc trong tổng kim ngạch thương mại thế giới sẽ gấp hơn 3 lần tỉ lệ này năm 1992 (đạt khoảng 10%) và có hi vọng trở thành nước có nền thương mại lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Mỹ (chiếm 12%). Lo ngại hàng hóa Trung Quốc sẽ chiếm lĩnh thị trường, tạo áp lực với các nước nhập khẩu, các quốc gia lần lượt đưa Trung Quốc vào danh sách đối tượng chủ yếu của chống bán phá giá, và áp dụng chính sách phân biệt đối xử.
2.2 Nguyên nhân chủ quan
Các doanh nghiệp Trung Quốc chưa có chiến lược tập trung chú ý toàn diện khi tham gia thị trường thương mại quốc tế. Khi bị khiếu kiện vẫn thiếu sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, liên minh liên kết giữa các doanh nghiệp để bảo vệ sản phẩm xuất khẩu. Thiếu hiểu biết về thị trường, luật pháp, phong tục tập quán các nước nhập khẩu, cũng như chỉ dùng giá cả làm chiến lược duy nhất đều là những nguyên nhân khiến hàng hóa Trung Quốc càng dễ dàng trở thành mục tiêu trong các vụ kiện chống bán phá giá. Cơ cấu kinh tế và hình thức kinh doanh phân tán, quản lý điều hòa ngành nghề yếu kém, các doanh nghiệp đua nhau cạnh tranh với mức giá thấp thì nguy cơ xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá tất yếu cũng sẽ tăng lên. Bên cạnh đó để gia nhập WTO, Trung Quốc đã chấp nhận bị coi là nền kinh tế phi thị trường trong vòng 15 năm (2001-2016), điều này khiến Trung Quốc ở vị thế bất lợi hơn trong các vụ kiện, do đó các nước có cơ hội giành thắng lợi cao càng có động cơ tiến hành điều tra BPG với hàng hóa Trung Quốc. Khi tiến hành điều tra, Trung Quốc cũng bị thua thiệt vì doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ không tham gia kháng kiện, không hiểu rõ về luật pháp quốc tế. Vụ kiện chỉ dựa vào một phía nước khởi kiện càng dễ dàng thành công hơn, để áp dụng các biện pháp với hàng hóa Trung Quốc. Và khi một nước khiếu kiện thành công, kéo theo các nước nhập khẩu khác cũng lần lượt kiện hàng hóa Trung Quốc. Qua một số vụ kiện thực tế có thể thấy nếu doanh nghiệp Trung Quốc tích cực kháng kiện thì có thể tránh được hoặc giảm bớt số thuế chống bán phá giá phải nộp.
3. Một số đối sách của Trung Quốc với các vụ kiện chống bán phá giá
3.1 Dưới góc độ chính phủ
Chính phủ Trung Quốc đóng vai trò to lớn và tích cực trong suốt quá trình ứng phó với các vụ kiện CBPG. Ngay từ năm 2001, Ủy ban kiểm soát công bằng trong ngoại thương đã được thành lập, là bộ phận chuyên trách của chính phủ giám sát và hỗ trợ các vụ kiện hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc, đồng thời cũng điều tra hành vi phá giá của các nhà nhập khẩu nước ngoài trên thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, chính phủ cũng tăng cường, củng cố quan hệ ngoại giao, đàm phán, hợp tác với các nước trên thế giới, thúc đẩy các nước nhanh chóng điều chỉnh chính sách chống bán phá giá với Trung Quốc, tạo môi trường thương mại thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong hầu hết các vụ kiện, Bộ trưởng Bộ Thương Mại Trung Quốc thường đích thân viết thư cho Bộ trưởng Bộ Thương Mại Hoa Kỳ, Thương vụ Trung Quốc tại Hoa Kỳ cũng thay mặt chính phủ gặp phía Hoa Kỳ, bày tỏ thái độ hết sức quan tâm và hợp tác. Trong vụ kiện hàng tơ lụa xuất khẩu của Trung Quốc vào thị trường Ấn Độ, đàm phán của chính phủ đã giúp kéo dài thêm thời gian điều tra để doanh nghiệp có điều kiện chuẩn bị sẵn sàng ứng phó. Đàm phán tuy không thể đạt mục tiêu đình chỉ vụ kiện tuy nhiên vẫn có những ảnh hưởng tích cực tới kết quả vụ kiện. Nỗ lực của chính phủ bước đầu đã mang lại thành công đáng kể. Một số quốc gia đã công nhận vị thế kinh tế thị trường của Trung Quốc như Brazil, Argentina, Chile trong đó Canada và Australia là hai quốc gia phương tây đầu tiên xác nhận vị thế kinh tế thị trường cho một ngành công nghiệp của Trung Quốc. Riêng EU và Hoa Kỳ vẫn là những đối tác rất khó đàm phán.
Chính phủ tăng cường công tác quản lý hoạt động ngoại thương, đẩy mạnh vai trò hướng dẫn, tuyên truyền về CBPG với các doanh nghiệp. Hàng loạt các biện pháp, luật định được đưa ra nhằm giám sát hoạt động xuất khẩu đảm bảo tính thống nhất, khoa học. Chính phủ tích cực chủ động cung cấp thông tin, hướng dẫn về tình hình thị trường, luật pháp thương mại nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nắm bắt tình hình thực tế, hạn chế rủi ro ở thị trường nước ngoài. Sau mỗi vụ kiện, chính phủ và hiệp hội các ngành hàng đều tổ chức đúc rút kinh nghiệm, tuyên truyền phổ biến cho các doanh nghiệp xuất khẩu, qua đó nâng cao nhận thức, và khả năng ứng phó của các doanh nghiệp. Ngoài trợ giúp về thông tin, kĩ năng, Chính phủ còn lập các quỹ tài chính hỗ trợ chi phí cho các doanh nghiệp theo đuổi các vụ kiện, nâng cao cơ hội giành thắng lợi.
Là một thành viên của WTO, Trung Quốc tận dụng tối đa các nguyên tắc và cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để bảo vệ hàng hóa xuất khẩu. Theo quy định của WTO, Trung Quốc có thể nêu ý kiến nếu phát hiện thấy luật CBPG của nước khởi kiện đi ngược lại với ý chí của hiệp định chống bán phá giá WTO, đề nghị Ủy ban chống bán phá giá WTO yêu cầu nước khởi kiện sửa đổi luật CBPG của họ, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của WTO bảo vệ quyền lợi chính đáng của nước mình. Tiêu biểu có vụ việc vào 3/2002 Trung Quốc cùng một số nước khác kiện lên WTO việc Hoa Kỳ áp thuế CBPG với mặt hàng thép. Đến 9/2007 Trung Quốc lại chính thức gửi đơn lên WTO kiện Hoa Kỳ vi phạm quy định của WTO trong việc kiện CBPG và chống trợ cấp với mặt hàng giấy tráng cao cấp của Trung Quốc Hiện nay Trung Quốc đã tích cực và chủ động hơn, sử dụng các công cụ, quyền lợi là thành viên WTO để bảo vệ quyền lợi các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước.
3.2 Dưới góc độ doanh nghiệp
Các doanh nghiệp ngày càng có thái độ sẵn sàng hợp tác điều tra bán phá giá với nước ngoài, tích cực theo đuổi các vụ kiện hơn. Thực tiễn các vụ kiện cho thấy, khi doanh nghiệp tích cực kháng kiện thì cơ hội giữ lại thị trường là rất lớn. Tùy theo từng trường hợp cụ thể sẽ điều chỉnh mức thuế suất, hoặc có thể sử dụng biện pháp cam kết giá, hạn chế xuất khẩu tự nguyện, thậm chí thắng kiện chứng minh được không hề có tình trạng bán phá giá, nhưng ngược lại khi các doanh nghiệp không theo kiện thì chắc chắn bị áp thuế suất cao, thậm chí mất hoàn toàn thị trường, giảm uy tín của hàng hóa. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động trích một phần kinh phí để thuê các công ty luật hoặc công ty phân tích thị trường để thu thập thông tin, đánh giá sớm nguy cơ xảy ra vụ kiện. Một số doanh nghiệp còn đặt quan hệ đối tác lâu dài với các công ty luật chuyên về CBPG. Đã có tới 60 – 70% các doanh nghiệp sẵn sàng ứng phó kể cả các vụ kiện liên quan tới EU hay Hoa Kỳ. Nỗ lực này cũng giúp Trung Quốc giành được nhiều thắng lợi, với 36% doanh nghiệp đã thắng kiện. Tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp chưa mặn mà với việc theo đuổi vụ kiện vẫn còn rất nhiều.
Các doanh nghiệp đã đổi mới quản lý, hoạt động, đảm bảo tiêu chuẩn về doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Từ 1/7/2000 Trung Quốc bắt đầu thực hiện luật kế toán mới và từ 1/1/2001 thực hiện điều lệ báo cáo tài chính kế toán doanh nghiệp phù hợp với tiêu chuẩn kế toán quốc tế. Đây là một trong nỗ lực để đưa doanh nghiệp tiến gần tới các tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi về khoản đầy đủ giấy tờ tài chính công khai, minh bạch khi tham gia các vụ kiện CBPG. Bên cạnh đó, chiến lược kinh doanh quốc tế lâu dài cũng được các doanh nghiệp xây dựng, trang bị kiến thức về luật pháp quốc tế, nắm rõ đặc trưng của thị trường quốc tế, tận dụng ưu thế về những nguồn lực sẵn có như lao động, nguyên liệu đầu vào giá rẻ nhưng cũng hướng tới các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật và vốn cao hơn. Doanh nghiệp linh hoạt điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu, điều chỉnh giá xuất khẩu hạn chế tình trạng giá xuất khẩu thấp hơn giá trị thông thường.
Liên kết của các doanh nghiệp trong các hiệp hội ngành hàng đóng vai trò quan trọng tới kết quả của các vụ kiện. Do đặc thù của Trung Quốc là số lượng lớn các doanh nghiệp nằm rải rác trên toàn quốc, công tác tập hợp, thống nhất chiến lược kháng kiện là cực kỳ khó khăn thì thương hội đã trở thành diễn đàn quan trọng gắn kết các doanh nghiệp với nhau. Thương hội vừa cung cấp thông tin, tư vấn chuẩn bị hồ sơ kiện, thuê luật sư đồng thời trong suốt quá trình theo kiện cũng tiếp tục theo dõi, phối hợp ủng hộ doanh nghiệp. Kênh thông tin dự báo sớm, cung cấp thêm thời gian cho doanh nghiệp chuẩn bị và tổ chức kháng kiện cũng do các thương hội ngành hàng đảm nhận.
4. Vụ việc tiêu biểu : Cộng đồng Châu Âu điều tra chống bán phá giá với chất para-cresol của Trung Quốc
4.1 Diễn biến vụ kiện và các vấn đề liên quan
Ngày 13/5/2002, Công ty TNHH Degussa Knottingley, một công ty của Anh và là nhà sản xuất duy nhất đại diện 100% sản lượng của toàn ngành sản xuất para-cresol của EC đã nộp đơn kiện Trung Quốc chống bán phá giá. Ngày 27/6/2002, Ủy ban châu Âu ra Thông báo Khởi xướng vụ điều tra trên Công báo của Liên minh Châu âu theo đó các sản phẩm para-cresol có xuất xứ từ Trung Quốc được nhập khẩu vào EC sẽ bị điều tra chống bán phá giá. Số lượng các nhà sản xuất Trung Quốc nêu trong đơn kiện là rất nhiều nhưng chỉ có 2 nhà sản xuất hợp tác và cung cấp thông tin theo yêu cầu. Hai công ty trên đã điền đầy đủ các mẫu đơn để xin được “đối xử riêng biệt”. Các chuyến điều tra thực địa được tiến hành tại 2 cơ sở sản xuất Trung Quốc, 1 nhà sản xuất tại nước thứ ba, 1 nhà sản xuất EC, và 1 đơn vị sử dụng sản phẩm liên quan tại EC. Sau quá trình điều tra thiệt hại, Ủy ban Châu Âu nhận thấy rằng mặc dù thực tế mức tiêu thụ của Cộng đồng đã tăng thêm 45% kể từ năm 1998 đến hết giai đoạn điều tra nhưng ngành sản xuất của Cộng đồng không thể hưởng lợi trọn vẹn từ sự phát triển này: lượng bán hàng của ngành chỉ tăng bằng một nửa so với mức tăng trưởng về tiêu thụ của Cộng đồng, trong khi đó lượng nhập khẩu từ Trung Quốc lại tăng đột biến, đặc biệt là kể từ năm 2000. Về xu hướng tăng giá, Ủy ban cũng nhận thấy ngành sản xuất của Cộng đồng cũng đã tăng giá bán hàng ở mức vừa phải trong khoảng thời gian từ 1998 đến hết giai đoạn điều tra. Tuy nhiên, mức tăng giá đó thậm chí không đủ để bù đắp mức tăng giá của các nguyên liệu sản xuất chính. Trong cùng giai đoạn đó, giá hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đã giảm 30%. Thêm nữa, trong giai đoạn điều tra, hàng hóa nhập khẩu của Trung Quốc được bán với mức giá thấp hơn nhiều so với giá của ngành sản xuất của Cộng đồng vốn khi đó đã ở mức thua lỗ kể từ năm 2001 trở đi. Ủy ban nhận thấy rằng tình hình của ngành sản xuất của Cộng đồng đã bị suy sụp trong năm 2001 và 12 tháng của giai đoạn điều tra, đặc biệt là suy giảm về sản lượng, mức khai thác năng lực sản xuất, lượng bán hàng, thị phần, mức sinh lợi, lợi nhuận trên vốn đầu tư và ngân lưu. Vì các lý do này, Ủy ban cho rằng ngành sản xuất của EC đã phải chịu thiệt hại đáng kể.
Hai nhà sản xuất của Trung Quốc có thái độ hợp tác tốt, cung cấp thông tin nhanh gọn, điền đầy đủ các mẫu đơn yêu cầu đã được EC công nhận hoạt động theo cơ chế kinh tế thị trường. Giá trị thông thường của sản phẩm do đó được tính theo giá trị thông thường “xây dựng”, dựa trên chi phí sản xuất, và các chi phí hợp lý khác. Còn đối với các nhà sản xuất không được công nhận quy chế kinh tế thị trường thì GTTT lại được tính theo giá hoặc giá trị tính toán của Nhật Bản là nước thay thế. Đến khi Nhật Bản từ chối hợp tác trong vụ kiện này, EC đã quyết định chọn Hoa Kỳ là nước thay thế.
Khi tính giá xuất khẩu và xác định biên độ phá giá, với 2 nhà sản xuất hợp tác, GXK được xác định trên cơ sở các mức giá đã thanh toán, và khi so sánh với GTTT các loại khấu trừ phù hợp đã được điều chỉnh, với nhà sản xuất không hợp tác, GXK được tính dựa trên GXK bình quân gia quyền của các nhà sản xuất hợp tác tại Hoa Kỳ, sau đó biên độ phá giá lại được so sánh giữa GXK trung bình của 2 nhà sản xuất hợp tác và GTTT tính cho các nhà sản xuất Hoa Kỳ.
Ngày 21/3/2003, EC tuyên bố quyết định áp dụng các mức thuế tạm thời và ngày 20/9/2003 công bố quyết định áp dụng các mức thuế CBPG chính thức với mặt hàng chất para-cresol nhập khẩu từ Trung Quốc.
Ngày 14/12/2003 nhà sản xuất Trung Quốc đệ đơn kháng cáo lên Tòa Sơ thẩm Châu âu yêu cầu hủy quyết định của EC về việc áp dụng thuế CBPG và thu chính thức các khoản thuế tạm thời với lý do EC đã mở rộng phạm vi điều tra ra cả 2 sản phẩm phụ và gộp vào để tính GTTT là vi phạm nghĩa vụ cẩn trọng, quản trị tốt công việc và điều 2 quy tắc CBPG của EC. Trong đơn kháng kiện phía Trung Quốc đã trình bày rất rõ ràng và chi tiết các tài liệu chứng cứ mà phía Trung Quốc đã nỗ lực thu thập được.
Tòa đã quyết định điều tra lại quá trình EC thực hiện vụ việc và phát hiện ra rằng EC đã vi phạm nghĩa vụ kiểm tra cẩn trọng. Tòa đã kết luận EC không thực hiện nghĩa vụ đầy đủ để xây dựng GTTT hợp lý. Cuối cùng tòa đã hủy một phần quyết định bị kháng cáo, phần liên quan tới nhà sản xuất đã kháng cáo.
Sáu tháng sau phán quyết này của Tòa, EC đã đăng một thông báo liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá đối với para-cresol nhập khẩu có xuất xứ từ Trung Quốc nêu rõ rằng theo phán quyết của Tòa, các khoản thuế chống bán phá giá chính thức đã thu theo Quyết định nêu ở phần trên đối với hàng para-cresol nhập khẩu, bao gồm cả các khoản thuế tạm thời đã bị thu chính thức theo Điều 2 của Quyết định, sẽ được hoàn lại. Hệ quả là các nhà sản xuất liên quan sẽ không còn chịu các biện pháp CBPG theo quyết định của EC nữa.
4.2 Nhận xét
Vụ kiện chống bán phá giá mặt hàng para-cresol là vụ việc đáng chú ý bởi nó đã nêu lên một số vấn đề quan trọng mà các nhà sản xuất xuất khẩu của các nước mà EC coi là có nền kinh tế phi thị trường (như Trung Quốc và Việt Nam) trong các điều tra chống bán phá giá phải đối mặt. Ngay cả trong trường hợp các nhà sản xuất xuất khẩu có thể bị được hưởng sự đối xử theo quy chế nền kinh tế thị trường, việc xác định giá thông thường vẫn có thể là một vấn đề khó khăn và nếu không được thực hiện một cách đúng đắn thì những kết quả có thể sai lệch đáng kể theo hướng bất lợi cho nhà sản xuất xuất khẩu. nhấn mạnh tầm quan trọng của việc các nhà sản xuất xuất khẩu phải luôn thận trọng đối với những tính toán mà cơ quan điều tra thực hiện và phải có hệ thống sổ sách kế toán được lưu giữ đúng cách, cho phép xác định rõ ràng tất cả các hạng mục chi phí được bao gồm trong (hoặc được khấu trừ khỏi) chi phí sản xuất của sản phẩm đang bị điều tra. Trên thực tế, mọi yêu cầu điều chỉnh hoặc khấu trừ đối với chi phí sản xuất đều phải được chứng minh trên cơ sở những số liệu ghi trong sổ sách kế toán của công ty.
Vụ việc cũng cho thấy tầm quan trọng đặc biệt của việc điều tra thực địa đối với thành công cuối cùng của một vụ kiện và sự cần thiết của việc công ty phải chứng minh được tất cả những khiếu nại của mình một cách thỏa đáng trong thời gian diễn ra việc điều tra thực địa nếu công ty muốn có cơ hội thấy những khiếu nại đó của mình được EC chấp thuận. Vì vậy, tất cả các nhà sản xuất xuất khẩu liên quan trong các cuộc điều tra chống bán phá giá của EC nên nhớ đến khả năng yêu cầu tòa án xem xét lại khi gặp phải những vấn đề như thiếu cẩn trọng hoặc vi phạm các nghĩa vụ tố tụng rõ ràng của Ủy ban và/hoặc vi phạm quyền tự bảo vệ của công ty.
Chương III
Bài học kinh nghiệm với Việt Nam
1. Tình hình các vụ kiện chống bán phá giá với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam
Thực hiện chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam liên tục được cải thiện, quan hệ thương mại phát triển với số lượng lớn các quốc gia trên thị trường thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường thế giới. Và cũng từ đó, Việt Nam phải đối mặt với các tranh chấp thương mại, và các vụ kiện CBPG của nước ngoài. Từ năm 1994 đến nay, Việt Nam đã có 28 vụ bị kiện CBPG với kết quả là 16 vụ bị áp dụng các biện pháp CBPG (chiếm 57,14%) và một số vụ đơn kiện bị rút lại hoặc vụ kiện chấm dứt do bên khởi kiện không chứng minh được thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa.
Thuế suất cao nhất từng có lên tới 81% đối với mặt hàng nan hoa xe đạp, xe máy vào thị trường Argentina, liền ngay sau đó là mức thuế suất 78,8% với mặt hàng vòng khuyên kim loại vào thị trường EU. Thuế suất thấp nhất có thể kể đến là 7,7% đánh vào mặt hàng chốt cài inox khi vào thị trường EU, bên cạnh đó có thể kể đến mặt hàng tôm khi vào thị trường Mỹ với thuế suất dao động từ 4,13% đến 25,76%. Về các quốc gia khởi kiện Việt Nam thì đa số vẫn là các quốc gia phát triển, trong đó EU đứng đầu tiên với tổng cộng 10 vụ từ năm 1994 đến nay. Các mặt hàng bị kiện đều là hàng công nghiệp nhẹ, nông sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6015.doc